Vào hạ bán thế kỷ thứ mười lăm, những kiếm phái danh tiếng như Võ Đằng Tôn Các ở miền bắc, Bạch Hạc ở đông nam rất được võ lâm sùng mộ. Vùng Kyoto có Hoa Sơn, bấy giờ Khổ Bích còn giữ chức chưởng môn. Ở bang Kuwana, tướng quân Điền Quang Tĩnh nổi danh hào kiệt, vì không những ông là một danh gia kiếm sĩ mà còn là một nhà cai trị quyền uy và khôn khéo. Khi ông mất, dân chúng nhớ ơn người đã đem lại ấm no cho bang, lập đền thờ truyền tụng công đức ông mấy đời sau chưa dứt.
Điền Quang Tĩnh lúc còn trẻ là môn đệ Bạch Hạc phái. Nhờ có kiến thức và đức hạnh, Điền Quang Tĩnh được sư phụ đặc biệt yêu mến, truyền hết các bí quyết cho mà chính con ruột tiên sinh cũng không biết. Theo truyền thuyết thì sau khi sư phụ qua đời, Điền Quang Tĩnh đến lập nghiệp tại bang Kuwana, mở trường dạy võ. Sư huynh ông tới thăm, dùng mẹo hỏi về những chiêu kiếm kỳ bí ấy, Điền Quang Tĩnh chỉ điểm cho hết, song vì tư chất kém cỏi, vị sư huynh này không lý hội được, chỉ học có cái kỹ thuật bên ngoài còn cái tâm vốn là tinh hoa của Bạch Hạc kiếm thì lại sao lãng, nên Bạch Hạc kiếm miền đông nam không sao bằng được kiếm thuật của Điền Quang Tĩnh. Vì thế khi nói đến Bạch Hạc kiếm là phải đến bang Kuwana. Tiếc rằng từ sau khi Điền Quang Tĩnh chết đi, môn học ấy cũng thất truyền và bây giờ thì không còn mấy ai nhớ rõ những yếu quyết ấy nữa.
Trên đây là một trong những truyền thuyết cư dân vùng Kawana ưa kể lại cho khách vãng lai nghe khi học đặt chân đến vùng sơn cước này. So với các chuyện truyền ký khác nhuộm đầy vẻ thần bí phát sinh từ óc tưởng tượng của những người dân rất nặng lòng với mảnh đất quê hương trên đó họ đã cư ngụ hàng mấy mươi đời thì truyền thuyết này cũng không có gì xa sự thật mấy. Đền thời Điền Quang Tĩnh còn kia và danh ông vẫn còn lưu lại hậu thế như một nhà cai trị sáng suốt và một kiếm sĩ lỗi lạc.
Thạch Điền Đạt Lang nghe chuyện trên đây qua miệng người mã phu kể lại sau khi rời thị trấn Kuwana. Hắn chỉ gật đầu và thỉnh thoảng đáp vài tiếng nhát gừng lấy lệ.
Trời gần cuối năm, đang tiết đại hàn, gió tây bắc thổi lạnh buốt như cắt da thịt.
Thạch Đạt Lang mặc phong phanh có cái kimono mỏng, ngoài choàng một tấm áo khoác đã cũ nhàu nát và cáu bẩn, nhiều chỗ bụi đường bám loang lổ. Mặt hắn đen sạm, chiếc nón nan đội trên đầu tơi tả, giá có đánh rơi cũng không ai thèm nhặt. Tóc hắn buộc túm về phía sau, trông rõ ra cung cách kẻ giang hồ khất cái. Tuy nhiên đôi mắt sáng như sao, hàm răng trắng bóng, mỗi khi hắn ngước lên nhìn hay cười nghe chuyện người mã phu kể, khóe miệng cũng như tia mắt ấy có một cái gì ngây thơ tương phản hẳn với khuôn mặt khắc khổ sạm đen vì phong sương của hắn. Một cái gì rất hấp dẫn mà cũng rất quyền uy làm người đối thoại phải kính nể.
Người mã phu, khi nghe hắn gọi dẫn ngựa đến, đã có vẻ e ngại nhưng không cưỡng được. Bây giờ hắn đã ngồi trên lưng ngựa rồi, đi đã quá nửa đường, gã mã phu càng thấy khó có hy vọng đòi được tiền thuê của ông khách lại này ! Gã rụt rè nhắc:
- Thưa khách quan ...
- Gì thế ?
- Chiều nay thì tới Kameyama, nhưng đến đêm chưa chắc đã tới làng Ujii được !
- Hừ ...
Thạch Đạt Lang tuy nghe nhưng không để ý. Dường như hắn mãi ngắm cảnh vật xung quanh. Thực ra về mùa đông, rừng núi tiêu điều chẳng có gì đáng ngắm. Vài gốc cổ thụ trơ trọi đưa những cành đen khẳng khiu lên trời tựa những cánh tay gầy guộc, lá úa rụng đầy lối đi, những mảng rêu trên các tảng đá nứt nẻ đã đổi màu, chỗ vàng chỗ nâu sẫm. Duy chỉ có hàng tùng bách là vẫn xanh tốt, tàn lá sum sê không coi gió lạnh ra gì cả. Hàng tùng bách này hợp với tâm trạng hắn chăng mà sao hắn cứ quay đầu nhìn mãi?
- Ujii là một xóm nhỏ ở lưng chừng núi, vắng teo vắng ngắt, khách quan đến đấy làm gì ?
- Ta đến thăm một người.
- Chỉ có hai ba nông dân nghèo khổ ở đó làm rẫy cùng với mấy lão tiều phu già, chặt củi đốt than chứ có ai đâu ...
- Tại Kuwana, ta nghe nói ở đó có tay giỏi nghề sử loại võ khí đặc biệt lắm.
- Chắc khách quan muốn nói Chu Kế Phong ...
- Phải rồi, Chu Kế Phong. Nhưng đấy là họ, tên hắn là gì ?
- Tất Đạt.
- Ờ ! Chu Kế Phong Tất Đạt ! Phải rồi !
- Y làm nghề thợ rèn liềm và lưỡi hái. Y có chế ra một thứ võ khí giống như cái hái, lợi hại vô cùng, làm nhiều kẻ mất mạng. Thế ra khách quan cũng là kiếm sĩ đấy !
- Hừ ... hừm ...
- Khách quan là kiếm sĩ, hay để tiểu nhân dẫn đi Matsuzaka. Nơi đó có nhiều tay giang hồ hảo hán kiếm thuật nổi tiếng lắm.
- Những ai, kể ta nghe thử ?
- Trúc Vô Công Tử Hãn, Dương Nguyên Sinh chẳng hạn.
Thạch Đạt Lang gật đầu:
- Ta cũng có nghe tên những người ấy.
Hắn không nói gì thêm nữa khiến người mã phu tưởng ông khách lạ biết rõ, nhưng không lưu tâm. Cả hai, kẻ dẫn ngựa và người cưỡi ngựa theo đường núi gập ghềnh lầm lũi tiến về phía trước.
Đến Kameyama, Thạch Đạt Lang xuống ngựa, vào một quán ven đường ăn lót dạ.
Hắn bước khập khiểng vì vết thương ở gan bàn chân do cái đinh hắn dẫm phải khi còn ở trấn Kuwana bây giờ nung mủ làm hắn nhức nhối khó chịu. Hắn phải thuê ngựa cưỡi chứ không dám đi bộ. Thạch Đạt Lang xin chủ quán chậu nước, tháo dép ra coi, thấy chỗ vết thương đỏ ửng như quả hồng sắp chín, sờ vào nóng và đau lắm. Hắn rửa sạch, dùng vải buộc lại và tự trách đã vô ý để xảy ra chuyện đáng tiếc ấy.
Theo tiêu chuẩn của hắn thì như vậy là hắn thua cái đinh. Là kiếm sĩ, hắn đã không cảnh giác đến nỗi cái đinh nằm nhô đầu lên rõ ràng như vậy mà không tránh nổi:
giác quan của hắn chưa đủ linh mẫn. Tệ hơn nữa, sự phản ứng lại chậm chạp để đầu đinh xuyên qua dép và sâu trong gan bàn chân. Đáng lý ra hắn phải nhảy tránh ngay khi cảm thấy mũi đinh chạm vào da mới phải.
Thạch Đạt Lang bực bội về sự non kém ấy. Óc và toàn thân hắn chưa đồng nhất thì nội lực hắn dù có dồi dào đến đâu chăng nữa, những cảm nhận vẫn còn chậm chạp, xuất thủ không đủ thần tốc, chiêu kiếm sẽ vì thế mà kém phần uy mãnh.
Trên đường theo đuổi kiếm đạo, Thạch Đạt Lang luôn luôn bị ám ảnh bởi sự tận thiện tận mỹ, và những ám ảnh ấy đã làm hại đến lòng tự tin của hắn. Không lúc nào hắn không lo tự tu tự kiểm. Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm qua, nếu không được như thế, hắn cho là mình đang xuống dốc. Mặc dầu trong những năm gần đây, từ khi rời khỏi căn thạch thất, hắn đã giao đấu với nhiều người, một số là cao thủ võ lâm, nhưng vẫn chưa tìm được ai đáng gọi là người có khí phách, một người đủ nhân, trí, dũng xứng đáng là đối thủ của hắn.
Võ lâm tuy đông đảo, nhưng sự thiếu vắng mẫu người lý tưởng làm Thạch Đạt Lang thất vọng. Đôi khi hắn chỉ còn biết tự an ủi cho là vì mình chưa đủ từng trải nên chưa gặp. Những lúc ấy, hắn lại liên tưởng đến Đại Quán, nhà sư lạ lùng đã hé mở cánh cửa thiền, chỉ cho hắn thế nào là cái tâm của người cầm kiếm. “Đời người có số mệnh. Nếu số mệnh đã run rủi ta gặp Đại Quán thì ta phải cố gắng đừng để những lời ông chỉ bảo ta không mang lại kết quả”.
Thạch Đạt Lang tự nhủ. Đại Quán là một người khác thường. Không thể bảo ông là người bất trí. Quan niệm về nhân và dũng của ông cũng khác lạ. Nghĩ đến đây, hắn cảm thấy đau nhói ở cổ tay và cảm giác ấy lan dần ra khắp thân thể như cơn đau hắn cảm thấy khi bị treo lủng lẳng trên cành đại bách sau chùa Tiểu Sơn dạo nào. Cảm giác ấy phát sinh hoàn toàn trong cõi vô thức, hắn dùng ý chí dẹp đi và tự nhủ sau này sẽ tìm cách lừa và bắt Đại Quán trói vào cây đại bách như ông đã trói mình khi trước. Nghĩ như vậy, tuyệt nhiên hắn không có ý gì muốn trả thù, có lẽ chỉ muốn giải tỏa những ẩn ức. Nhưng ý nghĩ ấy khiến Thạch Đạt Lang mỉm cười. Đại Quán chắc không tức giận đâu, có lẽ ông chỉ mỉm cười mà nói:
“Đồ ngu. Cũng tiến bộ đôi chút đấy, nhưng làm thế để làm gì hở thằng ngốc ?.
Thạch Đạt Lang lạc trong những ý nghĩ mung lung ấy. Trong những lúc suy tư khắc khoải hoặc nghi ngờ khả năng của chính mình, hắn thường lên núi cao sống cảnh cô đơn tịch mịch giữa thiên nhiên. Hắn sống ra sao, chỉ có cây rừng, đá núi và hắn biết.
Lúc trở về, má hắn hõm, mặt hắn sạm đen, tóc cứng như rễ tre, quần áo lôi thôi lem luốc, nhưng mắt hắn sáng hơn, tựa như những hòn than hồng trong lò sẵn sàng tung ánh lửa ra xung quanh, thiêu đốt. Bấy giờ hắn không khác gì một con thú với sức mạnh vô biên, hung hãn, chỉ có hắn mới chế ngự được. Hắn ra đi, đông tây nam bắc, bất kỳ chỗ nào nghe nói có những quái nhân hay kiếm khách hơn người là hắn cũng tìm đến cho bằng được. Để tự chứng minh tài năng. Để củng cố lòng tự tin gần như ngạo mạn. Và cũng vì thế mà hắn có mặt tại sơn đạo ngày hôm nay.
Còn nửa tháng nữa mới đến tiết thượng nguyên, Thạch Đạt Lang không dằn lòng được khi nghe người ta nói đến Chu Kế Phong Tất Đạt nên nhất quyết đến vùng núi này tìm con chim lạ ấy:
Tất Đạt, một con người khí phách hay chỉ là giá áo túi cơm như muôn ngàn giá áo túi cơm khác hắn đã gặp trên bước đường hành hiệp ?
Thạch Đạt Lang và gã mã phu đến xóm Ujii thì trời đã khuya. Hắn cảm ơn, trả công xong, định vào trong xóm thì người mã phu giữ lại, rụt rè hỏi:
- Khách quan đến nhà ai ?
- Chu Kế Phong.
- Bây giờ khuya rồi, từ đây về đến trấn cũng hết đêm. Khách quan cho tiểu nhân theo được không ? Tiểu nhân ngủ ngoài hiên, tìm cái gì cho ngựa ăn, rồi sáng mai kiếm mối trở lại trấn, cũng được thêm chút tiền.
Nhìn gã mã phu, Thạch Đạt Lang thương hại. Thân thể gã gầy yếu, chiếc áo chẽn với sợi giây thừng thắt ngang lưng đã sờn rách, đôi dép cỏ mòn vẹt gót. Đêm nay lạnh, có thể có tuyết rơi, đi tắt đường nào thì cũng không về đến Kuwana trước khi trời sáng.
Hắn gật đầu:
- Vậy theo ta. Nếu không tìm được nhà Chu Kế Phong thì mình tìm chỗ khác !
Chu Kế Phong mở một lò rèn. Giá trời chưa tối, hỏi thăm quanh đấy chắc họ chỉ đường cho ngay, nhưng khuya khoắt thế này bất tiện quá. Trong thôn yên lặng, ngoài tiếng chày gỗ đập thình thịch đều đều, không còn nghe tiếng gì khác.
Thạch Đạt Lang đồ chừng có người còn giã gạo hay đậu gì đó, bèn cùng với người mã phu theo hướng tiếng chày mà đi tới. Một lúc sau thấy lập lòe ánh sáng qua lùm cây, rồi cả hai đến trước một căn nhà ngoài hiên than củi xếp ngổn ngang và lù lù một đống sắt vụn. Cánh cửa hé mở, ánh sáng vàng vọt của bếp lửa đặt giữa nhà bập bùng vẽ lên vách lem nhem mồ hóng những hình thù cổ quái đang nhảy múa. Trước bếp lửa, một người đàn bà ngồi xoay lưng ra ngoài, tay áo xắn cao, đang dùng một cái chày gỗ ra sức đập vào mớ quần áo để trên phiến đá.
Thì ra họ đã đến đúng cửa hàng lò rèn của Chu Kế Phong. Gã mã phu đẩy cửa bước vào. Người đàn bà giật mình kêu lên một tiếng ngắn.
- Chào bác. Trong này ấm quá nhỉ, bác cho sưởi nhờ chút.
- Ngươi là ai ? Hỏi gì ?
Gã mã phu đến ngồi xổm bên bếp, xòe hai tay ra đưa đi đưa lại trên ngọn lửa:
- Tôi là mã phu ở trấn dưới. Có khách quan đây muốn gặp bác Tất Đạt.
Người đàn bà quay ra, vừa lúc Thạch Đạt Lang bước vào. Nhìn y phục và dáng khập khiễng của hắn, thiếu phụ hơi cau mặt, giọng hách dịch:
- Đóng cửa lại ! Gió lùa làm thằng bé cảm bây giờ !
Thạch Đạt Lang lùi lại khép cửa rồi ra ngồi trên khúc gỗ cạnh vách. Phòng trong có tiếng động, thiếu phụ bỏ đống quần áo đang giặt, chạy vội vào. Thạch Đạt Lang nhìn theo thấy bà ta lật chăn, bế một đứa trẻ nhỏ lên cho bú.
Hắn đảo mắt nhìn quanh. Căn phòng hắn ngồi có lẽ là cửa hàng vì ở góc thấy có một cái bễ bỏ không, trên vách treo la liệt những lưỡi liềm, cuốc, dao phát và một vài nông cụ lặt vặt khác. Trần nhà mồ hóng bám đen, rủ xuống lòng thòng như thạch nhũ.
Gần cửa vào phòng trong, có treo một nông cụ hình thù quái dị hắn đoán chừng là món võ khí người mã phu nói đến hồi nãy. Mắt Thạch Đạt Lang sáng lên. Hắn để ý quan sát, quả là một thứ võ khí kỳ lạ, giống như cái gậy ngắn, rất tiện giắt thắt lưng, đầu có khoen, móc sợi dây xích sắt. Cuối sợi xích là một quả đầu tròn không biết làm bằng gì nhưng trông có vẻ nặng. Tiếng người đàn bà trong phòng vọng ra.
- Chắc khách quan cũng là một trong những lãng nhân giang hồ đi khất cái để tìm thầy học võ chứ gì ! May mà trượng phu ta đi vắng chứ nếu không thì hẳn không toàn thây ra khỏi chỗ này đâu !
Người mã phu tỏ vẻ bất bình. Gã nhìn vào phòng trong rồi liếc xéo Thạch Đạt Lang thấy hắn vẫn giữ vẻ điềm tĩnh. Thiếu phụ cười hích hích ra vẻ tự mãn và bằng lòng với câu nói này lắm. Không muốn để mất lòng người đàn bà, Thạch Đạt Lang hỏi:
- Thế ra Chu gia đi vắng hả ? Đi đâu vậy ?
- Đền Arakida.
- Đền Arakida ở đâu ?
- Đến Ise mà không biết đền Arakida thì lạ thật !
Tiếng thằng bé cựa quậy và khóc. Người đàn bà ru khe khẽ:
À ơi cái ngủ mày ngủ cho say Đừng theo những trẻ quấy ngày khóc đêm Cái ngủ mày ngủ cho bền Quấy nhiều khóc l