Điếu văn đọc trong lễ tang Vũ Trọng Phụng
Tác giả: Lưu Trọng Lư
Anh Vũ Trọng Phụng,
Cái tin anh chết làm cho chúng tôi vô cùng cảm động, nhưng mà không làm tôi ngạc nhiên chút nào. Vì tôi đã biết trước rằng ngày hôm nay sẽ đến, cái ngày anh sẽ đành đoạn bỏ chúng tôi mà đi. Cái bệnh ác hại ấy đã làm tan hết bao nhiêu hy vọng mà chúng tôi gởi ở anh, trong sự nghiệp của anh, trên thân thể của anh. Không những chúng tôi là một bọn văn hữu thường ngày ở cạnh anh, mà những người khác nữa, những độc giả vô danh, xa xôi ở khắp đất nước, những người đã cảm phục anh đã yêu mến anh - mà những người ấy không phải là ít - họ đã biết tin anh ốm, rồi cái tin sầu thảm hôm nay nữa, thì họ sẽ đau đớn sẽ căm giận biết chừng nào. Mà căm giận ai? Kẻ thù của chúng ta, than ôi, bao giờ cũng là Định Mệnh. Ta là người thế nào nữa, với ta, Định Mệnh cũng chẳng nới tay. Ai cũng biết thế, tôi cũng biết thế, mọi người hôm nay theo sau linh cữu anh cũng đều biết thế cả. Nhưng hồn anh có linh thiêng, anh cũng như chúng tôi, sẽ ở với chúng tôi trong một ngậm ngùi vô hạn.
Tôi có nên thú với anh là khi tôi được báo Tao Đàn và Tiểu thuyết thứ bảy cử tôi thảo bài điếu văn này, cử chỉ thứ nhất của tôi là từ chối: tôi sợ rằng sẽ rơi vào cái khách sáo của một bài điếu tang. Mà với anh, lúc sống cũng như lúc chết, chúng tôi có thể nói được một câu khách sáo, tầm thường, một câu không phải tự lòng chân thành mà thốt ra. Nghĩ đi thì như thế, nghĩ lại thì thật không đành.
Anh Phụng ơi! anh không là một ở trong những người ấy, chết đi mà không đáng có một bài điếu văn, một bài điếu văn để tỏ rằng: anh là một nhà văn xứng đáng với sự tôn sùng của tất cả văn hữu. Những người hôm qua đây, còn không ưa anh, còn thù ghét anh nhưng hôm nay họ cũng phải cúi đầu trước mộ anh, một nhà văn mà cái thiên tài không còn nghi ngại được. Nhưng tôi chưa muốn nói vội về cái sự nghiệp văn chương của anh, tôi muốn nói cho anh hiểu: tại sao cái vinh dự được đọc bài thương tiếc anh, tiễn đưa anh lại giành riêng cho tôi. Điều ấy, là tại người cắt cho tôi phần việc ấy nghĩ rằng: chúng ta là những người đã cộng tác với nhau trong lâu năm; tên tôi đã được đứng luôn luôn ở cạnh tên anh, trên những tờ Tiến hóa, Tân thiếu niên, Hà nội báo, Đông dương và gần đây là trên tờ Tao đàn và Tiểu thuyết thứ bảy.
Cái cớ thứ hai là các bạn văn đều biết rằng, anh với tôi là hai thái cực, trong văn chương cũng như trong cuộc đời. Người ta nghĩ rằng: những người trái nhau, phản nhau, bao giờ cũng hiểu nhau hơn. Tôi cũng nghĩ như thế, nên hôm nay mới thảo bài điếu văn này.
Nhưng thưa anh, thưa các ngài, tôi không có ý trình bày ở đây một “nhân phẩm”. Tôi chỉ muốn nhân bài điếu tang này, mà nói một sự thực mà thôi: anh là vào hạng những người dễ bị hiểu lầm. Sự hiểu lầm ấy bắt đầu từ ở trong văn chương.
Tôi nhớ một bận trong một nhà khách thính ở Thanh Hóa, có nhiều người tình cờ nhắc đến tên anh, và họ nói chuyện với nhau về anh. Họ đã hình dung anh như là một người đã có tuổi, lõi đời, nhanh nhẹn, láu lỉnh, sành thạo. Một người mà họ tưởng chừng như khi đến gần thì không thể không lo sợ, không thể không ngờ vực, và không thể không đề phòng.
Nhưng sự thực có phải như thế không, tôi xin hỏi những bạn thân sơ đã ăn một bữa cơm, ngủ một đêm, ngồi một tiệc rượu với tác giả Cạm bẫy người, Giông tố, Số đỏ, Kỹ nghệ lấy Tây, Trúng số độc đắc. Tôi chắc ai nấy sẽ trả lời rằng: Người vừa từ giã chúng ta tuy là một nhà văn tài lỗi lạc, mà than ôi! chỉ là một người bình dị, một người cha đứng đắn, một người chồng đứng đắn hơn, một người con rất hiếu, người của khuôn phép, người của nề nếp. Cái đồng hồ luôn luôn ở trong túi áo, và những kim chỉ giờ chỉ phút không bao sai lạc với đồng hồ của những người hàng phố, của tất cả những người khác trong xã hội. Sự cẩn thận, sự chu đáo của Phụng đã thành tục ngữ. Đến nỗi có người đã phải cho Phụng là một viên chức trong nghề báo. “Viên chức” ở chỗ không có một món tiền vặt nào mà không biên vào sổ, “viên chức” ở chỗ không có một đám cưới, đám ma nào mà Phụng bỏ nhãng quên cái sự thù tạc. Con người ấy không giết qua một con muỗi, nhưng kỳ diệu! văn chương người ấy đã làm cho kẻ trọc phú phải giật mình, kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh. Vì đâu có cái nguồn cảm mãnh liệt ấy mà người ta tưởng như không thể tìm được ở anh? Vì đâu cái sức sáng tạo mầu nhiệm ấy, vì đâu cái sức mạnh ấy của tâm hồn? Vì đâu cái đanh thép ấy của giọng văn? Vì đâu? Thưa các ngài, đó chỉ là bí thuật của thiên tài, và đó là sức mạnh của sự tin tưởng. Người nào bảo không tìm được ở Phụng một lòng tin, kẻ ấy đã lầm. Kẻ nào không thấy ở Phụng một sức mạnh, kẻ ấy lầm hơn nữa. Lòng tin không có ở sự tung nổ. Sức mạnh không ở sự ồ ạt, ở sự gào thét. Cái tiếng búa bổ xuống và kêu ầm ầm chắc gì mạnh hơn cái đe, chỉ âm thầm mà chịu. Cái sức mạnh của Vũ Trọng Phụng là cái sức mạnh âm thầm của cái đe vậy. Sức mạnh ấy là một sức phản động lại những cái gì đã bất công đã đồi bại, đã mục nát, cái rởm cái xấu của những ông trưởng giả. Tất cả cái sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng là phơi bày là chế nhạo tất cả những cái rởm, cái xấu, cái bần tiện, cái đồi bại của một hạng người của một thời đại. Vũ Trọng Phụng, đối với thời đại của Vũ Trọng Phụng, cũng giống như Balzac đối với thời đại của Balzac. Hai văn tài tuy có cách biệt nhưng ở đâu người ta cũng thấy một cái giọng chua chát, bực dọc ấy. Hai nhà văn kia không hề đề xướng một cái gì, chỉ có phá hoại mà thôi. Đó là một việc cần thiết trong việc gây dựng lại một nền kiến trúc mới mẻ và đẹp đẽ. Ta chỉ tiếc một điều là những cái mục nát, cái thối tha, cái gàn dở, cái rởm, cái tồi của một thời đại vẫn còn, mà nhà văn của thời đại ấy không còn nữa. Vũ Trọng Phụng đã chết rồi! Đó là một sự thực ác hại cũng như bao nhiêu sự thực đã nói ở trong các cuốn truyện Giông tố, Số đỏ, Trúng số độc đắc, v.v...
Cái chết ấy, đã để lại bao nhiêu sự tiếc thương trong hàng ngàn gia quyến của ông bạn mà tất cả những ai theo đến đây cũng không thể không tự hỏi một câu: “Người ấy mà chết vội thế ư? Đời còn cần người ấy biết chừng nào”.
Không, tương lai anh, không ai lại tin là ngắn ngủi như thế. Anh là người, như ai nấy cũng biết, sống giữa chúng tôi với cái sứ mệnh là tìm cái sự thực ở trong lòng người và trong cuộc đời - anh là một kẻ phóng viên của cuộc đời - lẽ ra, trời phải để anh đi cho cùng đường và chúng tôi còn mong đợi ở anh câu kết luận sau chót về cái sự rất rối ren này là cuộc nhân sinh. Nhưng chữ cuối cùng anh chưa kịp nói mà Trời Phật đã gọi anh về. Anh Phụng ơi! Anh có biết chăng, mất anh, chúng tôi mất đến thế nào!
Anh chưa được một nửa đời người. Văn chương còn mong đợi ở anh nhiều lắm. Với cái chết của anh, chúng tôi đã mất đi hết một nửa cái văn tài. Chúng tôi không phải là những người tham lam: muốn đòi hỏi ở anh nhiều quá. Nhưng thú thật, anh là một “mặt lạ” trong văn chương, thiếu anh, chúng tôi thiếu nhiều lắm. Nhưng như thế, không có nghĩa là chúng tôi muốn đòi hỏi ở anh nhiều quá sức anh. Anh đã thu của cuộc đời được những gì mà bắt anh hiến nhiều thế? Không, tôi biết anh là một nhà văn, chỉ là một nhà văn sống trong sự bần bạc, chết trong sự bần bạc. Và anh đã “cung hiến” nhiều hơn là “thu nhận”. Hôm nay dứt áo ra đi, tâm hồn anh có quyền được an thỏa. Không còn gì giữ vướng anh được: với mẹ, với vợ, với bạn hữu, với văn chương, với báo giới, anh đã làm tròn phận sự không ai còn trách anh được một điều gì. Nhưng có bao giờ ai lại muốn: những hoa tàn ngay trong cái giờ hoa nở. Thế mà số mệnh đã muốn anh đi ngay trong cái văn tài anh cũng vừa “nở” giữa cái hương vị đầu tiên của cuộc đời. Anh là một đóa hoa còn mơn mởn ở trên cành niên thiếu, thế mà giời ôi! Hoa đã rụng rồi!
Anh và tôi và tất cả những người chung quanh huyệt anh đây, không một ai muốn thế. Nhất là anh độ gần đây, anh lại hay tỏ ra rằng: anh rất sợ cái chết. Mỗi khi tôi xuống thăm anh, anh hết sức che đậy những dấu hiệu bất thường...
Văng vẳng tôi còn nghe giọng anh nói:
- Không, hôm nay trở trời, tôi mới ho, chứ hôm qua tôi thường lắm, tôi còn đi ra phố!
- Không, bàn tay tôi hôm nay không lạnh thế đâu. Hôm qua tôi còn ngồi sưởi nắng.
Té ra, tôi chỉ lựa những lúc bạn tôi thật ốm, tôi mới đến. Thực thì, có ngày nào khác ngày nào đâu: bạn tôi vẫn mệt, tay chân lạnh giá, và ho luôn...
Có hôm tôi muốn tỏ rằng mình trấn tĩnh đây, còn xa cái chết, bạn bảo tôi:
- Anh trả tôi những tờ Tiểu thuyết thứ bảy và Ngày nay để đủ cho tôi làm collection. Nhất là anh trả quyển Số đỏ.
Nhưng trời ơi! Tôi có muốn giả nữa, tôi sẽ giả cho ai bây giờ? Vợ con anh sẽ không muốn nhận những cái gì có thể gợi lại những hình ảnh đau khổ, những người thân anh, trong lúc đau khổ này, còn ai muốn đọc văn anh?
Không, sự trấn tĩnh của anh không thể cứu anh, cái chết một ngày một đến gần, cho tới khi cướp anh đi. Tôi biết anh đã sống từng giây từng phút kinh sợ đau đớn, trước sự hiển hiện của tử thần. Nhưng anh đã chết như một kẻ chiến sĩ đã tranh đấu đến phút cuối cùng. Tuy anh ngã, mà tất cả sự vinh quang đã về anh, sẽ về anh.
Anh là một nhà văn. Tên tuổi anh sống mãi trong sự nghiệp anh. Ở chỗ này, Tử thần đã không thể làm gì nữa. Anh đã chuyển “bại” thành “thắng”. Vâng, anh đã “thắng” vì anh sống mãi bởi văn nghiệp của anh. Thôi, xin mời anh đi, và anh nên an thỏa. Ở đây, hay ở kia, anh vẫn là một người có quyền an thỏa.
Tao Đàn, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng, 1939