Sức siêu cường cũng có hạn !
Tác giả: Nguyễn Bặc
Lịch sử trước sau gì cũng trừng phạt những điều gian ngoan, dối trá , nhưng có lẽ việc này chưa khi nào xảy ra nhanh chóng như tại Irak vừa qua. Chỉ một năm sau khi viện ra hàng loạt lí cớ để mở màn cuộc chiến xâm lược -bất cần công pháp quốc tế, bất kể phản đối của LHQ- hôm nay chính quyền Bush đang ôm cục nợ đời Irak với những hậu quả chưa thể lường được cho khu vực Trung Đông và cho an ninh cả thế giới.
Tuy vậy khi kiểm điểm một năm đánh chiếm Irak, con mèo Washington cũng cố tìm mọi cách để khen mèo dài đuôi. Một bản liệt kê các thành quả đã được trình làng với báo chí quốc tế: Dân Irak đã thoát khỏi một chế độ độc tài cực kì khát máu; Saddam thì đã bị moi cổ lên từ một cái hầm nhỏ tối tăm, bắt cạo râu húi tóc để chờ ngày ra toà đền tội; bản Hiến pháp lâm thời cũng đã được các phe phái kình chống của Irak thoả thuận xong, ghi nhận nhiều quyền tự do dân chủ căn bản mà nhiều nước trong vùng không hề có được; trong 3 tháng nữa mà thôi, quân chiếm đóng sẽ giao quyền lại cho một chính quyền Irak; và cuối cùng, không còn Saddam, thế giới nói chung (và Hoa Kỳ nói riêng) đã an ninh hơn trước.
Nghe ra thì cũng hồ hởi phấn khởi đôi chút, tuy nhiên thực tế ngày nay đang nói một ngôn ngữ khác. Về mặt chính trị và kinh tế-xã hội, Irak đang ngụp lặn trong hỗn loạn và bấp bênh. Nguyên nhân là một loạt các sai lầm căn bản mà lực lượng chiếm đóng Mỹ đã gây ra –vô tình hay cố ý, chúng ta không biết- trong những tuần lễ đầu tiếp thu quyền hành tại Bagdad: Thứ nhất, người Mỹ đã khoanh tay đứng nhìn các đoàn trộm cướp hôi của, kéo nhau đi ăn cướp như từng bầy châu chấu phá hoại mùa màng. Bên cạnh các bộ, ti, công sở, nhà thương, thì các viện bảo tàng, các thư viện quốc gia, trường đại học… bị vơ vét tàn bạo nhất, cướp sạch sành sanh các gia sản của quốc gia Irak -mà cũng là gia sản văn hoá quý báu của cả thế giới. Kí ức của một quốc gia đã bị xoá sạch. (Trong tất cả các bộ của Irak, chỉ có bộ dầu hoả là không bị hôi của, vì có lính Mỹ đứng canh trước cổng).
Sai lầm thứ hai của lực lượng chiếm đóng là quyết định giải thể toàn bộ quân đội và cảnh sát Irak, đánh giá sai lầm rằng quân đội này là cánh tay của chế độ Saddam. Đột nhiên, trên cả nước bỗng có hàng triệu thanh niên thất nghiệp, bất mãn, mà lại đã có rất nhiều kinh nghiệm sử dụng vũ khí. Giá rằng cứ giữ nguyên cơ cấu quân đội và cảnh sát Irak (nhưng chỉ thay vài tướng lãnh chóp bu có dính dáng với bộ tộc Saddam mà thôi), có lẽ người Mỹ sẽ không tốn công và tốn tiền kinh khủng như lâu nay để xây dựng một lực lượng an ninh Irak còn non yếu. Tình hình an ninh trong nước chắc chắn sẽ không thể tồi tệ như ngày nay và sự hợp tác của nhân dân Irak với công quyền sẽ tốt hơn nhiều.
Sai lầm tai hại thứ ba của Mỹ là đã tin tưởng mù quáng và đưa các chính khách Irak lưu vong về nước, giao cho nhiều trọng trách trong chính trị và bộ máy hành chính chiếm đóng. Những ông bà „Irak kiều“ này đã mất hết liên hệ với người dân Irak hàng chục năm qua, không thông hiểu tâm lí dân họ bằng tâm lí của quan thầy Mỹ, nên bị dân chúng ghét cay ghét đắng. Mấy chính khách xa-lông này được đặt ngồi chung bàn trong cái gọi là „Hội đồng chính phủ Irak“, cùng với những đại diện sắc tộc và giáo phái Irak, mà nhiệm vụ chính là gườm gườm canh nhau để thủ lợi cho cá nhân và phe nhóm trong một chính quyền Irak tương lai.
Trong khi đó ngoài đường phố, các cuộc phục kích của quân nổi dậy, các vụ đánh bom tự sát, bắn hoả tiễn vô tận trung tâm thủ đô Bagdad xảy ra như cơm bữa, chứng tỏ sự bất lực hoàn toàn của lực lượng chiếm đóng Mỹ trong việc duy trì an ninh trong nước. Đời sống hàng ngày thê thảm của người dân sau một năm cai trị của Mỹ -thiếu điện, thiếu nước, thiếu thuốc men, thiếu công ăn việc làm,…- cho thấy các quan chức trong toà Nhà Trắng ở Washington trước đây đã ham mê như con nít những kế hoạch đánh đấm kiểu Hightech mà quên bẵng đi những kế hoạch hậu chiến, gọi là Nation building, vừa phức tạp, vừa tốn tiền hao sức hơn nhiều. Các vụ khủng bố đẫm máu đối với sắc tộc Kurden phía Bắc cũng như với nhóm giáo phái Schiit phía Nam, là dấu hiệu cụ thể của nguy cơ nội chiến tương tàn, dai dẳng giữa các giáo phái cực đoan, các sắc tộc Irak, một khi quân Mỹ rút đi trong tương lai.
Trong bối cảnh này, thì việc thành hình một chính quyền thân thiện với Mỹ tại Irak trong tương lai gần là điều khó xảy ra. Có nhiều khả năng hơn, là sự ra đời của một chính quyền Schiit, làm nền tảng cho một trục chính trị Bagdad-Teheran, một điều sẽ làm cho bao nhiêu công lao, tiền của và máu của các thanh niên trai tráng Mỹ đổ ra cả năm qua vào vùng sa mạc Irak trở thành vô tích sự: Độc tài Saddam cuối cùng như vậy cũng chỉ được thay thế bằng độc tài của các ông đạo Ayatollah hay sao? Các mục tiêu địa lí-chiến lược mà người Mỹ muốn đạt được khi đi đánh chiếm Irak –cô lập Iran có giáo quyền cực đoan, đối trọng với Saudi Ả rập có chế độ phong kiến tham nhũng- sẽ tiêu tan thành mây khói hay sao?
Các cuộc tấn công của khủng bố từ Bagdad đến Madrid trong tháng Ba qua cho thấy cuộc chiến Irak đã không đem lại an ninh hơn cho thế giới -trái lại là đằng khác! Nếu cuộc tấn công Afghanistan ngay sau vụ khủng bố ngày 11 tháng Chín đã tước đoạt đất sống của bọn khủng bố Al Qaida và Taliban, thì cuộc tấn công chiếm đóng Irak đã làm cho chúng thêm sức người sức của, vì đã tạo ra cho chúng một chính nghĩa mới (chống Mỹ xâm lược, chống sự xấc láo của bọn vô đạo Tây phương) và dâng cho chúng một dải đất dung thân lí tưởng (Irak với kho vũ khí vô tận chôn giấu lâu nay, với hàng triệu người dân bất mãn, với một xã hội tha hoá từng ngày).
Kẻ thù khủng bố toàn cầu mà ông Bush và các tay tân bảo thủ Mỹ hô hào đòi đánh đông dẹp tây để tiêu diệt, ngày nay đã trở thành hung mãnh, tinh vi, khôn hiểm hơn là trước cuộc chiến Irak. Các hạt nhân khủng bố nằm vùng của Al Qaida ngày nay hoạt động riêng rẽ, tự túc tự cường trong từng mỗi khu vực. Vụ khủng bố đẫm máu tại Madrid cho thấy thế hệ khủng bố mới tuy không còn chịu sự chỉ huy trực tiếp của trung ương Bin Laden, nhưng đã mang dấu ấn rất đậm của Bin Laden: 13 quả bom, đặt trên 3 chiếc xe lửa, xuất phát từ ngoại ô, chạy vào 3 nhà ga lớn của thủ đô Madrid lúc sáng sớm có nhiều người đi làm, được ra lệnh nổ qua tín hiệu của điện thoại di động cùng một lúc, vào ngày 11 tháng Ba, 3 ngày trước tổng tuyển cử Tây Ban Nha.
Lớp thành viên Al Qaida cũ, ôm bom tự sát hay khủng bố giết càng nhiều người càng tốt, nay hình như đã được thay thế bằng những thành viên trẻ hơn, được huấn luyện về kĩ thuật vi tính một cách chuyên nghiệp hơn, mà lại có khả năng phân tích tình hình chính trị lạnh lùng hơn: Hồi cuối năm ngoái, các chuyên gia chống khủng bố của Na Uy đã tìm ra một tài liệu dài 42 trang của Al Qaida, được tán phát trên Internet, trong đó bọn khủng bố đã phân tích một cách khoa học, là tại sao phải chọn Tây Ban Nha để đánh gục bằng khủng bố, nếu muốn phá gãy cái gọi là „Liên minh của phe chí nguyện“ do Mỹ lãnh đạo tại Irak.
Đúng 911 ngày sau vụ 11 tháng Chín tại Mỹ, cuộc khủng bố của thế hệ Al Qaida mới tại Madrid đã gây những hậu quả sâu rộng: 200 người chết, 1500 người bị thương, cả Âu châu rúng động, đảng bảo thủ thân Mỹ của Aznar thua xấc bấc xang bang, đảng Xã hội của Zapatero thắng to bất ngờ, đòi rút quân Tây Ban Nha tại Irak về (nếu không có mạng lệnh của Liên Hiệp Quốc). Ba Lan, một đồng minh mới của Mỹ -thuộc về khối „Âu châu mới“, theo cách nói của bộ trưởng quốc phòng Rumsfeld- đang có vẻ lung lay lập trường, khi đặt lại vấn đề về chủ trương quá hăng hái của nước mình chạy theo Mỹ trong cuộc chiến Irak. Tuần qua, trước đông đảo báo chí Âu châu, Tổng thống Ba Lan Kwasniewski đã bày tỏ sự thất vọng vì đã bị lừa trong vấn đề thông tin về các vũ khí giết người hàng loạt tại Irak dù ông không nêu đích danh Hoa Kỳ và Anh quốc. Ông cũng cho hay Ba Lan sẽ rút quân vào đầu năm 2005, như vậy là sớm hơn thời hạn mà họ từng cam kết trước đây.
Các lời tuyên bố này chắc chắn không cho ông Bush vui vẻ trong cuộc tranh cử đang gay go hiện nay, khi mà cuốn sách "Against All Enemies" của ông Richard Clarke -một cựu cố vấn cao cấp về các vấn đề khủng bố của Bush và của 2 đời tổng thống tiền nhiệm Hoa Kỳ- được bán chạy như tôm tươi (500.000 cuốn trong 3 ngày!), trong đó Clarke thẳng thừng tố cáo Bush đã không lưu tâm đúng mức đến việc chống khủng bố Al Qaida trước vụ 11 tháng Chín, đã nhắm mắt làm ngơ trước Bin Laden bất kể những khuyến cáo của Clarke, mà chỉ đeo đuổi chủ trương đánh Irak ngay từ khi lên cầm quyền.
Cho nên người ta có thể bắt chước Thủ tướng tân cử Zapatero của Tây Ban Nha để tóm gọn tổng kết của cuộc phiêu lưu Irak sau một năm: Trước đây cuộc chiến (Irak) là một thảm hoạ, ngày nay sự chiếm đóng Irak là một thảm hoạ. Và người ta cũng có thể bắt chước hệ luận tất yếu của ông Zapatero là chào "Hasta la vista, Baby" rồi rút đoàn quân viễn chinh ra khỏi Irak ngay để chấm dứt dự án sai lầm này.
Tuy nhiên sự việc không thể đơn giản như vậy.
Một cuộc rút quân hiện nay sẽ đưa đến chắc chắn tình trạng nội loạn, sụp đổ toàn diện tại Irak, gây nhiều cuộc địa chấn nghiêm trọng trong toàn vùng Trung Đông trong chục năm tới, rung động đến tận châu Âu và cả châu Mỹ. Kết quả của một Irak không có quân đội ngoại quốc là một khoảng trống vắng về quyền lực, một khoảng trống vắng về luật pháp, một môi sinh Biotop cho các tên cực đoan chủ nghĩa Hồi giáo. Cho nên trong nhiều năm tới đây, không những Tây Ban Nha, Hoà Lan và Ba Lan không nên và không được rút quân khỏi Irak, mà trái lại sắp tới Nato với cả Pháp và Đức phải chuẩn bị để gởi thêm quân qua.
Điều kiện cần và đủ mà Hoa Kỳ phải nhanh chóng đáp ứng là phải trao toàn quyền chỉ huy chính thức về việc tái thiết chính trị và kinh tế Irak lại cho LHQ, hợp thức hoá qua một nghị quyết mới của LHQ. Nhưng ông Bush chỉ chịu bay từ Washington DC lên New York để cầu khẩn ông Kofi Annan, khi nào người Mỹ cảm thấy hụt hơi thê thảm về nhân sự, tài chính và kinh nghiệm chuyên môn trong việc đưa một nước kiệt quệ vì cấm vận và chiến tranh, chia rẽ về sắc tộc, phân hoá về tôn giáo, và phong kiến Ả rập như Irak thành ra một quốc gia thịnh vượng, cởi mở, dân chủ, làm gương cho các nước lân bang.
Và có lẽ điều này, sau một năm chiếm đóng Irak, chính quyền Bush cũng đã nhận thấy.
Sức của một siêu cường cũng có hạn.