watch sexy videos at nza-vids!
Truyện nhà thơ Hoàng Minh Châu - tác giả Nguyễn Hoàng Sơn Nguyễn Hoàng Sơn

nhà thơ Hoàng Minh Châu

Tác giả: Nguyễn Hoàng Sơn

( Nhân đọc phần Thơ trong Tuyển tập Hoàng Minh Châu, Nxb Hội Nhà văn)
Nhà thơ Hoàng Minh Châu, tên khai sinh là Nguyễn Thanh Trì, sinh ngày 6-6-1930 tại làng Xuân Hoà, tổng Phù Long- nay là xã Hưng Long, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, nhiều năm sống tại thành phố Vinh. Từ năm 1957 định cư tại Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 1960), nhiều năm làm biên tập tại nhà xuất bản Văn học, báo Văn nghệ... Tác giả các tập thơ: Mở đường (1962), Hoa mười giờ (1966), Anh có về thăm (1966), Người trong trận (1971), Mai này năm ấy (1977), Xôn xao (1983), Thơ và em (1990), Mơ hay tỉnh (1991), ở đời (1997), Thơ Trung Hoa du ký (1998), Tuyển tập thơ văn (2001)...Ông còn là tác giả nhiều tập văn xuôi, hai tập phê bình tiểu luận.
Tôi còn nhớ lần đầu được gặp nhà thơ Hoàng Minh Châu tại phòng sáng tác Ty Văn hoá Hoà Bình, vào khoảng năm 1972- 1973 gì đó. Hồi ấy, cái tỉnh miền núi nghèo nàn và hiu hắt mà chúng tôi là cán bộ, mỗi năm một lần lại mở “ Trại sáng tác” để an ủi mấy người có “ máu viết lách”. Đại khái người ta tập hợp chúng tôi lại, cho một bữa “ăn tươi” dư dật thịt mỡ, rau sống, một vị cán bộ tuyên huấn đến phổ biến về tình hình nhiệm vụ kinh tế xã hội của tỉnh, sau đó ai về nhà nấy. Cuối “Trại”, lại một bữa “ăn tươi” nữa, đôi khi có một buổi xem phim không mất tiền, trại viên nộp tác phẩm, được nghe góp ý nhận xét và chờ đợi. Vài tháng sau, có khi là nửa năm, tờ tạp chí Văn nghệ của tỉnh mới in ra. Ngày lĩnh nhuận bút, thể nào cũng có vài chầu “tửu- lạc” đãi đằng bạn bè và các biên tập viên đã có “mắt xanh” với “tác phẩm” của mình, thường là khoản tiền còm cũng bay theo vỏ lạc... Năm ấy, Trại viết muốn cải tiến phương thức hoạt động bèn mời hai “nhà thơ Trung ương” từ Hà Nội về gặp gỡ trại viên. Đó là nhà thơ Bàng Sĩ Nguyên và nhà thơ Hoàng Minh Châu, hai biên tập viên của nhà xuất bản Văn học. Hoàng Minh Châu đã gây ấn tượng cho những kẻ đang ngấp nghé đền Thơ vì vẻ say đắm thi ca của ông. Ông nói thật tha thiết “Các đồng chí ơi, chỉ nên đến với thơ nếu thơ làm cho người ta hạnh phúc!” Rồi ông đọc Xuân Diệu thời trẻ cho chúng tôi nghe, giọng xứ Nghệ không ngờ đọc thơ lại hay thế “Không gian như có dây tơ/ Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu/ Em em chiều ngẩn ngơ chiều/ Lòng không sao cả hiu hiu khẽ buồn”...
Có lẽ say đắm là phẩm chất đã giữ Hoàng Minh Châu lại với thơ suốt nửa thế kỉ nay? Lạ một điều là mê thơ Xuân Diệu như vậy nhưng Hoàng Minh Châu không bị cái buồn ngơ ngẩn của nhà thi sĩ này “ bắt vía”. Mấy câu viết tháng 2/1945 chứng tỏ anh là một hồn thơ sớm gắn với đồng loại, với cuộc đời mà ít băn khoăn với những suy tưởng siêu hình “ Trở lại trường xưa ấy/ Ta như kẻ mất hồn/ Thấy ăn mày bị gậy/ Lê khắp phố hoàng hôn...”. Với bút pháp hiện thực , Hoàng Minh Châu hoà nhập vào dòng thơ kháng chiến thật dễ dàng, tự nhiên, không vật vã như lớp đàn anh Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Xuân Diệu... Bài Mẹ Thuận (1950) có thể xếp bên cạnh những Ngò cải đơm hoa, Tiếng hát thanh niên (Lưu Trọng Lư), Người đàn bà Ninh Thuận ( Tế Hanh), thậm chí cả Bài ca vỡ đất (Hoàng Trung Thông), Thăm lúa (Trần Hữu Thung)- có điều Hoàng Minh Châu ít may mắn hơn? Đặc điểm chung của những bài thơ này là nhiệt tâm gắn bó với quần chúng, với kháng chiến, gần với lối nói dân gian, chi tiết sống động. Đang dùng thể thơ bốn chữ kiểu “nói lối” trong chèo, Hoàng Minh Châu chuyển rất tự nhiên sang lục bát rồi song thất lục bát “Ai qua Hùng Nhẫn/ Ghé nhà mẹ Thuận/ ở dưới chân đồi/ Ai về Hùng Nhẫn xa xôi/ Nhớ cho tôi gửi mấy lời thân thương”... Hoà bình lập lại, bút pháp hiện thực của Hoàng Minh Châu càng đắc dụng. Ông làm thơ ca ngợi cô gái Thủ đô lên Mộc Châu chăn cừu, làm thơ về những tấm gương Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi, ca ngợi Bác Hồ... Nghiêm ngắn, chỉn chu, như một giọng ca khiêm tốn trong một dàn đồng ca lớn. Chỉ khi tách ra khỏi những đề tài có tính thông tấn, người đọc mới nghe được tiếng đập khẽ của một trái tim đương hoài nhớ về tuổi thơ. Bài Trưa phố nhỏ như một ngoại lệ may mắn “Có gì đâu, một cành me/ Đan thưa cái nắng cho hè phố êm/ Ríu ran đàn sẻ đàn khuyên/ Lao xao guốc dép đàn em đến trường/ Có gì đâu thực bình thường/ Giữa nơi đô hội phố phường ở đây/ Cửa nhà chẳng cản trời mây/ Cho trưa thành thị ủ đầy hương quê/ Vâng dù chỉ một cành me/ Xanh êm che mát ngõ hè Thủ đô/ Mà làm tôi mãi ngẩn ngơ/ Cứ men theo dọc tuổi thơ đường làng...”. Hoàng Minh Châu là người làm thơ có nghề, đau đáu với nghề. Rất khó bắt bẻ một bài thơ nào là quá non yếu. Nhưng để thích, để yêu được lại là chuyện khác. Tôi cố gắng đi tìm những tiếng thầm, những rung động nhỏ đã khu biệt giọng thơ ông với những người viết cùng thời. Chẳng hạn cái tiếng xích xe đạp tầm thường mà quý báu này “Có tuần em công tác/ Anh ăn cái mơ màng/ Tiếng xích xe cọc cạch/ Tiếng dép động cầu thang...” (Với em). Trong rất nhiều bài thơ anh viết về đất nước- Hoàng Minh Châu là người chịu đi- thật mừng khi lọc được những câu rất riêng thế này “Cho tôi lại về thăm thôn xóm/Lợn nuôi rong bụng là cát phẳng lì/ Cá phơi dọc chiến hào, nước mắm/ Thơm lại từ trảng cát thơm đi...”. ( Biển gọi). Có gì đáng chú ý trong cái câu tưởng như rất văn xuôi ấy “ Lợn nuôi rong bụng là cát phẳng lì”? Vâng, nó tầm thường vậy thôi, nhưng đã ghi dấu ấn tâm hồn nhà thơ những năm thành thị và nông thôn, người cầm bút và người kéo lưới gần gũi, chan hoà với nhau. Cái vệt cát bờ biển do cái bụng con lợn “là” phẳng ấy, có lẽ cũng chỉ một lần trong đời nhà thơ nhìn thấy. Tạng thơ Hoàng Minh Châu thủ thỉ, nhẹ nhàng, gần gũi với những phát hiện “ bé xíu” ấy. Nhưng hình như ông không bằng lòng với nó, hoặc thời cuộc không cho ông loay hoay với “nó”? Chỉ khi về già, ông mới trở lại giọng điệu “trời sinh” của mình? Trung Hoa du kí như một ghi chép thơ nho nhỏ, có những câu thú vị. Bài tứ tuyệt dưới đây như nụ cười hiền lành, nhân hậu của thi sĩ “Tư nhân phạn điếm, chủ nhân xinh/ Vàng ngọc đầy tay tiếng Việt sành/ Chuyện vui” đời cụ nhà em trước/ Chuyên nghề tẩm quất tận bên Vinh”!
Con ngươì Hoàng Minh Châu hiền lành, “ chính thống” vậy mà sao lại “dám” biên tập, góp phần cho tập Cửa mở của Việt Phương ra đời (1974)? Tôi chưa có dịp hỏi kĩ Hoàng Minh Châu chuyện này. Nhưng tôi đoán: Hoàng Minh Châu biết tiếng Pháp, tiếng Nga, nghiền ngẫm nhiều thơ nước ngoài, khi bắt gặp giọng thơ “ phá cách” của Việt Phương liền cảm thấy tâm đắc? Mỗi hành động đều do tính cách quy định. Trong một hoàn cảnh “ thắt ngặt” mà “dám” hết mình với thơ như vậy, hẳn niềm đam mê nghề nghiệp của Hoàng Minh Châu phải lớn lắm, làng thơ ta cũng cần ghi nhận.
(Báo Văn nghệ)