Để Lao Động không bị bóc lột
Tác giả: Nguyễn Thanh Giang
Xoá bỏ áp bức, bóc lột là mục tiêu nhân văn hết sức tốt đẹp đã được vạch ra cho cách mạng Việt nam từ những ngày tiền khởi nghĩa. Sau hơn nửa thế kỷ đấu tranh cực kỳ gian nan, khốc liệt, vừa làm cách mạng dân tộc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã có một “ Nam quốc sơn hà nam đế cư ”, đời sống kinh tế xã hội nói chung đã thay đổi rõ rệt. Tuy nhiên, đối với người lao động, chân tay và trí óc, nhiều bức bối vẫn còn tồn tại. Vì sao thu nhập cá nhân lại chênh lệch quá đáng đến mức giữa người lao động lam lũ, cực nhọc với người xưa kia được xem là “ ngồi mát ăn bát vàng ” nhiều khi đựoc trả công chênh nhau ba bốn mươi lần ? ( Chỉ tính các trường hợp ghi nhận công khai trong văn bản. Trong thực tế, mức chênh lệch còn có thể tới trăm hay nghìn lần !). Vì sao sự phân hoá giầu nghèo vẫn tiếp tục diễn ra nhanh chóng và dữ dội đến mức tưởng như là còn hơn cả ngày xưa ? Vì sao nhiều người lao động quá 8 giờ một ngày mà vẫn không đủ sống ? v.v. . .
Phải chăng đấy là những biểu hiện, là hậu quả của tình trạng người lao động ở nước ta vẫn còn bị bóc lột ? Muốn xem xét vấn đề này, trước hết phải tìm hiểu thế nào là bóc lột ? Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1977 thì “ Bóc lột là lấy không sức lao động của người khác vì lợi ích riêng của mình, bất chấp mọi lẽ phải, tình cảm, đạo đức ” . Theo Các Mác, trong chế độ tư bản, các nhà tư sản đã bóc lột công nhân thông qua phần giá trị thặng dư do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra thêm ngoài giá trị sức lao động của họ.
Ở nước ta hiện nay, sức lao động nói chung được trả công thấp. Lao động ở các công sở, nhà máy đã vậy, công lao động nông nghiệp lại càng quá thấp. Có thể giải thích giá trị sức lao động thấp là do trình độ, kỹ năng, năng suất của người lao động còn kém, song lại không lý giải được vì sao cùng một con người nếu làm việc trong các doanh nghiệp quốc doanh thì chỉ được trả lương thấp hơn so với chính con người đó nếu được làm việc trong các xí nghiệp liên doanh hoặc đi lao động xuất khẩu ở nước ngoài. Thực tế, phải thừa nhận rằng người lao động ở nước ta hiện nay nói chung không được hưởng một phần giá trị lao động thặng dư hoặc nho nhỏ, hoặc hết sức lớn mà họ đã tạo ra do kéo dài ngày lao động ( thặng dư tuyệt đối ), hay do ứng dụng công nghệ mới ( thặng dư tương đối ). Các phần giá trị lao động thặng dư này thả trôi trong xã hội để rồi hoặc bị một cá nhân, một tập đoàn nào đó “lấy không sức lao động của người khác vì lợi ích riêng của mình, bất chấp mọi lẽ phải, tình cảm, đạo đức ”, hoặc bị ngốn vô tội vạ vào cái cơ chế quản lý bất hợp lý. Việc chiếm đoạt trong trường hợp đầu liên quan chủ yếu với tệ nạn tham nhũng. Trường hợp thứ hai, liên quan chủ yếu với tệ nạn lãng phí. Trường hợp đầu gây nên sự “ bóc lột vô lương tâm ” . Trường hợp thứ hai, tạm gọi là sự “ bóc lột vô trách nhiệm ”. Tiếc rằng ở ta hiện nay, cả hai trạng thái bóc lột trên đều đang diễn ra một cách khủng khiếp. Minh chứng phần nào cho sự khủng khiếp của trạng thái thứ nhất có thể dẫn lời một cán bộ địa phương: “ Ngân sách của toàn huyện Krông Pa chúng tôi phải gom trong 400 năm thì mới bằng số tiền tham nhũng ỏ Tamexco ”. Minh chứng cho sự khủng khiếp của trạng thái thứ hai có thể đơn cử lời của cụ Nguyễn Khắc Viện : “ Chỉ riêng ở tỉnh Thanh hoá, số lượng cán bộ đã đông gấp hai lần số công chức toàn cõi Ðông dương thời Pháp thuộc trước thế chiến thứ hai ”
Thực trạng bóc lột vẫn còn tồn tại nặng nề trong xã hội gây nên sự đau lòng rất nhức nhối cho tất cả những ai còn tâm đắc với những tiêu chí, với lý tưởng cao đẹp mà chúng ta từng nhiệt thành hướng tới từ những ngày đầu cách mạng. Có rất nhiều việc cấp thiết phải làm mới mong giải quyết được thực trạng đau lòng này. Song, để xoá bỏ “ bóc lột vô lương tâm ” trước hết cần chống tham nhũng. Ðể chống tham nhũng có hiệu quả và tương đối triệt để phải tạo điều kiện thiết thực cho người lao động tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát cơ quan, xí nghiệp của mình và của nhà nước. Ðể xoá bỏ “ bóc lột vô trách nhiệm ” trước hết cần tiến hành triệt để và đúng đắn cuộc cải cách hành chính với yêu cầu bức thiết là thực sự tôn quý tài đức, trọng dụng người có năng lực thích ứng cho từng công việc. Ðể thực hiện được cả hai nhiêm vụ trên một cách cơ bản, Công đoàn cần giáo dục, tổ chức người lao động phối hợp và hỗ trợ đắc lực cho Ðảng và Nhà nước thực thi nghiêm túc chế độ pháp quyền trong đó kỷ cương phép nước phải được bảo đảm nghiêm minh đồng thời các nhân tố công khai và dân chủ của xã hội phải được thực sự tôn trọng và ngày càng mở rộng.
Nguyễn Thanh Giang
Tham gia diễn đàn góp ý xây dựng
báo cáo chính trị đại hội VIII Công đoàn Việt nam