Đạo sĩ và rắn độc
Tác giả: Vũ Ngọc Tiến
1- Đ êm miền Tây Ấn Độ thẫm một màu đen huyền bí, không gian tĩnh lặng, hầm hập nóng như chiếc lò bánh mì, làm phồng rộp những vỏ cây khô xác và những mảng rêu như chiếc bánh đa bong ra khỏi bức tường đá của pháo đài Gwalior. Tiếng côn trùng râm ran một điệu nhạc buồn mênh mang và áng đom đóm lập lòe bay lượn như ma chơi. Xa, xa lắm, một nhánh phụ lưu của sông Hằng lặng lờ trôi, hút sâu vào bóng tối. Trời vắng sao và đầy gió nóng. Pháo đài Gwalior nằm sừng sững, đơn độc trên ngọn đồi, lổn nhổn những tảng đá gan gà, lác đác mấy bụi sương rồng, mấy khóm dứa dại mọc gai tua tủa. Xóm làng nằm khuất lấp sau rừng lau phía bờ sông xa tít tắp, chìm trong giấc ngủ nhọc nhằn, khắc khoải. Mấy chòi gác cao chót vót, bao quanh pháo đài, giống như mấy chiếc lồng chim ngất như trong gió nóng, chao đảo giữa trời đêm. Từ trên chòi gác vẳng lại tiếng hát ê a, trầm buồn của anh lính. Lời hát dân ca miền Tây mà những người lang thang vẫn thường hát ở các chợ quê: “Hỡi ơi! Con chim bé nhỏ, chiêm chiếp kêu trong bụi xương rồng gai. Nắng làm mi sã cánh, gió làm mi rụng lông, cơn khát khô làm mi cứ ngáp hoài… Hỡi ơi, trong bụi xương rồng gai có con chim lạc loài, có con chim chiêm chiếp kêu hoài!..”
Trong buồng giam nữ tù hơn ba mươi con người đang ngủ. Thỉnh thoảng một nữ tù lầm bầm nói mớ hoặc giơ tay đập muỗi làm bật lên một tiếng “đốp” khô khốc, dữ dằn. Ở bục xi măng gần ô cửa thông gió, Phoolan Devil không sao ngủ được. Nàng nằm hút thuốc và nhìn ra phía ngoài trời đêm. Thấm thoát đã mười hai năm trôi qua. Ngày bước chân vào pháo đài chấp nhận án tù khổ sai nàng mới ba mươi tuổi, nay đã vừa tròn bốn hai. Sáng mai nàng sẽ được tự do. Hai tiếng ngọt ngào ấy suốt mười hai năm nàng cay đắng đợi chờ, thấp thỏm. Mùa này dọc thung lũng Chambia quê hương của nàng nở đầy hoa cúc dại. Thứ hoa màu vàng tươi, cánh mỏng như đàn bướm rập rờn bay trong nắng. Cái tên Phoolan Devil cha mẹ đặt cho nàng, tiếng Hindi nghĩa là chúa tể các loài hoa. Vậy mà sao đời nàng cứ xám đen như hòn đá cuội, lăn lóc bên bờ suối cạn?
Số phận đã đẩy “bà chúa của các loài hoa” trở thành nữ chúa đảng cướp mang tên rắn độc Cobra. Nàng sinh năm 1953, người Trung Hoa gọi là tuổi rắn. Tên đảng cướp của nàng là Cobra cũng là loài rắn độc. Năm nàng vào tù là năm Hợi tám ba, trúng vào năm ứng với sao Kim Lâu, người ta vô tình hay cố ý kết án nàng đi tù khổ sai tròn một giáp, để đến năm chín lăm nàng ra tù lại trúng vào năm Hợi, gặp sao Thái Bạch. Nàng tự hỏi: Chẳng lẽ nghiệp chướng ta vẫn còn chưa hết, liệu mai này đi dưới bầu trời tự do ta có còn được là ta? Suốt những năm tung hoành trong đảng cướp Cobra, ta chỉ giết những thằng đực rựa mọt dân hại nước, những kẻ dâm bạo cưỡng hiếp hoặc lường gạt đàn bà. Tiền bạc ta cướp của chúng đâu phải là thứ tiền trong sạch. Đó là những đồng tiền tanh mùi máu, nhầy nhụa như nước dơ của đàn bà đến kỳ đến tháng. Ta cướp tiền về để ta làm cuộc phân phối trong công bằng và đắc dụng. Đã có biết bao dân nghèo được ta cho tiền mua gạo ăn, áo mặc, thuốc uống. Đã có biết bao ánh mắt hàm ơn của các cô gái được ta cứu thoát khỏi cảnh sống ô nhục, cấp tiền về quê làm ăn sinh sống. Bọn cảnh sát đàn ông săn đuổi ta, treo giải một trăm năm mươi ngàn Rubi cho ai bắt được ta, nhưng chúng đã chịu thua, thành trò cười cho đám dân lành vẫn hằng ngưỡng mộ, che chở ta. Nếu không có bà Thủ tướng đích thân ra lời kêu gọi ta đầu hàng trên ti vi vào năm Hợi tám ba, chắc rằng ta vẫn tung hoành trên thung lũng Cham bia rực rỡ màu vàng của hoa cúc dại. “Tôi đầu hàng không phải vì công lý của những người đàn ông!”. Lời tuyên bố ấy của ta gửi bà Thủ tướng đã từng đăng trên trang nhất của tất cả các tờ báo bằng hàng tít lớn. Chính vì lời tuyên bố ấy mà Singh đã vượt nghìn dặm đường dài, đến pháo đài Gwalior tìm ta. Ôi chàng Singh trong sáng thơ ngây lúc đó mới mười tám tuổi đời, sao chàng lại điên cuồng yêu ta đến vậy. Tấm tình của chàng ta hiểu, không phải là sự bốc đồng trong dại khờ, non nớt. Ngày ấy, chàng mới chỉ là cậu sinh viên trường Luật năm thứ nhất ở Bom bay, còn bây giờ chàng đã có một văn phòng luật sư tiếng tăm lừng lẫy. Mười hai năm trời theo đuổi, thăm nuôi một nữ tù, đủ thấy cái tình của chàng lớn và đẹp bist chừng nào! Sáng sớm mai, khi mặt trời nhô lên ở rừng lau sậy phía bờ sông, những vạt sáng hồng lan toả trên vách núi đá gan gà, chàng sẽ mang hoa đến đón ta. “Singh ơi! Tôi quý Singh và cám ơn Singh nhưng tôi không thể...” Phoolan Devil thầm gọi tên chàng, mắt nàng mọng ướt. Nàng bồi hồi nhớ lại buổi gặp Singh mười hai năm trước...
2- Có tiếng mở khoá lách cách. Người nữ cảnh sát mở khoá vào buồng giam lạnh lùng gọi:
- Tù nhân số 2576 ra ngoài có người nhà xin gặp.
- Bà có lầm không, bà cảnh sát? Tôi là kẻ vô gia cư, làm gì có người nhà mà gặp với gỡ! – Poolan Devil thản nhiên đáp
- Một cậu thanh niên còn rất trẻ, cô ra nhanh lên!
- Anh ta đi một mình à?
- Có một vị nghị sĩ già đáng kính của bang đi cùng.
Phoolan Devil đứng dậy lững lự hồi lâu rồi lựng lẽ bước theo người nữ cảnh sát ra ngoài. Nàng thầm nghĩ: Lại một bọn đàn ông hiếu kỳ, đáng ghét. Nhưng người nữ cảnh sát nói rằng chàng trai còn rất trẻ, mặt non choẹt, trên ria mép lún phún mấy sợi lông tơ. Ông bố đi cùng là một nghị sĩ dòng dõi quý tộc nổi tiếng của bang, được dân chúng kính trọng. Từ ngày bị giam trong pháo đài không ít phóng viên và những kẻ hiếu kỳ xin gặp ta. Cậu bé này chưa đến tuổi đi làm, phải có ông bố đáng kính đi kèm. Vậy cậu ấy đến gặp ta có việc gì. Nghe nói cậu ấy từ Bom bay vượt hàng nghìn cây số đến đây chẳng lẽ chỉ để xem mặt một nữ tướng cướp?...
Phòng thăm tù nhân được ngăn đôi bằng tấm lưới thép. Phía bên kia lưới thép một chàng trai vận complet màu xanh da trời, bằng thứ hàng đắt tiền. Tay chàng ôm bó hoa hồng nhung đỏ thắm và một bọc quà. Đôi mắt đen của chàng đầy vẻ bần thần, nôn nóng đợi chờ. Ông bố chàng khoảng ngoài sáu mươi tuổi, râu tóc đốm bạc. Người ta khiêng vào một chiếc ghế bành cho ngài nghệ sĩ ngồi, sau lưng có người hầu cầm chiếc quạt lông phe phẩy. Thoáng nhìn thấy Phoolan Devil chàng trai reo lên sung sướng:
- Chị Devil!.. em là Singh, chị có khoẻ không?
- Chào cậu! Nhưng tôi...
- Chưa quen biết rồi sẽ thành thân thiết – chàng trai cướp lời.
- Cậu tìm tôi có việc gì?
- Đơn giản là em ngưỡng mộ chị, đến thăm chị không được sao?
- Nhưng mà...
-Lại nhưng... Chị không bằng lòng cho em đến thăm à?
- Không, không phải thế, nhưng cậu từ Bombay đến, đường xa vất vả, cám ơn cậu nhiều!
- Em mang hoa và quà cho chị này.
- Ôi! hoa hồng đẹp quá!- Phoolan Devil đỡ lấy bó hoa và thốt reo lên khe khẽ. Mắt nàng ngời sáng.
- Chị còn đẹp hơn cả những đoá hồng nhung. Em đã nhìn thấy chị trên trang báo, đầu quấn khăn đỏ, tay cầm khẩu Mauser 303. Ngay lúc ấy em đã bàng hoàng trước sắc đẹp của chị. Nhưng bây giờ gặp được người mới thấy bức ảnh còn thua xa. Chị thật xứng với tên gọi “chúa của các loài hoa”.
- Cậu vẫn còn đi học chứ?- Nàng nhắc khéo chàng trai.
- Vâng. Em năm nay mười tám tuổi, vừa thi đậu đại học Luật khoa, vì em đi học sớm trước một năm. Báo đăng chị hơn em mười hai tuổi. Theo cách nói của người Trung Hoa em thua chị một giáp, cùng tuổi Tỵ, tuổi con rắn. Hồi em mới sinh có một đạo sĩ tiên đoán rằng, sau này em sẽ thành thân với người đàn bà hơn mình mười hai tuổi, có cùng chân mạng và trong hoàn cảnh éo le. Nhìn thấy hình chị trên báo, em như kẻ mất hồn., không thiết ăn uống, quên cả đọc sách. Chị đã thành người trong mộng của em. Lời tiên tri năm nào đã thành hiện thực. Đấng tối cao trong cõi giới vô hình đã sắp đặt chúng mình gắn kết với nhau. Từ nay em sẽ không bao giờ rời xa chị...
Singh nói say sưa, nói liền một mạch. Chàng kể cho Devil nghe nỗi khắc khoải thấp thỏm trong những ngày mong đợi gặp nàng. Singh đã phải kiên trì thuyết phục gần như van vỉ người cha chấp nhận đi cùng, chứng kiến cuộc gặp gỡ. Ngài nghĩ sĩ Manmu thương quý cậu con trai duy nhất, nhưng rất nguyên tắc và cứng rắn. Lúc đầu ngài nổi cơn thịnh nộ, quát mắng, doạ sẽ từ con nếu chàng làm việc điên rồ, bôi nhọ thanh danh dòng họ. Dần dần, trước sự kiên trì và nỗi lòng tha thiết của Singh, ông đã mềm lòng. Dẫu sao ông vẫn hy vọng đó chỉ là tình cảm bồng bột nhất thời của tuổi trẻ. Hai người quá chênh lệch về tuổi, lại sẽ phải chờ đời nhau mười hai năm. Thời gian sẽ giúp con trai ngài tỉnh ngộ.
Nhưng ngài Manmu đã lầm. Suốt mười hai năm Singh kiên trì theo đuổi thăm nuôi Devil. Chàng đến gặp nàng vào đầu tuần mỗi tháng và hàng tuần viết thư đều đặn cho nàng. Những năm còn sinh viên, chàng ngượng ngùng xưng em và gọi Devil bằng chị. Ra trường, trở thành luật sư danh tiếng, chàng đổi cách xưng hô. Lúc đầu là xưng tên và hai năm gần đây chàng xưng anh rất tự nhiên. Chồng thư Singh viết trong mười hai năm đã thành chiếc gối lớn kê đầu cho Devil ngủ. Lời lẽ yêu đương đằm thắm trong mỗi lá thư đã khiến Devil lúc đầu thấy ngỡ ngàng, pha chút thương hại, nhưng nó đã như mưa dầm thấm lâu, khiến con tim giá lạnh của nữ chúa đảng cướp Cobra nhũn chảy tan ra như cục nước đá. Tuần nào chậm thư của Singh là trong lòng Devil như có kiến đốt. Nàng đứng ngồi không yên, thấp thỏm chờ đợi và lo lắng cho sức khoẻ, việc học của chàng. Hai năm gần đây nghe Singh xưng anh, Devil thấy ngọt ngào đáng yêu làm sao. Nàng mong mỏi hàng tháng để được gặp chàng, nghe những lời âu yếm, ngắm đôi mắt đa tình, si mê đắm đuối và có lúc nàng cũng hờn dỗi hay trách móc như bao cô gái đáng yêu.
Mai là ngày tự do, Singh sẽ đến đón nàng về nhà. Lần gặp trước, chàng hứa hẹn sẽ làm lễ cưới lớn nhất bang, để thỏa nỗi lòng mười hai năm chờ đời cay đắng, bù lại quãng đời sương gió của Devil trong đảng cướp Cobra. Chính vào lúc này, giữa đêm vắng lặng, huyền bí, nghe tiếng hát ê a của anh lính gác trên chòi cao, Devil thấy lòng buồn ra riết. Nàng hốt hoảng và đau đớn nhận ra rằng, mình không xứng với tình yêu của Singh. Đời nàng đã tàn tạ như bông cúc dại, bị thiêu đốt trong cơn nóng khô khốc ở thung lũng Chambia. Tấm thân ô nhục của nàng đã bị dày vò từ thủa mười ba. Để trả thù bọn đàn ông, nàng đã gây bao tội lỗi, bao cuộc bắn giết, đâm chém đẫm máu. Nàng đã từ lâu mắc chứng bệnh lãnh cảm, không còn chút cảm hứng gì khi làm tình với đàn ông. Khi chưa được tự do, nàng khao khát mong mỏi được gặp Singh, thèm khát được ôm chàng trên chiếc giường cổ của lâu đài vẫn dành riêng cho các cặp vợ chồng mới cuới, trong dòng họ quyền quý. Giờ đây, trong đêm mấp mé bến bờ tự do, Devil chợt bàng hoàng lo sợ phải gặp Singh. Nàng không biết sẽ nói gì với Singh, bởi lòng nàng đã quyết phải xa chàng. Nàng không thể làm hỏng một đời chàng thanh niên mơ mộng, đầy nhiệt huyết như Singh. Tình yêu sẽ biến nàng trở thành kẻ có tội với chính chàng và gia tộc danh giá của chàng. Nhưng nếu sáng sớm mai nàng nói ngay những dự định của mình sẽ làm Singh đau khổ, thất vọng. Tiếng ca của anh lính trên chòi gác của pháo đài Gwalior vẫn chưa hết ê a: “Hỡi ôi! con chim bé nhỏ chiêm chiếm kêu trong buị xương rồng gai - Nắng làm mi sã cánh – Gió làm mi rụng lông – Cơn khát khô làm mi cứ ngáp hoài - Hỡi ơi, trong bụi xương rồng gai có con chim lạc loài, có con chim chiêm chiếp kêu hoài!...”. Devil nằm nghe, ứa nước mắt buồn cho thân phận mình. Dù thế nào nàng cũng quyết chối từ tình yêu, giải phóng cho Singh khỏi ràng buộc suốt đời bởi lời hứa cầu hôn vỗi vã, tuy rất chân tình và nóng bỏng. Cha của chàng, ngài nghi sĩ Manmu vì yêu con, chiều theo ý nguyện của chàng nhưng có lẽ ông cũng đang đau khổ. Ông không dám nói thẳng với Devil rằng mình phản đối mối tình không xứng đôi vừa lứa. Trong một vài lần gặp nàng ở pháo đài, ông chỉ tâm sự về nỗi buồn cô độc của mình. Vợ ông mất sớm, một mình ông gà trống nuôi con, không chịu lấy vợ vì sợ làm tổn thương tình cảm của đứa con trai duy nhất. Ông lao vào chính trường hoạt động, bênh vực cho người nghèo, vận động các phong trào từ thiện, giúp đỡ kẻ tàn phế hay trẻ mồ côi. Ông đã trở thành người cộng sự đắc lực của bà Thủ tướng mà Devil hằng sùng bái, tôn kính, chấp nhận nghe theo lời bà ra đầu hàng chính phủ. Ngoài công việc ở nghị viện và các tổ chức từ thiện, ngài Manmu dành hết thời gian, tâm huyết cho cậu con trai. Ông nuôi nhiều hy vọng ở Singh, chăm chút cho tiền đồ chính trị của chàng. Ông bảo với Devil rằng ông không muốn chàng có một tì vết nhỏ trong đời tư và đức hạnh, để các đối thủ trên chính trường dựa vào đó khoét sâu, nhục mạ gia tộc. Ông còn nói nhiều điều xa xôi khác, để Devil hiểu và tách khỏi Singh, giúp chàng yên tâm xây đắp sự nghiệp cho riêng mình và vì danh dự của gia tộc. Điều làm cho Devil xúc động và ái ngại là nhiệt tình, công sức chờ đợi, thăm nuôi nàng suốt mười hai năm của Singh. Ở tuổi ba mươi, với cương vị là chủ một văn phòng luật sư danh tiếng, Singh bây giờ đâu còn là cậu bé lún phún lông tơ trên ria mép năm nào nàng mới gặp lần đầu.
Devil đã quyết định cùng Singh trở về lâu đài của chàng ở quê. Nàng sẽ âu yếm chiều chuộng chàng một đêm để đền đáp ân tình của chàng. Nàng sẽ kể hết cho Singh nghe quãng đời ô nhục để sau đó vĩnh viễn xa chàng. Devil sẽ tìm về thánh địa ở thị trấn Benashold, dưới chân núi Hymalaya tìm thầy học đạo, sám hối mọi tội lỗi, xa lánh trần tục. Trong đêm nằm thức đợi tự do, nàng bồi hồi nhớ về năm tháng xa xưa ấy...
3- Trong huyết quản của Phoolan Devil có hai dòng máu Trung Hoa và Ấn độ hoà trộn. Ông nội nàng là người Hoa, gốc quê ở Tứ Xuyên – Trung Quốc. Ông sống nhiều năm ở Tây Tạng, dốc lòng đem những hiểu biết y học cổ truyền của Trung Hoa chữa bệnh cho dân chúng, nhưng các đức Lạt Ma địa phương kết tội ông dùng yêu thuật, tà đạo lừa mị dân, xúc phạm đến Tây Tạng giáo và các Lạt Ma. Cực lòng ông phải chốn tránh sự lùng bắt của quan chức địa phương, chạy sang Ấn Độ sinh sống và lấy vợ người Ấn. Phoolan Abamahash, cha của Devil nhờ vậy rất giỏi chữ Hán, tinh thông Y lý, Dịch học... Lên sáu tuổi, Devil đã được cha dạy chữ Hán, truyền cho con gái những miếng võ Trung Hoa bí truyền. Devil nhớ có lần vào năm mười hai tuổi, nàng thấy cha đang đọc cuốn Chu Dịch mà ông nội nàng mang từ Trung Hoa sang. Cuốn sách vẽ những hình lạc đồ, bát quái, những ký hiệu rất lạ, nhưng Abamahash đọc rất say sưa. Ông còn luôn so sánh đối chiếu với bộ sách chiêm tinh học bằng chữ Hindi cổ của vị thánh đại minh triết Bhrigu lưu truyền ở miền Tây Ấn Độ. Devil thắc mắc hỏi và được cha giải thích: “Thánh tổ học phái Ấn Độ là Bhrigu có bốn đệ tử xuất sắc. Người thứ nhất, giỏi về chiêm tinh học vượt biển sang nước Ba Tư lập nghiệp, trở thành học phái Hy Lạp, La Mã sau này. Người thứ hai, giỏi về triết học đi mãi về phương Đông sang nước Trung Hoa lập nên môn phái Dịch học. Người thứ ba, thích trầm tư, yên tĩnh đắm mình vào trong cõi giới vô hình nên đã vượt đỉnh núi tuyết trên dãy Hymalaya đến Tây Tạng lập nên Lạt Ma giáo. Người thứ tư, kiên trì ở lại với thánh tổ Bhrigu, làm nên chức quốc sư của Ấn Độ và lưu truyền học phái của mình đến ngày nay. Xem ra mọi tư tưởng, học phái của nhân loại ở khắp các châu lục, các quốc gia đều sinh ra từ một gốc là cõi giới vô hình tiềm ẩn trong vũ trụ, thấm vào hơi thở, mạch máu và tâm linh, tuệ giác con người. Vậy mà sao họ cứ lên án bài xích lẫn nhau, tìm cách tiêu diệt, gạt bỏ nhau? Phải chăng vì thế mà ông nội con đã phải rời bỏ đất Trung Hoa, đến Tây Tạng rồi lại chạy sang Ấn Độ, cư ngụ ở thung lũng Chambia hẻo lánh này?...
Devil nghe cha giảng giải mù tịt không hiểu, những điều ông nói chỉ là truyền thuyết, nhưng ấn tượng về người cha uyên bác, nhân hậu luôn hằn sâu trong tâm trí nàng từ thủa ấu thơ. Cha nàng quanh năm đọc sách, chữa bệnh và dạy học cho trẻ con trong vùng bằng chữ Hindi. Mẹ nàng nuôi bò sữa và thường ngày chở sữa tươi ra chợ thị trấn bán cho các chủ lò bánh. Bà đẹp một cách dịu dàng như tiên giữa rừng, trong các truyện cổ tích của người Hindi. Sự pha trộn giữa sắc đẹp của bà với dòng máu Trung Hoa của chồng đã truyền cho Devil cả sắc đẹp và sự thông tuệ. Da nàng trắng mịn chứ không thô như người bản xứ. Tóc nàng đen, óng mượt và dài chấm gót giống như dòng suối Chambleng của thung lũng Chambia. Mười ba tuổi, nhưng Devil đã là thiếu nữ xinh đẹp nổi tiếng khắp vùng. Sớm sớm, nàng giúp mẹ đẩy xe bò chở sữa tươi ra thị trấn. Hồi ấy đảng cướp Cobra hoạt động gây nhiều vụ cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái trong vùng. Devil chỉ cần mang theo thanh kiếm Thiên Long gia truyền của ông nội, theo xe bảo vệ mẹ thì không tên cướp nào dám bén mảng đến gần xe bò chở sữa. Đảng trưởng của băng cướp Cobra là Rasiva Ahurash mê đắm Devil. Hắn không cho thuộc hạ dùng súng, vì sợ nguy hiểm đến người đẹp. Vì vậy đã nhiều lần một mình Devil đánh gục hơn mười tên cướp đàn ông hung dữ, cầm chân bọn cướp cho đến lúc cảnh sát và trai tráng các làng xung quanh đến giải cứu. Dẫu sao ông Abamahash cũng bắt đầu cảm thấy lo ngại. Buổi sớm hôm đó, cái buổi sáng tháng giêng theo âm lịch Trung Hoa năm 1966, ông Abanahash chợt cảm thấy linh tính mách bảo tháng đó là tháng Dần, thuộc năm Ngọ, mà con gái ông tuổi Tỵ, nếu xuất hành đi chợ có bề không ổn. Ông gieo quẻ Dịch, gặp điềm đại hung nên cố khuyên hai mẹ con ở nhà. Bà vợ ông vì sợ lỡ hẹn với lò làm bánh vào dịp lễ hội của người Hindi nên vẫn khăng khăng đòi đi. Devil còn ít tuổi, ỷ mình giỏi võ, vừa đánh hạ bọn cướp nên nàng hăng hái ủng hộ mẹ. Nàng đâu có ngờ hôm đó xảy ra đại hoạ. Đêm nay nằm trong trại giam của pháo đài Gwalior đợi tự do, chờ mặt trời ló rạng, Devil còn nhớ như in hình ảnh buổi sớm ấy.
- Mình và con Devil hãy nghe tôi. Quẻ này xấu lắm! – Ông Abamahash nhăn nhó nói với vợ.
- Tại ông đọc nhiều sách Trung Hoa nên hay lo hão. Lâu nay tôi với con Devil có việc gì đâu – Bà đáp.
- Tôi với bà có chết cũng không sao. Tôi lo cho con Devil. Nó giống như bông hoa cúc dại bên bờ suối Chambleng, sắp gặp mưa lũ.
- Cha đừng lo. Con sẽ chuẩn bị đề phòng. Đến đoạn đường vắng, con sẽ cho xe dừng, chờ thêm người đồng hành thật đông đàn ông mới đi tiếp – Nàng động viên cha.
-Con còn quá nhỏ chưa hiểu hết việc đời. Nhan sắc của con đến thần rắn Naga còn thèm muốn nữa là chúa đảng cướp Rasiva Ahurash. Nó rình rập con từ lâu rồi. Mấy lần trước, con bình an vô sự là nhờ nó không cho lũ cướp dùng súng. Nhưng nó luôn chủ động, còn hai mẹ con lại vô tình, bị động đối phó.
- Sống chết có số cả, lo gì hở cha.
- Theo cách tính của cha trong quẻ Dịch, vùng thung lũng Chambia xưa rất nhiều rắn độc. Người Hindi nhiều đời làm rẫy trồng nương, đã giết không biết cơ man nào con cháu của thần Naga. Âm khí loài rắn ở đất Chambia rất nặng nề. Con tuổi Tỵ, gặp tháng Dần, năm Ngọ là đại hung và kiêng nhất xuất hành giờ Dần, giờ Mão. Đợi đến giờ Thìn hay giờ Ngọ xuất hành thì đã quá trưa, cũng không kịp giao sữa cho các lò làm bánh, họ sẽ bắt chẹt.
- Cha yên tâm, con sẽ đưa mẹ về an toàn – Devil hăng hái nói.
- Vậy thì cha cử thêm hai người đàn ông Hindi đang làm rẫy đi cùng. Họ khoẻ và cũng biết đôi chút võ Tàu do cha truyền dạy.
- Vâng. Thế cũng được, cha ạ!
- Cầu trời, khấn Phật cho bà và con Devil may mắn!
Ông Abamahash nhìn theo bóng hai mẹ con đi khuất con đường làng, rẽ qua cầu đá ra đường cái lớn mới chịu quy về nhà. Devil ngoái nhìn bóng cha đang cúi đầu đăm chiêu bỗng lòng cô thấy nôn nao. Devil nhắc hai người đàn ông Hindi cảnh giác, cầm sẵn vũ khí khi đi sau xe, còn cô đeo kiếm đi trước. Đến cửa rừng, cô gặp năm sáu người đàn ông Hindi đang khiêng dê, lợn ra chợ bán. Devil yên tâm nhập đoàn với họ. Cô còn quá non nớt, chưa thể phát hiện những người đàn ông này đều to cao vạm vỡ và rất dữ dằn. Tướng cướp Rasiva Ahurash đã tính toán kỹ lưỡng. Hắn cử những tên cướp khoẻ mạnh, giỏi võ áp sát Devil, một tốp khác chặn đường mai phục. Hắn còn cử ba tên cướp mang súng lẻn đến nhà Devl bắt cha cô đem ra rừng phòng cô chống cự quyết liêt sẽ uy hiếp ông, bắt cô đầu hàng. Người giỏi võ đến đâu, nếu bị đối phương đông người áp sát sẽ khó chống đỡ. Đi cách cửa rừng chừng năm dặm, bọn cướp mai phục trong các bụi cây đồng loạt huýt sáo xông ra. Bọn cướp khiêng dê, lợn đi bên cạnh Devil cũng trở mặt cầm gậy lao vào áp sát Devil. Cô vung kiếm chém vào vai thằng đi trước rồi dùng thế võ “trường sà quyền địa” múa kiếm đánh thẳng vào khúc giữa của tóan cướp, khiến chúng dạt ra khỏi xe bò sữa. Có chiếc xe che đỡ mặt hậu, cô yên tâm vừa chống cự vừa tìm cách bảo vệ mẹ đang ngồi trên xe. Hai người đàn ông Hindi làm rẫy kịp thời xông lên, trụ với cô thành thế tam giác, bịt lấy cửa xe không cho bọn cướp nhảy lên. Cuộc đấu không cân sức dồn Devil vào thế thủ, nhưng bọn cướp bị thương khá nhiều. Cô đang chống cự, chờ dân đi rừng và cảnh sát tới giải vây thì tướng cướp Rasiva Ahurash cùng ba tên cướp cưỡi ngựa phi tới, quẳng cha cô đang bị trói xuống bãi cỏ. Hắn thét lớn:
- Dừng lại! Người đẹp chịu hàng theo ta về trại trong núi thì lão già sẽ được tha mạng.
- Cha ơi!... Cha!
Devil hoảng hốt gọi cha, đi chệch môt đường kiếm lỡ đà, chúi vào thành xe. Tên cướp đứng gần chớp thời cơ phang một gậy vào vai cô, làm rơi thanh kiếm Thiên Long. Lũ cướp thừa thắng xô đến, đè cô xuống đất, trói nghiến lại. Chúng đâm chết cha cô và hai người Hindi làm dãy, cướp xe bò sữa, bắt trói hai mẹ con chaỵ sâu vào rừng. Devil lăn lộn, ngào khóc, chửi rủa và ngất đi. Khi cô tỉnh dậy thấy mình nằm ngửa hai tay bị trói vào gốc cây. Cách đó chừng vài chục mét, mẹ cô bị lũ cướp thay nhau hiếp đến chết, xác vẫn còn trần truồng nằm trên bãi cỏ nhàu nát. Tướng cướp Rasiva Ahurash thấy Devil đã tỉnh, liền ra lệnh quây bạt quanh gốc cây. Hắn lột quần áo, liếm láp khắp người rồi tống cái của nợ vào người làm cô đau buốt đến lộng óc. Đêm đó cô bị hắn đưa về trại, nhốt vào buồng kín, thỏa sức dày vò khiến Devil nhiều lần toan cắn lưỡi tự tử. Nhưng cô nghĩ lại, thề phải sống để trả thù. Tướng cướp Rasiva Ahurash biết Devil giỏi võ nên rất thận trọng đề phòng, cả trong lúc ngủ với Devil hắn vẫn cho khoá tay, khoá chân vào hai dợi dây xích dài chừng một mét. Cô gái mười ba tuổi đã sớm thành đàn bà. Nàng tìm mọi cách chiều chuộng, thoả mãn các kiểu làm tình hoang dã nhất. Sau mỗi lần như thế, Devil lựa lời tỉ tê thuyết phục Rasiva Ahurash cởi xích cho mình. Đàn ông dù sắt đá vẫn mềm lòng khi ôm người đẹp, nghe những lời dịu ngọt. Huống chi Devil đã sẵn có chủ định, sẵn sàng hiến dâng tất cả cho ý đồ trả hận, nên nàng mỗi ngày càng làm cho Rasiva Ahurash thêm mê mệt, không chút đề phòng. Thời gian đầu được cởi xích, Devil chỉ chuyên tâm vào việc thử nghiệm thêm nhiều kiểu làm tình sao cho vừa lòng gã tướng cướp. Nàng được hắn tặng cho nhiều đồ trang sức quý giá, cho phép nàng tự do đi khắp sơn trại hái hoa cúc dại. Nàng tập tiêm thuốc phiện, lôi kéo gã tướng cướp quẩn quanh bên bàn đèn và thú vui xác thịt. Mỗi khi Rasiva Ahurash đê mê trong cơn thuốc phiện, là lúc Devil lẻn ra suối vắng, luyện tập thêm võ thuật, lân la làm thân với các thuộc hạ thân tín của chúa đảng cướp Cobra. Rasiva Ahurash có tất cả mười đệ tử trung thành và giỏi võ. Mỗi tên chỉ huy khoảng ba chục đứa. Chúng đều tham lam và háo sắc, hau háu nhìn Devil đầy vẻ thèm khát. Dần dần, Devil hiểu ra rằng,đàn ông càng ham mê bạo lực, càng u tối, đui mù về lý trí nên sẵn sàng ngủ với bất cứ ai trong số mười thuộc hạ của Ahurash. Nàng đã điều tra trong số đó Babush là tên hãm hiếp mẹ đầu tiên. Y thâm hiểm, nhiều mưu mẹo và được chúa đảng cướp Cobra tin tưởng nhất. Devil đã có chủ định dùng Babush gây mâu thuẫn giữa đảng trưởng với những tên thuộc hạ khác. Nàng bí mật giấu tiền vàng lén lút đưa cho từng tên cướp. Mỗi lần làm tình với chúng, nàng cố tình để cho Babush biết rồi nàng lại khóc lóc bảo mình bị cưỡng ép, làm hắn nổi điên. Với từng tên cướp khác, nàng hứa hẹn sẽ làm vợ, nếu chúng nổi loạn cướp quyền đảng trưởng Rasiva Ahurash và nàng chỉ căm thù Babush mà thôi. Nhân một lần đi cướp giết ở lâu đài nhà đại điền chủ thắng lợi trở về, bọn cướp thi nhau uống rượu say mèm. Bị Devil xúc xiểm, thúc dục từ trước nên trong cơn say bọn cướp lè nhè đứa này vạch tôi đứa kia rồi đâm chém lẫn nhau. Devil đã mượn tay thuộc hạ giết chết Rasiva Ahurash, rồi sau đó tự chúng lại tranh giành Devil, hò hét đám lính của mình xông vào thanh toán nhau kịch liệt. Giữa cơn đâm chém hỗn loạn, Devil xách kiếm săn đuổi truy sát Babush, nhưng hắn đã nhanh chân tẩu thoát. Nàng đã lần lượt giết chết chín đứa, giành quyền chỉ huy bọn cướp, chỉ hận vì chưa giết được Babush...
Sau đêm đại náo sào huyệt đảng cướp Cobra, Devil đã thật sự biến đổi thành con người khác. Nỗi uất hận vì chưa giết được Babush làm nàng trở nên say máu bọn đàn ông dâm dục, nhưng quyền thế hoặc giàu có. Dưới quyền cai trị của nàng, đảng cướp đã hoàn toàn thay đổi. Mỗi thành viên đều xăm hình đầu con rắn độc Cobra ở bắp tay, thề chỉ cướp của nhà giầu chia cho dân nghèo, sẵn sàng ra tay cứu giúp tất cả phụ nữ nghèo đói hoặc bị lường gạt. Khi thế lực của đảng cướp được củng cố, Devil bắt đầu tung quân đi thanh toán các đảng cướp khác, bắt chúng phải quy phục và hành động theo tôn chỉ mục đích của đảng Cobra. Nàng bỏ tiền thuê các thám tử đi khắp nơi dò la, truy tìm tung tích của tên cướp Babush nhưng vẫn chưa thấy. Có lẽ trong quãng đời làm tướng cướp, đến tận lúc nghe theo lời kêu gọi của bà Thủ tướng ra đầu hàng, nhận án tù khổ sai mười hai năm, Devil chỉ còn canh cánh bên lòng mối hận vì chưa tìm được Babush trả thù cho người mẹ quá cố...
4- Bình minh bắt đầu ló rạng. Một vạt sáng mầu hồng đang bò dần lên bức tường đá phía Đông của pháo đài Gwlior, dọi hắt qua ô cửa thông gió vào buồng giam các nữ tù những tia nắng đầu tiên trong ngày. Devil nhìn qua cửa thông gió chợt thấy đôi chim chìa vôi đang quệt mỏ xuống vách tường đá, rồi đập cánh bay giữa bầu trời thơm thảo, tinh khiết buổi sớm mai. Một cảm giác buồn vui lẫn lộn cứ chen lấn trong lòng. Người bạn tù Jyoti lại gần vỗ nhẹ vào lưng làm Devil giật mình quay lại.
- Em chúc mừng chị buổi sáng tự do đầu tiên – Jyoti nói và nở nụ cười rất hồn nhiên, chân thành.
- Cám ơn Jyoti! Thật lòng chị đang phân vân không biết nên mừng hay nên lo.
- Sao vậy hả chị Devil? Có ai đi tù khổ sai mà không mong có giây phút này?
- Lúc nó chưa đến thì mong ngày mong đêm em ạ! Nhưng khi nó đến rồi sao chị thấy buồn, lo nghĩ mông lung suốt đêm qua – Devil thở dài, mắt rưng rưng.
- Hình như đêm qua chị không hề ngủ?
- Không, Jyoti ạ!
- Có phải tại bọn em vô ý ngáy to như bò rống, đập muỗi đôm đốp?
- Không. Tại chị buồn, nhớ lại chuyện xưa.
- Singh có đến đón chị không?
- Có, Chàng nói nhất định sẽ đón chị về lâu đài làm lễ cưới. Chính điều này làm chị khổ tâm, dằn vặt suốt đêm. Chị không xứng đáng được hưởng hạnh phúc ấy. Chị quý mến và biết ơn Singh nhiều, nhưng chị không thể...
Jyoti lặng đi nhìn Devil, khẽ thở dài. Là đàn bà lại vừa trải qua kiếp giang hồ Jyoti hiểu và thông cảm. Hạnh phúc đối với họ mới mỏng manh và chua xót làm sao! Sự mặc cảm về thân phận đàn bà sống trong ô nhục có cội nguồn, gốc rễ sâu sa, bởi những dư luận và định kiến xã hội cứ xoắn xuýt, giằng néo mọi cá thể đơn lẻ trong cõi người. Khi bức tường đá gan gà còn đang ngăn cách Singh với Devil, cuộc tình của họ còn như nửa đời, nửa mộng. Có lẽ mọi cái ở đời chỉ đẹp lúc hư hư, thực thực, giống như muôn vật còn mờ ảo trong sương, chưa rõ hình tích, lập lờ tăm dạng. Singh còn có cha, có dòng tộc danh giá, có bạn bè và sự nghiệp cùng bao mối giằng buôc ngoài xã hội. Ngay cả lúc làm tình với nhau, chàng luật sư con ngài nghị sĩ chắc sẽ bàng hoàng, rờn rợn trước những hình xăm quái đản trên thân thể Devil. Jyoti gục đầu vào lòng người bạn tù, không sao quên được ngày đầu hai người gặp gỡ.
Mười hai năm về trước, Jyoti là bà chúa trong buồng giam nữ tù. Nàng bị kết án tù chung thân vì tội giết chồng. Hắn cậy tiền, cậy thế bắt ép cha mẹ Jyoti đem con gán nợ. Suốt mấy năm đầu, hắn dày vò nàng no xôi chán chè rồi tha về cô vợ khác, coi nàng như đứa ở. Một lần, không chịu nổi sự hành hạ, xúc phạm, nàng đã cầm dao chống lại, lỡ tay giết hắn. Jyoti vào tù, hận đời trở nên hung dữ, tàn ác, trút hết mọi hết mọi ấm ức lên đầu các bạn tù. Trong xã hội người tù, dù là đàn ông hay đàn bà đều tồn tại nguyên tắc phân chia đẳng cấp bằng bạo lực. Sự xuất hiện của Devil trong buồng giam với các huyền thoại về nữ chúa đảng cướp rắn độc Cobra vẫn chưa đủ để Jyoti dễ dàng chịu khuất phục, trao quyền cai quản buồng giam. Tới giờ đi tắm, mấy chục người đàn bà đều trần truồng quanh bể nước, Jyoti gườm gườm đi lại quanh chỗ Devil, ngắm nhìn các hình xăm trên thân thể nàng. Có hai con rắn độc Cobra quấn từ cổ chân lên bẹn, vươn đầu lè lưỡi hướng vào chỗ kín của đàn bà. Hai đầu vú là hai ổ trứng rắn đang tách vỏ, chui ra những đầu rắn nhỏ và xanh biếc màu lá chàm. Trên bắp tay của Devil xăm trổ cái đầu con trăn lớn, đang há mồm nuốt chửng một con đại bàng...
- Này cô bạn lính mới! Nom cô mình cũng oách ra trò, nhưng để chị vẽ thêm vài cái đầu rắn lên mặt cho nó oai. – Jyoti nói gằn từng tiếng.
- Thôi đi, Jyoti! Cùng cảnh đi tù khổ sai còn gây sự với nhau làm gì – Devil nhẹ nhàng đáp.
- Mẹ kiếp! Đừng có đạo đức giả. Bà muốn xé cái L của mày ra nướng chả nhậu chơi lắm rồi.
- Lui ra cho mình tắm, Jyoti!
- Không được... Ở đây tao mới là người ra lệnh. Chúng mày đâu, vật nó ra cho tao vẽ lên mặt!
Hết thảy đám tù nữ đều đã nghe danh Devil, nhưng họ vẫn sợ Jyoti, lấm lét nhìn hai người không giám nhúc nhích.
- Này Jyoti! Mình không muốn đánh nhau. Chúng mình chém giết ngoài đời còn chưa đủ sao?
- Đồ đĩ!.. Đồ con lợn!..
- Jyoti gầm lên, xông tới, húc đầu vào Devil. Nàng càng tránh né, Jyoti càng hung hăng lấn tới. Cực chẳng đã, Devil phải ra tay xuất chiêu. Chỉ một cú đá ngoạn mục của nàng đã khiến Jyoti văng vào góc tường, té xấp xuống sàn. Bao lực đã trở thành ngôn ngữ êm tai. Sau lần ấy, ngôi vị buồng trưởng thuộc về Devil. Nàng sắp xếp lại buồng giam, chan hoà vui vẻ với mọi người. Tình bạn thân thiết giữa Jyoti và Devil cũng bắt đầu nảy sinh từ lần ẩu đả bất đắc dĩ ấy...
Nắng đã bò vào buồng giam, in lên sàn một mảnh lụa thiên nhiên vuông vức, vàng rực. Jyoti ôm chặt lấy lưng Devil nức nở không muốn rời xa. Nàng cảm thấy xót xa, ái ngại cho hoàn cảnh éo le, khó xử của Devil.
- Lát nữa gặp Singh chị sẽ nói gì? – Jyoti hỏi.
- Không, chị sẽ im lặng.
- Chị có theo Singh về lâu đài không?
- Có, biết làm sao khác được. Chàng đã chờ đợi thăm nuôi chị suốt mười hai năm cơ mà.
- Chị vẫn đồng ý làm lễ cưới à?
- Điều đó thì không, em ạ!
- Sao lai rắc rối thế?
- Chị sẽ sống với Singh một đêm, chỉ một đêm thôi. Cho chàng thật thỏa mãn, sau đó chị sẽ ra đi. Chị biết như vậy là tàn nhẫn, nhưng nếu ở lâu bên chàng, chị sẽ không thể nào bứt ra nổi. Chị khổ tâm lắm, Jyoti ơi!
- Chị sẽ quay lại Chambia?
- Ở đó còn gì nữa đâu mà về, hở em. Chi sẽ tìm đến thánh địa ở thị trấn Benashold dưới chân núi Hymalaya. Chị sẽ thả tấm thân ô nhục và tội lỗi của mình xuống thượng nguồn dòng sông Hằng, tắm gội cho sạch bong hết nợ đời. Sau đó chị sẽ tìm một đạo sĩ cao minh, theo đạo của người mà tu thân, sám hối.
- Trời ơi! Em thương chị quá, chị Devil! – Jyoti gục vào lòng bạn tù, nấc lên từng hồi...
- Yên tâm đi Jyoti! Chị sẽ tìm thấy hạnh phúc thiêng liêng trong sự siêu thoát, sẽ được đi vào cõi giới vô hình đầy quyền năng và thánh thiện. Mỗi lúc ngồi thiền, chị sẽ cầu chúc cho em, cho tất cả tù nhân ở khắp thế gian này. Trước đây, nhờ có Singh thường xuyên tiếp tế nên mấy chục chị em trong buồng giam sống đầy đủ, không thiếu thứ gì. Nhưng em đừng lo. Trước khi ra đầu hàng chính phủ, chị đã cho giải tán đảng cướp Cobra, phân phát đều tiền, vàng cho họ về quê làm lại cuộc đời. Phần của chị có mười triệu Rupi gửi ngân hàng, do một đệ tử thân tín đứng tên. Nay chị đã quyết định đi tu. Người tu hành không cần tiền bạc. Chị sẽ làm thủ tục cho em đứng tên tài khoản này, Jyoti ạ! Nhưng em phải hứa thay chị chăm sóc hết tù nhân ở đây. Ai được tha về trước thì em cho họ ít tiền làm vốn. Ai đã bị giam ở pháo đài Gwlior đều là kẻ trọng tội. Họ mỗi người vẻ, nhưng đều đáng thương như nhau.
- Em hứa suốt đời ghi nhớ, làm theo lời dặn dò của chị - Jyoti đáp qua hàng nước mắt.
- Thế thì tốt rồi. Nào, Jyoti hãy cười thật tươi cho chị an lòng đi.
Họ ôm nhau nở những nụ cười gượng gạo. Nước mắt họ trào ra nóng hổi, rơi đầy vai áo của nhau. Sáng hôm đó, Singh lái xe đến pháo đài Gwalior đón Devil. Trên tay chàng ôm bó hoa có bốn mươi hai bông hồng nhung đỏ thắm.
5- Singh tỉnh dậy thấy trời đã xế trưa. Cây bồ đề cổ thụ ngoài sân lâu đài đã gần tròn bóng nắng. Lũ chim câu nhẩn nha tìm mồi hoặc gù nhau bên những khóm hoa. chàng không nhìn thấy Devil, đoán nàng đang đi dạo bên lâu đài cổ kính. đời nàng từng chịu nhiều cay đắng giờ mới được thảnh thơi đi dạo, ngắm hoa sau một đêm ưỡn cong người chiều chuộng chồng hết cỡ. Devil đã kể cho Singh nghe quãng đời niên thiếu và cái lần bất hạnh đầu tiên xô đẩy nàng dấn thân vào con đường tội ác. Nàng bảo mình mắc bệnh lãnh cảm từ sau lần đại náo đảng cướp Cobra, chỉ cố làm ra vẻ hưởng ứng chàng, nhưng không hề biết mùi cực khoái. Singh không tin, chàng tự an ủi, đó chỉ là do mặc cảm mình không còn nguyên vẹn. Những đêm tới nàng sẽ quen dần, hào hứng, cuồng say trở lại. Chàng khoan khoái nằm lại trên chiếc giường gia bảo dùng cho những đêm tân hôn của cặp vợ chồng có vinh dự kế tục tước vương, thừa kế di sản của dòng họ đại quý tộc. Hết tuần trăng mật chàng sẽ đưa Devil trở về lâu đài ở quê hương vào dịp lễ thánh và kỷ niệm ngày phong tước vương của cụ tổ gia tộc của chàng. Singh muốn nằm chờ Devil quay trở lại buồng ngủ để chàng tự tay tắm cho nàng bằng sữa dê và dầu xả Palmaroza nổi tiếng của quê hương. Nàng sẽ sinh cho chàng một hoàng tử kế vị tước vương và nửa tá con trai, con gái. Singh sung sướng nhắm mắt lại suy tưởng và chờ đợi...
Người đầy tớ đẩy cửa, hốt hoảng chạy đến bên giường, quỳ xuống lay gọi Singh. Giọng anh ta hổn hển, hai tay run bần bật.
- Bẩm cậu! Đức ông đang chờ cậu bên phòng khách. Ngài rất buồn, mắt đỏ hoe, đôi vai cứ rung lên.
- Sao, có chuyện gì? Nói mau!
- Bẩm cậu! Cô Devil... cô Devil!...
- Devil?... Devil làm sao làm sao?
- Dạ, bẩm cậu!... Cô Devil đi... đi rồi ạ!..
- Đi đâu? Nàng đi... đi đâu... âu... đâu?..
- Bẩm cậu! Con không biết. Đức ông sai con gọi cậu lên ngay phòng khách. Ngài đang sốt ruột chờ cậu, hình như có thư của cô Devil gửi lại.
- Singh choàng dậy, quên mọi phép tắc của gia tộc, để nguyên quần lót, ngực cởi trần chạy lên phòng khách của lâu đài. Chàng thấy cha ngồi trầm ngâm, mắt ngấn lệ, tay mân mê mảnh giấy in hình gia huy của dòng tộc. Ngài nghị sĩ Manmu ngẩng lên, lặng lẽ vẫy tay gọi con trai đến bên bàn. Ông đưa cho Singh hai lá thư, một đã bóc và thấm nhoè nước mắt, một còn dán kín. Singh nhớ lại những lời bóng gió hồi đêm qua của Devil, khi chàng hỏi vì sao nàng chưa chịu làm lễ cưới. Vậy là nàng đã đi thật rồi, biết tìm đâu bây giờ. Chàng oà lên nức nở như một đứa trẻ, cầm hai là thư chạy về phòng ngủ. Chàng đặt hai bức thư xuống gối còn thơm mùi tóc nàng, bóc vội lá thư đang còn dán kín:
Singh vô cùng yêu quý!
Tôi đã quyết định rời xa Singh ngay từ cái đêm nằm thức đợi tự do ở pháo đài Gwalior. Lẽ ra tôi nên ở lại lâu đài thêm vài ngày để Singh được thoả lòng khao khát. Tôi mắc nợ Singh nhiều lắm! Tình yêu của Singh dành cho tôi thật trong sáng, thơ mộng và đáng quý biết bao. Song tôi không xứng với tình yêu cao thượng, đẹp đẽ của Singh. Lương tâm không cho phép tôi làm hỏng cả cuộc đời và danh giá của Singh. Nếu còn yêu tôi, xin Singh đừng mất công tìm kiếm, hãy dành thời gian, tâm trí gây dựng sự nghiệp. Hạnh phúc thực sự sẽ đến với Singh bởi xứ Ấn của mình còn nhiều cô gái hiền thục nết na, tâm hồn trong trắng, tinh khiết như mạch nước đầu nguồn con sông Hằng ngàn đời linh thiêng. Hãy tha lỗi cho tôi, Singh ơi! Tôi không thể chờ chàng thức dậy đưa tận tay lá thư này, càng không thể nấn ná ở lại cùng Singh dù chỉ là một đêm. Nếu trực diện nhìn vào mắt Singh, tôi sẽ nhũn mềm thân xác, tiêu tan mọi nghị lực, không thể rời xa...
Singh không còn đủ can đảm đọc tiếp lá thư. Chàng úp mặt vào chiếc gối của Devil thổn thức gọi hoài tên nàng: “Devil, ôi Phoolan Devil!.. Em ở đâu, Devil?... Sao em nỡ bỏ anh mà đi? Devil, ôi Poolan Devil!... Devil!”... Hồi lâu chàng sực nhớ, cầm vội lá thư nàng gửi cho cha. Bức thư nhòe ướt từng lời đắng đót:
Thưa cha!
Xin đức ông Manmu tôn kính hãy cho phép Devil gọi người bằng cha lần đầu, cũng là lần cuối cùng. Con chỉ là cô gái giang hồ, thân xác dơ bẩn, linh hồn tội lỗi. Con không xứng với tình yêu của Singh, mặc dù tim con tha thiết yêu chàng. Cha không nói ra lời, nhưng từ hôm đầu gặp cha, nhìn dáng điệu trầm uất của cha ngồi trên chiếc ghế bành, con đã hiểu cha đau khổ và thất vọng về Singh, oán trách kẻ đã vô tình gây tai hoạ cho cả dòng tộc mình, kẻ đó là con. Suốt mười hai năm bị cầm tù thân xác trong pháo đài Gwalior, tình yêu và khát vọng được sống cho đúng nghĩa một người đàn bà trong con lại bị cầm tù lần thứ hai, bởi nỗi mặc cảm và ray rứt về tội lỗi đã gây ra với cha, dù chỉ là thụ động, vô tình. Con đã cố ghìm nén, nhưng tình yêu chân thực của Singh, ánh mắt nụ cười ngây thơ của chàng cứ nuôi một ảo giác êm dịu, đánh lừa ý chí của con. Chỉ đến ngày được trả tự do, đối mặt với sự thật phũ phàng, con mới tỉnh ngộ. Con xin cúi lạy tạ lỗi cùng cha và trao trả chàng Singh cho đức ông tôn quý. Khi cha cầm được lá thư này, con đã đi xa, rất xa. Mong cha động viên, an ủi chàng sớm quyên đi tất cả...
Ngài Manmu bước vào buồng, lặng lẽ đến ngồi bên mép giường nhìn con trai. Ông không nói năng gì, vì biết đối với Singh lúc này yên lặng là liều thuốc an thần êm dịu nhất. Sự hiện diện của ông, vẻ tiều tuỵ thất thần vì đau buồn của ông đã nói với Singh nhiều điều. Hai cha con ôm nhau nghẹn ngào, nghe rõ từng nhịp đập con tim của nhau. Bầu trời ngoài sân lâu đài như dịu lại cơn nóng, hây hẩy gió nồm nam. Cây bồ đề cổ thụ lao xao rung động, lãng đãng rơi mấy chiếc lá vàng...
6- Devil ngả mình nằm trên một phiến đá dưới gốc cây dẻ trên sườn đồi, nhìn ra dòng sông Hằng. Rời lâu đài của Singh đã một tuần trăng, sau nhiều chặng tàu xe, hôm nay nàng mới đặt chân lên thánh địa Benashold, dưới chân dãy núi Hymalaya hùng vĩ. Giờ này Singh đang làm gì? Dẫu đã quyết tâm chia tay chàng, mà sao suốt dọc đường Devil vẫn thấy lòng bứt rứt. Trước khi đi Benashold, nàng không quên làm các thủ tục để Jyoti làm chủ tài khoản ở ngân hàng với số tiền mười hai triệu Rupi. Nàng chỉ đem theo một ít tiền nhỏ trong số lãi xuất của mười năm để chi tiêu dọc đường. Một luật sư có uy tín sẽ đến pháo đài Gwalior, ký hợp đồng làm đại diện cho Jyoti rút tiền ở ngân hàng, mối khi Jyoti yêu cầu. Devil đã có thể yên tâm về Jyoti và các bạn tù trong buồng giam. Nhưng còn Singh, chắc chàng sẽ đau khổ, thất vọng vì cuộc chạy chốn của nàng. Hạnh phúc vừa đến sau mười hai năm kiên trì chờ đợi bỗng nhiên bị tuột khỏi tay, hỏi làm sao chàng không choáng váng, hut hẫng. Nỗi đau rồi cũng sẽ qua đi. Cuộc tình của Singh và Devil sẽ chỉ còn là một kỷ niệm đẹp, còn hơn nếu tiếp tục sống bên nhau biết đâu có ngày tan vỡ. Một khi đã nhìn thấy nguy cơ tiềm ẩn, tốt nhất là cắn răng dứt bỏ cuộc tình. Singh còn trẻ, tiền đồ đang mở rộng trước mặt…
Từ sáng, Devil bắt đầu tập ăn chay, hoà lẫn vào dòng người hành hương đi khắp thị trấn Benashold quan sát. Đâu đâu nàng cũng gặp các đạo sĩ và những tín đồ. Trong làn khói hương nghi ngút, đám tín đồ hành hương chen chúc nhau lầm rầm cầu nguyện với nét mặt thành kính. Devil như cảm thấy lạc vào một thế giới lạ lùng, huyền bí. Nó làm cho tâm hồn nàng thanh thản, nhẹ nhõm, quên đi mọi nỗi u buồn. Tận nơi trong sâu thẳm của trái tim Devil ngân rung lên điệu nhạc du dương của niềm khát khao thoát tục. Ai đã từng trải qua cuộc sống dữ dội nhiều năm mới cảm nhận được hết ý nghĩa của dòng người lũ lượt hành hương về nơi đất thánh, kiếm tìm những giây phút lâng lâng thoát tục. Nhưng Devil nhìn đã mỏi mắt, hỏi đã khàn hơi, vẫn chưa gặp được một đạo sĩ chân tu trong trí tưởng tượng và sự mong mỏi của mình. Banashold giống như một cái chợ trời mà ở đó các đạo sĩ mang kiến thức và kết quả tu luyện ra bày bán, chào mời. Có lúc nó lại giống một rạp xiếc cho đủ loại đạo sĩ biểu diễn quyền năng, pháp thuật của mình. Có vị mình mai vóc hạc, vừa đi vừa tụng niệm những câu thần chú khó hiểu: bên cạnh đó lại có vị to lớn, lực lưỡng đang biểu diễn môt tư thế Yoga. Có vị chống gậy trúc, đứng trầm tư hàng giờ dưới gốc cây bồ đề; bên cạnh đó lại có vị vừa nhảy nhót vừa ca hát, gọi tên các vị thần. Devil đã gặp nhan nhản ở Benashold những đạo sũ râu tóc xồm xoàm, quấn mình trong mảnh vải hôi hám, rách như xơ mướp hoặc các đạo sĩ áo quần săc sỡ, lăng xăng biểu diễn những trò lạ lùng như nằm trên bàn đinh, thổi sáo gọi rắn ra múa... Chẳng lẽ tất cả những gì đang diễn ra trước mắt lại là thứ đạo mà nàng khao khát tôn sùng, tìm kiếm ư? chẳng nhẽ quyền năng vô biên của mọi thứ đạo trên đất Ấn Độ này chỉ có bấy nhiêu thôi? Devil thật ngỡ ngàng khi gặp vô số đạo sĩ ai cũng tự xưng là người kế tục sự nghiệp của đức thánh Krishna, đã từng là Phât Thích Ca trong một tiền kiếp, vậy mà họ sẵn sàng làm bùa chú, thư phù, giúp tín đồ hành hương nguyền rủa kẻ thù, hứa hẹn với tín đồ mê hoặc một cô gái đẹp... Khi nàng hỏi mua sách cổ truyền của các bậc thánh minh triết thì rất đông các đạo sĩ bâu lấy nàng và giá biểu cứ thi nhau hạ dần sau mỗi cái lắc đầu. Nàng cảm thấy hoang mang, thất vọng, mệt mỏi rã rời. Chỉ khi thoát khỏi những đám đông đạo sĩ rởm, ra bến vắng bên bờ sông Hằng khỏa thân ngụp lặn, Devil mới bình tĩnh trở lại. Nàng mặc quần áo, lên đồi trải tóc, nằm dưới gốc cây dẻ ngắm nhìn trời cao, trầm ngâm suy nghĩ. Devil chợt hiểu ra rằng, càng những nơi chốn ồn ào, lắm kẻ vỗ ngực phô trương tụng niệm, rao giảng, bài xích lẫn nhau, coi đạo của mình là nhất, thì ở đó không thể tìm đâu ra đạo sĩ chân chính, cao minh. Họ vượn vía thánh, thần, Phật tổ để tô son chát phấn cho mình, lừa mị đám quần chúng ngu dốt, thuần phác. Đằng sau những lời nói khoác lác, những khái niệm mập mờ, huyền bí và những lời hứa hẹn suông, một dã tâm đen tối, nhân cách thấp hèn. Thế giới đạo sĩ ở đây có hơn gì thế giới của đảng cướp Cobra hay thế giới của buồng giam nữ tù trong pháo đài Gwalior.
Devil mỉm cười chua chát. Tiếng tắc kè ném lưỡi vào không gian trên các gốc cây dẻ nghe giật cục, buồn thiu. Gió lay động cây rừng, làm rơi những hạt dẻ màu nâu đen khô khốc xuống sườn đồi, báo mùa thu sắp qua. Nàng nhìn ra con sông Hằng mênh mang chảy về xuôi, nhớ lại lời kể của một tín đồ mà buổi sáng nàng nghe được trong thị trấn. Bà ta nói về ngôi đền thờ thần Naga, cách thị trấn vài dặm theo hướng đi dọc bờ sông Hằng, với một vẻ thành kính ngời lên trong ánh mắt của mình. Đạo sĩ Babush đến vùng này đã được gần hai chục năm. Ngài thông kim bác cổ, giảng đạo hùng hồn, chữa được nhiều thứ bệnh nan y chỉ bằng luồng điện sinh học phát ra từ một con trăn khổng lồ quấn ngang bụng của ngài. Dân chúng và nhiều đạo sĩ xầm xì lan truyền câu chuyện về một đêm ngài ngồi thiền trong hang núi, trên đỉnh dãy Hymalaya, được thần Naga nhập vào, ban cho nhiều phép thuật cao siêu để, hạ sơn sứu giúp chúng sinh ra khỏi vòng khổ ải, u mê. Nhiều thiếu nữ hay mệnh phụ quyền quý được ngài cho ân sủng lưu lai trong đền một hai tuần học đạo, lúc trở về càng thêm xinh đẹp, buôn bán phát tài, chồng con thăng tiến hay tìm được người yêu danh giá, có học vị và nghề nghiệp cao sang. Học trò theo học đạo của ngài đến ở hẳn trong đền rất đông, con số lên tới vài trăm người, cả đàn ông lẫn đàn bà. Đã là học trò của ngài Babush, mỗi khi ra thị trấn, các đạo sĩ thuộc môn phái khác đều phải kính trọng, ngoan ngoãn nghe theo lời sai khiến, răn bảo của họ. Kẻ nào tỏ ra bất kính, lập tức hôm sau biến mất tăm dạng, không còn xuất hiện ở Benashold. Một vị đạo sĩ tiếng tăm lừng lẫy, rất ít xuất hiện ở nơi đông người ồn ào trong thị trấn, được dân chúng và nhà chức địa phương sùng kính, chắc ngài phải rất thông tuệ, uyên bác, quyền năng siêu phàm. Devil rất muốn đến ngôi đền ấy thắp hương, xin gặp đạo sĩ, tình nguyện làm đệ tử của ngài. Nhưng cái tên Babush cứ làm nàng phân vân, thắc mắc. Kẻ tử thù của nàng năm xưa trong đảng cướp Cobra cũng có cái tên đó. Nghe dân chúng mô tả đạo sĩ Babush để râu dài, đi đứng khoan thai, dáng ngồi đường bệ, giọng nói sang sảng lưu loát. Tướng cướp Babush trong đảng Cobra ngày xưa không để râu, cao lớn dữ dằn, có tài hùng biện và nhiều mưu mẹo. Chẳng lẽ hắn như con rắn lột xác trở thành đạo sĩ? Chẳng lẽ suốt bao năm nàng tốn tiền thuê thám tử đi lùng sục khắp nước Ấn Độ mà không có vị thám tử nào đến thánh địa Benashold? Không. Không thể có chuyện lạ đời như vậy. Chốn tu hành linh thiêng không có đất sống cho con quỷ dâm dục, tàn ác như Babush. Đây có lẽ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Devil tự nhủ lòng mình, cố xua đi mọi ám ảnh tội lỗi. Điều khiến nàng ngờ vực là thời gian xuất hiện của đạo sĩ Babush ở Benashold rất khớp với thời gian xảy ra vụ thảm sát, cướp quyền ở đảng cướp Cobra, trong thung lũng Chambia năm nào. Đó là ngày nàng bước lên ngôi cao quyền lực và việc để xổng Babush đã luôn gây cho nàng cảm giác bực bội, thù hận bọn đàn ông. May mắn số phận đã xui khiến cho nàng gặp Singh ở pháo đài Gwalior, để nàng tìm thấy được tình yêu dịu ngọt, thanh cao trong thế giới đàn ông nhiều tội lỗi hơn là sự thánh thiện, để nàng hiểu ra một điều trong cái thế giới đàn ông nàng khinh bỉ và căm ghét, vẫn còn những con người tuyệt vời như Singh và ngài nghĩ sĩ Mamun. Devil cố dằn lòng, nhưng nàng vẫn nửa tin nửa ngờ ngài đạo sĩ mình đang muốn gặp, tình nguyện làm đệ tử. Mọi điều ngờ vực đành phải chờ đến buổi lễ thánh của ngôi đền vào ngày hôm sau. Nàng mở gói cơm chay mua ngoài chợ uể oải nhai và thiu thiu ngủ dưới tán cây giữa rừng dẻ bạt ngàn, lục tục tiếng tắc kè đua nhau ném lưỡi ào không gian huyền bí, mênh mông bên sông Hằng. Xa xa dãy núi Hymalaya hùng vĩ mờ dần trong ánh hoàng hôn lịm tắt.
7- Devil ngủ rất say sưa sau một ngày mệt nhọc, căng thẳng lang thang khắp thị trấn Benashold. Nàng mơ thấy mình trong đêm tối, mặc bộ đồ đen có mũ trùm kín mặt, chỉ lộ đôi mắt, giống như trang phục của phái Liên gia bên Nhật. Bên hông nàng đeo lủng liểng thanh kiếm Thiên Long gia truyền, quyết tìm ra bí mật ở đền thờ thần Naga và đạo sĩ Babush. Nàng nhẹ nhàng áp sát ngôi đền bí hiểm, đu mình trèo lên mái ngói. Sau một hồi tìm kiếm. Devil đã phát hiện ra mật phòng của đạo sĩ Babush. Nàng khẽ cậy mấy viên ngói nhìn xuống thấy Babush đang ngồi xếp bằng tròn trên bệ đá rải tấm thảm đắt tiền của Arập. Sau lưng Babush có hai cô gái trẻ nửa ngồi, nửa quỳ đấm lưng và xoa bóp. Trước mắt đạo sĩ là các đệ tử thân tín ngồi xếp hàng thành hai dãy, khoảng chừng ba chục người, nom ai cũng to cao, vạm vỡ và rất dữ dằn. Dù để râu, khoắc trên mình tấm áo choàng màu vàng của đạo sĩ, nhưng Devil vẫn nhận ra y chính là tên cướp Babush trong đảng cướp Cobra năm nào. Mỗi tên đệ tử của hắn phụ trách cai quản một khu vực trong thánh địa Benashold và thu tiền cuả tất cả các đạo sĩ hành nghề trong địa phận mình cai quản. Devil ngồi trên mái nhà chứng kiến từng tên mang tiền thu được trong ngày lên nộp cho Babush, điệu bộ rất cung kính và khép nép. Hai tên ngồi đầu dãy nàng cũng nhận ra đã từng có mặt đảng cướp Cobra, thuộc tốp do Babush cai quản. Một trong hai tên đợi mọi người nộp tiền xong bước ra nói:
- Thưa đức bề trên, hôm nay trong thị trấn xuất hiện một sự kiện lạ.
- Là chuyện gì? – Babush thờ ơ hỏi lại.
- Thưa bề trên, con quỷ cái Devil đang có mặt ở đây.
- Nó đi một mình hay mang theo bọn rắn độc Cobra?
- Thưa nó đi có một mình mới là sự lạ.
- Ta nghe nói, nó đã đầu hàng Chính phủ, bị kết án tù mười hai năm ở pháo đài Gwalior cơ mà?
- Vâng, thưa đức bề trên! Nhưng tính đến nay thì hạn tù đã hết, có thể nó vẫn thuê thám tử dò ra tung tích chúng ta.
- Đã cho người theo dõi chưa?
- Chúng con đã cử người bám sát đến tận chiều, chưa thấy có gì khả nghi. Nó có vẻ như một tín đồ đi hành hương cũng ăn chay và tắm nước sông Hằng.
- Theo các ngươi nên xử trí với con quỷ cái này thế nào?
- Người của con vẫn tiếp tục bám sát theo dõi. Hiện nó đang ngủ một mình dưới gốc cây dẻ, trên sườn đồi vắng vẻ, cạnh bờ sông. Nếu bề trên ra lệnh, chúng con lập tức sẽ khử liền.
- Chưa cần thiết. Ở Chambia nó là nữ chúa đảng cướp đáng sợ. Vì nó mà thầy trò ta phải chui lủi, trốn tránh lên tận đây cải trang mặc áo tu hành. Thời thế bây giờ đã đổi khác. Ta đã thành một vị thánh. Dân chúng và cả chính quyền ở Benashold đều thuộc về ta. Ai tin lời một con nữ tù khổ sai vừa được phóng thích. Nom nó độ này thế nào?
- Nó vẫn đẹp mê hồn, thậm chí còn hấp dẫn hơn cả hồi ở Chambia.
- Cầu trời nó dẫn xác đến đền thờ của chúng ta. Nữ chúa xinh đẹp của đảng rắn độc Cobra mà được lột truồng trong đền thờ thần Naga, để thày và trò chúng mình đè ngửa ra làm tình mới thật tuyệt vời. Vội gì phải giết nó trên đồi cây vắng vẻ cho hoài phí. Ha ha!..
Babush phá lên cười khả ố, đám đệ tử đầu trâu mặt ngựa cũng được thể tán theo, làm huyên náo cả ngôi đền nghi ngút hương khói và những điện thờ, tượng thánh trang nghiêm. Devil nghiến răng, run người vì căm tức. Nàng thét to “Babush mày phải chết”, rồi rút kiếm Thiên Long tung người từ trên mái đền nhảy xuống giữa phòng. Nàng vừa vung kiếm chém lia lịa vừa gầm thét. Babush và đám đệ tử bị bất ngờ, trở tay không kịp. Từng đứa, từng đứa bị thanh kiếm gia truyền đốn ngã như những khúc chuối. Một số hoảng hốt tháo chạy ra ngoài hiên kêu cứu. Devil vẫn chưa hả giận. Nàng lấy kiếm băm nát xác Babush. Người nàng vấy đầy máu...
8- Devil tỉnh dậy, trời còn chưa rõ mặt người. Giấc mơ hồi đêm làm nàng bàng hoàng kinh sợ. Đời nàng có lẽ muốn đi tu thoát tục cũng không thoát nổi, vẫn phải chống trả quyết liệt mọi thế lực hắc ám, vẫn phải tàn bạo và chém giết. Nàng uể oải lê gót chân xuống bờ sông, vốc nước rửa mặt. Gió sớm mai cùng nước sông Hằng giúp nàng tỉnh táo. Nàng cảm thấy luyến tiếc thanh gươm Thiên Long gia truyền. Để tỏ rõ thiện trí của mình, mười hai năm trước, Devil đã cho đóng một hòm gỗ quý đựng gươm Thiên Long gửi tặng bà Thủ tướng với lời đề mạ vàng ngoài vỏ: “Tôi đầu hàng không phải vì công lý của bọn đàn ông”. Nếu giấc mơ đêm qua là sự thật, nàng lấy gì làm vũ khí để đối phó với Babush? Từ thị trấn đến ngôi đền thờ thần Naga còn vài dặm đường. Devil nhẩm tính sẽ ghé vào một lò rèn hay sạp buôn nào đó mua một con dao sắc. Linh tính mách bảo nàng đã tìm ra tung tích kẻ thù. Dù phải dấn thân vào nơi hang hùm nọc rắn, nàng cũng quyết đấu một trận thư hùng với Baush. Khoác túi hành lý trên vai, Devil đi theo men theo lối mòn trên bờ sông, nhằm hướng đền thờ thần Naga rảo bước.
Mới đi được chừng hơn một dặm, chợt từ trong rừng lau sậy um tùm một con trăn khổng lồ rẽ cây ào ào xô tới như một trận cuồng phong dữ dội. Nó trườn ra con đường đất, ngóc đầu về phía Devil há to miệng, lè cái lưỡi đen sì, phun phì phì hơi thở và nọc độc. Nếu lúc này có thanh gươm hay một chiếc gậy Devil sẽ không hề run sợ. Nhưng nàng chỉ có tay không, còn con trăn thì to bằng thân cây chuối lớn, dài chừng năm sáu mét, đang hung dữ muốn nuốt chửng nàng. Loại trăn gió này Devil đã gặp nhiều lần ở thung lũng Chambia. Nó lao rất nhanh, có chạy cũng vô ích, không kịp với nó. Đúng lúc này, nàng nghe thấy tiếng đọc thần chú dưới bờ sông của một vị đạo sĩ già, râu tóc bạc phơ, nhưng tiếng ngài sang sảng vang xa cả một vùng sông nước, cây cỏ. Con trăn nghe thần chú của ngài thôi hung hăng, cuộn tròn giữa đường cái, cặp mắt lờ đờ như mê đi. Đạo sĩ chống gậy trúc lại gần vỗ nhẹ vào đầu, nói vài lời với nó. Con trăn ngoan ngoãn trườn vào rừng lau sậy, bò đi mất hút. Devil hoàn hồn, chắp tay quỳ xuống đất cảm ơn cứu mạng của đạo sĩ. Ngài mỉm cười chỉ vào mô đất bên đường ra hiệu cho Devil ngồi xuống, rồi ngài gác cây trúc bên người khoan thai ngồi đối diện trước mặt nàng.
- Con không cần phải cảm ơn. Ta nhận được tín hiệu từ trong cõi giới vô hình. Đấng tối cao ra lệnh cho ta phải hạ sơn cứu con khỏi môt lần tội lỗi - Đạo sĩ ôn tồn nói.
- Sao lại tội lỗi? Con đang bị loài trăn tấn công cơ mà?
- Không. Con trăn lúc nãy chỉ làm theo ý muốn của đấng tối cao, ngăn cản bước đường con tiến đến tội lỗi. Trên nét mặt con từ lúc khởi hành đến bây giờ vẫn đầy sát khí. Đằng sau chỗ con ngồi đang có bóng quỷ vây quanh. Ta còn đọc trong óc con ý đồ tìm mua dao sắc, mang đến ngôi đền thờ thần Naga để giết Babush. Có đúng không?
- Vâng... Thưa đạo sĩ! – Devil lí nhí thú nhận.
- Vậy nên con trăn ban nãy là hình tượng chứng minh cho con thấy, nếu chỉ biết dùng bạo lực tiêu diệt bạo lực thì sẽ có một thứ bạo lực khác tiêu diệt chính mình. Oán thù nối tiép oán thù điên đảo giữa cõi nhân sinh đã dẫn loài người quẩn quanh trong vòng u mê. Con đến thánh địa Benashold với lòng khát khao thoát tục, đoạn tuyệt với mọi ham muốn, ân oán giang hồ. Điều này đấng tối cao cũng đã gửi thông điệp cho ta biết. Vậy mà chỉ một chút nghi ngờ về cái tên Babush loé lên trong đầu đã làm bốc cao ngọn lửa thù hận nơi trái tim con. Nếu sức con thắng được một người thì con là người biết võ. Nếu sức con thắng được cả trăm người thì con võ nghệ siêu quần. Song nếu con thắng được tâm mình, tức là thắng con quỷ vô minh đang ẩn náu trong đó thì con mới là bậc thánh võ, chân tu.
- Nhưng thưa đạo sĩ! Suốt một ngày hôm qua đi lang thang quanh thị trấn Benashold con chỉ được chứng kiến những trò lố bịch, làm con thất vọng.
- Con nói không sai. Ấn Độ giáo đang gặp lúc suy vi. Benashold không còn là nơi thánh địa linh thiêng, thuần khiết của các bậc chân tu, đạo hạnh. Đa số các đạo sĩ, tu sĩ dốt nát về kiến thức, bệ rạc về thể xác, bệnh hoạn về tâm hồn,nhân cách thấp hèn. Họ cóp nhặt vay mượn vài phép tu, vài phương pháp dưỡng sinh, vài câu thần chú, sấm truyền của thánh nhân để rồi kiếm ăn qua sự u mê, cuồng tín của dân chúng. Phần lớn họ là những kẻ thất bại ngoài đời, lười nhác không chịu làm việc. Ở xứ sở chúng ta, dân chúng như một bầy gà, đàn trâu đần độn, chất phác cả tin và dễ bảo. Vì vậy không có gì dễ hơn để kiếm cơm ăn, áo mặc,nhà ở, thậm chí cả quyền uy là tìm cách chui vào hàng ngũ đạo sĩ. Đất nước trì trệ, rối ren, không có một tiêu chuẩn để thi cử, một biện pháp hữu hiệu để kiểm soát năng lực và học vấn nên bất cứ ai cũng chỉ cần học thuộc vài câu kinh, vài hình thức nghi lễ, cúng tế là có thể khoác áo thụng vàng và trở thành đạo sĩ, đâu đâu cũng nhộn nhạo một thứ chợ trời đạo sĩ.
- Xin đạo sĩ cho con biết một sự thật. Có phải rằng Babush ở đền thờ thần Naga cũng nằm trong số ấy?
- Đúng, từ lâu ta đã biết nó là một trong mười hai tên cướp thân tín của chúa đảng Cobra mà con vẫn truy lung ráo riết. Bon đạo sĩ giả mạo này không chỉ có ở thị trấn Benashold hẻo lánh, mà nhan nhản khắp xứ sở thân yêu của chúng ta. Bọn họ đã làm hoen ố danh dự tôn giáo, lợi dụng đức tin để làm chuyện đồi bại, xằng bậy. Đã thế họ còn tụ tập phe phái, phong chức tước, ca tụng lẫn nhau, đả kích các “đạo sĩ” không cùng phe nhóm.
- Nếu vậy thì viêc con tìm giết Babush là cứu nguy cho sự suy đồi của Ấn Độ giáo, báo thù cho cha, rửa hận cho mẹ, có gì là không nên?
- Con nói sai rồi. Một mình con làm sao có thể giết hàng nghìn, hàng vạn thằng Babush cụ thể bằng xương bằng thịt. Ở đền thờ thần Naga còn có cả một thế lực đông đảo, chắc gì hôm nay con đã giết được y và thậm chí sẽ rơi vào cạm bẫy, bị y làm nhục.
- Vậy con biết tin vào ai? Biết tìm đâu là đất thánh để tu thân, thoát tục?
- Lich sử Ấn Độ cho thấy khi xưa Benashold vốn là đất thánh linh thiêng, các bậc chân tu, đạo sĩ chỉ cần đến đây tắm mình trên dòng sông Hằng, hít thở khí thiêng của dãy núi Hymalaya là có thể trở thành con người khác hẳn, tiếp thu dễ dàng tư tưởng huyền diệu của các bậc thánh minh triết. Sau này khách hành hương qua đông, một số ăn mày và lưu manh trộm cắp kéo đến hành nghề. Họ thấy làm đạo sĩ vừa danh giá, lại dễ kiếm ăn hơn nên đã “chuyển nghề”. Dĩ nhiên ở Benashold vẫn còn nhiều tu sĩ có học thức, đạo sĩ cao minh dốc trọn tâm huyết đi tìm chân lý, rũ bỏ mọi ham muốn, tĩnh tâm toạ thiền đạt tới trí tuệ minh mẫn, quyền pháp vô biên. Các đạo sĩ chân tu không thèm đếm xỉa đến bọn người vô lại, giả danh đạo sĩ quanh mình. Họ quan niệm con người ta ở đời có nhiều đường tu khác nhau, ai tu nấy chịu.
- Tại sao các bậc chân tu, đạo hạnh kia không giáo hoá cho dân chúng, giúp họ bừng tỉnh cơn mê muội, phân biệt rõ thật giả,trắng đen?
Đạo sĩ im lặng ngồi nhìn Devil hồi lâu rồi khẽ thở dài nói tiếp:
- Gia tài văn hoá rực rỡ của xứ Ấn Độ ta có từ mấy nghìn năm trước công nguyên. Sự trì trệ, bảo thủ đã làm cho đất nước kiệt quệ, dân chúng nghèo đói, dân trí thấp hèn và ngu muội. Lòng sùng tín khiến họ trở nên ngây thơ, nhẹ dạ, sắn sàng làm theo sự mách bảo của bọn người bất lương giả danh đạo sĩ. Một lý do nữa là sự mệt mỏi, thất vọng khiến dân chúng sinh ỷ lại vào sức mạnh của thần quyền. Đa số dân chúng vì mải mê với sinh kế, không có thì giờ lo việc tinh thần nên họ uỷ thác cho các tu sĩ, đạo sĩ mà họ tin tưởng, thành kính, tuyệt đối trung thành với thần tượng tinh thần của mình. Bọn đạo sĩ rởm lợi dụng tối đa vấn đề này, hứa hẹn chăm lo tinh thần cho các tín đồ dựa theo nhu cầu, sở nguyện của từng người. Vô tình xung quanh một tên đạo sĩ rởm hình thành một đám quần chúng mù quáng và trung thành, sẵn sàng tử vì đạo. Để tranh giành tín đồ, mỗi đạo sĩ rởm tự lập một môn phái, xưng hùng, xưng bá. Các sách vở minh triết của nhiều vị thánh Ấn Độ giáo đã bị bóp méo, sửa đổi rất nhiều, không thể phân biệt giữa điều có thật với những sự kiện huyền hoặc. Bọn bất lương tha hồ cắt xén, thêm bớt vào kinh điển những điều có lợi cho chúng, nhưng lại dùng những danh từ, khái niệm nghe rất to tát để lừa mị như: thời gian luận, phương pháp luận, nhất nguyên luận, đa nguyên luận, không gian luận, thế giới luận... Giáo hoá một dân tộc đang chìm đắm trong vòng tăm tối, ngu muội là viêc cần làm, nhưng phải kiên tâm. Bọn lừa đảo, mạo danh đạo sĩ sống dưới gầm trời mà không thuận theo ý thánh tất sẽ có ngày bị tuyệt diệt. Chúng có thể lừa dối, ru ngủ một vài người, thậm chí một cộng đồng nhỏ, nhưng không thể lừa dối, ru ngủ mãi mãi cả một dân tộc…
Devil say sưa nghe giống như uống từng lời của vị đạo sĩ già bí ẩn. Nàng thấy trong lòng nhẹ nhõm, quyên hết mọi nỗi đau buồn, thù hận. Cái tên kẻ tử thù Babush bỗng trở nên xa lạ, không còn mọt ý niệm gì trong đầu óc nàng. Devil chỉ thấy lâng lâng khoái cảm như được bay lượn trên các tầng mây của sãy Hymalaya hay lặn sâu xuống đáy vô cùng của dòng sông Hằng. Nàng gục đầu xuống bãi cỏ xanh, bưng mặt thổn thức vì sung sướng, lòng tràn đầy hạnh phúc. Đạo sĩ già đứng dậy, dắt tay nàng đi ngược về phía dãy núi Hymalaya. Họ đi, đi mãi qua nhiều ngày trong rừng rậm, đói ăn trái cây, khát uống nước suối. Dốc núi cao, cheo leo hiểm trở, nhưng Devil nắm vào tay đạo sĩ bước đi băng băng như lướt chân trên ngọn cỏ, trong một cảm giác phi trọng lượng. Chẳng bao lâu họ đã trèo lên đỉnh núi cao chót vót và gặp một thung lũng mọc đầy cây Pơ mu cao to bằng mấy người ôm. Gió reo vi vu trên đầu, trong những vòm lá biếc. Dưới chân từng vạt mây trắng như những dải lụa mỏng tang, ôm ấp quanh trương núi đá. Devil theo chân vị đạo sĩ già bước vào một ngôi đền xây toàn bằng đá hoa cương trắng toát. Đền rộng mênh mông nhưng không hề có điện thờ, tượng thánh hay các đồ cúng tế. Sự trống không gây một cảm giác hoang sơ, vắng lạnh. Bức tường dày ngăn cách mọi thứ âm thanh với thế giới bên ngoài, im kặng đến mức có thể nghe được bước chân con nhện bò trên tường. Sàn nhà chia thành chín bậc tượng trưng cho chín bước tu hành lên đến cửu trùng. Devil ngạc nhiên hỏi đạo sĩ:
- Con không hiểu ngài đưa con qua bao dặm đường, dốc núi cheo leo chỉ để đến ngôi đền bỏ hoang này?
- Nó không hề bị bỏ hoang. Từ sáu nghìn năm nay nó vốn đã như vậy, con ạ! Tục truyền có hoàng đế trẻ tuổi mang quân vượt dãy Hymalaya, đi chinh phục xứ Tây Tạng. Ngài gặp một đạo sĩ ở chính tảng đá ngoài cửa ngôi đền. Đạo sĩ khuyên vua từ bỏ ý định dùng bạo lực mà chỉ nên lấy nhân nghĩa đối xử với người. Nhà vua tỉnh ngộ bãi binh, khuyến khích dân và quần thần sống theo đạo hạnh, nhờ vậy vương quốc của ngài thịnh trị suốt một ngàn năm. Thời gian trôi qua, đến nay chẳng còn ai nhớ tới thời đại của vị hoàng đế ấy, ngay cả sử sách cũng không ghi lại. Để kỷ niệm cuộc gặp gỡ ấy, dân chúng xây một ngôi đền bằng đá không có bất cứ một hình tượng gì là muốn nói với đời sau rằng chân lý tuyệt vời vốn vô hình, vô tướng. Phàm là người tu hành đến đây chỉ cần một chỗ ngồi lần lượt từ bậc thứ nhất đến bậc thứ chín. Ngồi im lặng ở bậc thứ nhất sẽ thấy mình quên dần mọi ham muốn dục vọng. Ngồi im lặng tiếp trên bậc thứ hai sẽ hết ưu phiền hay oán giận... Cứ thế nếu kiên trì ngồi im lặng cho đến bậc thứ chín sẽ hoàn toàn thoát tục, tâm hồn có thể thoát ra ngoài thể xác đi tìm chân lý trong cõi giới vô hình, quyền năng tuyệt đối, vô biên.
- Mỗi bậc sẽ phải ngồi im bao lâu, thưa đạo sĩ?
- Cái đó còn tuỳ vào cái tâm và sự thông tuệ của mỗi người. Bí quyết đắc đạo chỉ là sự im lặng về thân xác sẽ im lặng về tư tưởng và sự im lặng đồng nghĩa với quyền năng. Con người ai cũng có sức mạnh tư tưởng, nhưng vì vô ý thức họ đã để cho nó hao tán. Quyền năng hao tán là động, còn tập trung lại là tĩnh. Khi tập trung mọi sức mạnh tư tưởng vào một trung tâm sinh lực duy nhất, tâm hồn con người thoát ra khỏi thể xác, hoà nhập vào cõi giới vô hình, biến thành quyền năng linh thiêng. Minh triết cũng được phát minh từ sự im lặng. Khi một người tu hành thành tâm trong tĩnh lặng, anh ta sẽ hòa hợp tư tưởng với các thần linh và ảnh hưởng này chỉ có thể nhận được khi lòng ta hoàn toàn vắng lặng. Tâm đã tĩnh ta mới có thể tự phân tích mình, trau dồi đạo hạnh và đón nhận những tín hiệu tư tưởng lóe lên đột ngột trong cõi giới vô hình. Chỉ trong im lặng, sắc sắc không không, con người mới ý thức được năng lực bí mật tiềm ẩn trong mình và thế giới xung quanh. Chỉ trong im lặng, mọi thứ quyền năng mới phát sinh và phát triển. Tâm có an thì việc bên ngoài mới không vọng động, dục vọng nhờ đó mới chịu ngủ yên. Con người cần khám phá hạnh phúc vĩnh cửu ở trong tâm mình, thay vì chạy theo, đeo đuổi thứ hạnh phúc nhất thời ở bên ngoài. Có giải thoát được ồn ào, náo nhiệt ngoài đời sống, con người ta mới kịp thời đón nhận các hoà âm tuyệt diệu từ cõi vô biên sâu thẳm ngay trong tâm linh, tuệ giác của chính mình...
Vị đạo sĩ già ôn tồn, trìu mến ngồi bên Devil, giảng giải mọi điều kỳ diệu mà suốt bốn mươi hai năm làm người nàng chưa hề biết đến. Giọng ngài trầm ấm, du dương như lời hát ru êm đềm của mẹ nàng thủa ấu thơ trong thung lũng Chambia. Devil từ từ ngồi xếp bằng tròn ở bậc sàn thứ nhất và khép dần đôi mắt. Nàng thấy mình đang trôi vào hư không gặp lại ông nội, cha mẹ, Jyoti, Singh và ngài nghị sĩ Manmu. Quanh nàng là một thế giới công bằng, không còn đau khổ, thù hận. Vị đạo sĩ già sửa lại tư thế ngồi cho Devil, mỉm cười an tâm. “Ôi! Đứa con bất hạnh của đời. Con hãy ngủ một giấc dài trong tư thế thiền định. Tỉnh dậy con sẽ như rắn lột xác thành một con người mới, trọn kiếp tu hành...” Đạo sĩ giơ hai tay lên trên đầu Devil làm phép, rồi sau đó ngài thong thả bước ra khỏi ngôi đền. Rừng cây Pơ mu lao xao trong gió chiều. Suối reo róc rách. Từng bầy thú và chim muông trong rừng đổ ra vây quanh đạo sĩ. Ngài ngoái đầu vào trong đền mỉm cười, vuốt nhẹ chòm râu dài, trắng như cước. Bóng ngài lồng lộng giữa Hymalaya hùng vĩ...
9- Ngài nghĩ sĩ Manmu có người em vợ là Secti làm chủ hãng tơ lụa – len dạ xứ Đông Dương thời thuộc Pháp. Ai đã sống ở Hà Nội trước năm 1954 đều biết ngôi nhà Secti số 100 phố Hàng Đào. Đó vừa là trụ sở chính của hãng, vừa là cửa hàng tơ lụa – len dạ lớn nhất Đông Dương. Mẹ tôi thời ấy là bạn hàng thân thiết của ông bà Secti. Thỉnh thoảng tôi vẫn thường theo mẹ đến ngôi nhà số 100 phố Hàng Đào và trở nên gắn bó với Satli, cậu con trai cùng tuổi Bính Tuất của ông bà Secti. Chúng tôi thường rủ nhau lên sân thượng đánh bi hoặc ra quán Long Vân – Hồng Vân mua kem rồi xem phim đèn chiếu, qua những ô cửa sổ bé tí xíu bên thành chiếc xe đẩy cũ mèm của ông lão ở phố Lò Sũ. Sau năm 1954 ông bà Secti hồi hương về nước nên tôi không còn gặp Satli. Bẵng đi mấy chục năm, tình cờ chúng tôi nhận ra nhau ở hội nghị khoa học quốc tế về giống tằm vụ hè cho vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng. Trong chuyến đi thị sát ở Xuân Thuỷ tôi và Satli rủ nhau đi dạo trên bãi dâu ven bờ sông Ninh Cơ, cùng ôn lại những kỷ niệm thời thơ ấu. Hôm ấy trong ánh hoàng hôn mờ tím của dòng sông Ninh Cơ thơ mộng, rì rào sóng vỗ và xanh mướt lá dâu non, Satli kể tôi nghe về mối tình của Singh với nữ tướng cướp Devil. Tôi không rõ tình tiết trong câu chuyện tình đâu là sự thật, đâu là huyền thoại. Nhưng nó cứ ám ảnh tâm trí tôi bao điều ngẫm suy về thiện, ác và lẽ đươc, mất ở đời. Giờ đây, chép lại câu chuyện này, tôi vẫn bồi hồi nhớ lại mái tóc hoa râm của Satli bồng bềnh trong gió chiều lợt nắng và ánh mắt đăm chiêu mơ màng như có bụi sương mù ẩn dưới hàng mi. Bên tai tôi văng vẳng nghe lời hát bằng tiếng Hindi: “Hỡi ôi! Con chim bé nhỏ chiêm chiếp kêu trong bụi xương rồng gai. Nắng làm mi sã cánh, gió làm mi rụng lông, cơn khát khô làm mi cứ ngáp hoài!...”
Trước mắt tôi lại hiện lên hình ảnh Devil xếp bằng tròn, khép mắt ngồi thiền trong ngôi đền hoang lạnh trên đỉnh Hymalaya xa xôi.
Hà Nội 1996