watch sexy videos at nza-vids!
Truyện BẢO ĐẠI, HAY LÀ NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VƯƠNG QUỐC AN NAM-Chương 31 - tác giả Daniel Grandclément Daniel Grandclément

Daniel Grandclément

Chương 31

Tác giả: Daniel Grandclément

Cựu hoàng Bảo Đại đợi cho cánh cửa rộng mở mới bước ra hè phố. Tất cả đều yên lặng. Con phố ông ở thấp hơn đại lộ Tổng thống Wilson, như biệt lập với phần còn lại của thành phố. Quả đồi Chaillot che chắn cho nó, tạo cho nó một vẻ yên tĩnh tỉnh lẻ, như một ngõ cụt trong khu nhà ở được ông ưa thích. Chỉ cần vượt qua hai chục mét là lại nghe thấy tiếng xe cộ tấp nập đi tới công viên Trocadéro.
Ông bắt đầu đặt chân lên dốc để đi tới vườn hoa. Ông đưa tay mò mẫm nắm lấy cánh tay quận chúa Monique. Rất ít khi ông ra ngoài không có bà đi bên cạnh. Ông không thích liều lĩnh ra phố một mình.
Trông bà trẻ hơn, rắn chắc hơn. Bây giờ bà đã là vợ chính thức của ông sau lễ thành hôn ngày 18 tháng giêng năm 1983 tại quận 16, thủ đô Paris, sau một cuộc bàn bạc tay đôi kéo dài. Tên bà là Monique Baudot, một cô gái xinh đẹp trạc tuổi ba mươi, quê ở vùng Lorraine. Sau khi cưới bà tự xưng là quận chúa Monica mà chẳng qua một lễ đăng quang nào bởi triều đình phong kiến Việt Nam đã sụp đổ từ năm 1945 và chính bản thân ông Bảo Đại cũng đã bị Hội đồng hoàng tộc, năm 1955 dưới sức ép của Diệm, chính thức tước bỏ mọi tước hiệu của ông. Bà là một người bạn hay đúng hơn, như lời đàm tiếu của những kẻ không ưa bà, là hầu phòng, là quản gia kiêm thư ký cho ông.
Bà Monique kể lại rằng: khi đang là lãnh sự danh dự của nước Cộng hoà Zaire miền Trung Phi thì bà nghe nói về cựu Hoàng đế An Nam, đang sống độc thân trong cảnh túng bấn, gần như bị bỏ rơi...
Mối quan hệ của hai người, thoạt đầu là một cuộc cứu sinh. Cuộc cứu sinh thành công vì nhờ Monique, Bảo Đại tìm lại được một chút uy thế đã qua một chút quý phái và thanh thản bên ngoài đã gây nhiều ấn tượng cho các quân nhân và các nhà chính trị Pháp.
Cuộc hôn nhân giữa ông Bảo Đại và bà Monique không được dư luận chú ý. Không có những hàng tít lớn trên báo chí nhưng cộng đồng người Việt ở Pháp không tha thứ một cuộc hôn nhân không cân xứng như đôi đũa lệch đó. Về phần ông thì từ nay ông càng xa cách những thần dân cũ của mình. Cả con trai, con gái cũng thưa dần những cuộc đến thăm miễn cưỡng người cha ở căn hộ nhỏ hẹp số 29 đường Fresnel, quận 16, (Paris) dưới cặp mắt ghẻ lạnh của bà Monique.
Ông cựu hoàng có tuổi khoác tay bà vợ trẻ bước vào công viên. Lần nào cũng qua một cửa. Không ai nhận ra họ. Tuy nhiên ông vẫn giữ được một chút gì là trịnh trọng, gần như dáng vẻ quân vương trong bước đi, trong cách thở hít không khí. Trịnh trọng và thận trọng. Ông chỉ ra đây vào ngày đẹp trời, tránh những hôm nóng nực hay đông giá. Ông dạo bước trên khu đất vươn cao giữa kè sông Seine và lâu đài Chaillot. Nơi đây là không gian quen thuộc của ông, rộng chừng vài trăm mét vuông có dông trẻ con đến chơi đùa, trượt pa-tanh. Dáng điệu quý phái, oai vệ, ông chậm rãi đi những bước ngắn của người già.
Hai người sánh vai lững thững bước lên một lối đi tráng xi măng, qúanh co giữa thảm cỏ, theo các mô đất của quả đồi bao quanh công viên. Bỗng nhiên ông già dừng lại, lục trong túi nylon trắng lấy ra một gói bọc giấy dầu, thận trọng mở ra.
Con người lúc trẻ đã từng sục sạo trong rừng đêm để săn hổ, nay trở về già tẩn mẩn lấy thức ăn mềm cho mèo vườn ăn... Thì cũng là thuộc giống mèo cả. Những con mèo khiến ông thích thú, say mê nữa. Cả một gia đình mèo sống ở đây, không có chủ, nhưng được một số người đi dạo cho ăn và che chở. Ông đã viết bài đăng báo để bênh vực chúng. Tờ Figaro cũng đã dành vài dòng viết về sự kiện nầy: "Hoàng đế và những con mèo "... "Bảo Đại và các bạn ông trong công viên Trocadéro ". Kể cũng vui và ngộ nghĩnh.
Ông thong thả chờ cho lũ mèo ăn uống no nê. Bao giờ cũng vậy. Ông nhẩn nha bước tới một chiếc ghế đặt trong các công viên ở Paris. Ông đợi, đăm đăm nhìn các con vật đang ăn. Còn quận chúa Monica thì sốt ruột chỉ lo ông trúng gió lạnh.


Ảnh: Bảo Đại, Paris, 1995
Lúc nầy ông đã sang tuổi tám mươi hai. Những cuộc dạo chơi quanh các con mèo là những dịp ra ngoài duy nhất của ông. Ông ít xuất hiện trước đám đông, không tham dự. các buổi họp ở Câu lạc bộ Pháp quốc hải ngoại chỉ cách nơi ông ở vài trăm mét, nhưng ông vẫn trung thành chơi bài bridge ở đó vào các ngày thứ tư trong tuần. Sau cuốn hồi ký Con rồng An Nam mang tên ông là tác giả, ông bị nhiều tai tiếng vì nội dung chứa đựng nhiều bịa đặt, văn phong lủng củng và cấu trúc chắp vá, manh mún do có nhiều người viết - cả Tây lẫn ta - trong số đó có tướng Jean Julien Fonde, nguyên là thiếu tá trưởng đoàn Pháp trong Ban Liên Kiểm năm 1946 tại Hà Nội(1), nhất là sau đó ông lại thua kiện với ông nầy về quyền tác giả. Sau nầy, ông cùng ký tên Hoàng đế Bảo Đại đồng tác giả với phóng viên nhiếp ảnh Philippe Lafond trong cuốn "Huế, la cité interdite" (Tử Cấm thành Huế) do Mengès xuất bản năm 1995.
Thực ra ông chỉ viết phần giới thiệu ngắn về Huế và chú thích các ảnh chụp rất đạt về các công trình kiến trúc trong Đại nội. Ít lâu sau đó, ông còn trả lời phỏng vấn cho nhà báo kiêm điện ảnh Fédéric Mitterand trong một cuốn phim tài liệu ngắn về Việt Nam, được đánh giá là chân thực. Có lẽ sự nghiệp "trước tác" của ông chỉ có thế. Có người kể ông đã nhận lời nói chuyện về Việt Nam dưới thời quân chủ và công cuộc Pháp ngữ (Francophnie) ở Việt Nam trước một hội nghị về Pháp ngữ ở thị trấn Payrac hạt Lot vào ngày 31 tháng 8 năm 1997, nhằm hưởng ứng Hội nghị thượng đỉnh về Pháp ngữ họp năm ấy ở Hà Nội, nhưng ông đã ngã bệnh và mất trước đó một tháng (31 tháng 7 năm 1997)(2).
Ông không giàu, đúng hơn là không còn giàu. May thay chính phủ Pháp trở lại trợ cấp cho ông chắc là có sự can thiệp của bè bạn. Thời Giscard d'Estaing làm Tổng thống, ông chẳng được gì cả, nhưng khi cánh tả lên nắm chính quyền thì hàng tháng ông được trợ cấp tám nghìn franc. Đến thời Jacques Chirac thì được nâng lên hai mươi nghìn franc. Ngoài ra ông chẳng có gì cả. Vĩnh biệt chuyện săn bắn ở Alsace, vĩnh biệt lâu đài Thorenc, hai con thuyền y-at, những chiếc xe Ferrari và Bentley sang trọng, vĩnh biệt những ngôi nhà ở Florence và những nơi khác. Đến mức trong những năm 70, ông phải ăn trưa bằng xúc xích giá mười franc một suất trong những quán ăn nhỏ trong khu phố Huclette vì ông thấy ở đó rẻ hơn. Suýt nữa thì người chủ nhà đuổi ông ra khỏi nhà vì không trả được tiền thuê nhà. Nhờ tuổi tác mà ông thoát khỏi cảnh ấy.
Có một lần ông bị cảnh sát tạm giữ vì thấy ông đang ở nhà một gái điếm tên là Clément làm ở nhà hàng Le Moulin Rouge (Cối xay đỏ) trong khu ăn chơi ở Paris dính dáng đến buôn lậu. Nhờ Mộng Điệp, người tình cũ của ông, can thiệp, ông được thả trong tình trạng ốm yếu, mệt mỏi vì uống nhiều thuốc ngủ. Ông lưu lại nhà bà "thứ phi" vài ngày rồi lại đi. Người ta kể lại đó là thời kỳ tinh thần ông suy sụp nhất sau khi rời khỏi Alsace bỏ lại nhà cửa đồ đạc cho cô vợ "hờ" người Pháp tên là Vicky sau mấy năm chung sống và sinh hạ được một con gái đặt tên là Phương Từ.
Tài sản của ông, các tài sản đồ sộ, đã nằm lại trên các bàn đỏ đen, trong các câu lạc bộ, các sòng bạc. Trong nhiều năm ông cựu hoàng đã là ngôi sao của Palm Beach hay của câu lạc bộ Riviera sang trọng. Một phần tài sản nằm trong tay những người đàn bà đã đẩy ông vào cảnh nghèo khổ. Một phần quan trọng nữa nằm trong các công ty hàng không làm ăn thất bát. Đây là một đam mê của ông. Ông đã dễ dàng tin vào những dự án của các bạn phi công. Rất nhiều lần, mồi lần ít một, cộng lại thành nhiều tiền đã ra đi.
Nay ông hoàn toàn lui về cuộc sống ẩn dật. Trong những năm 70 ông đã có ý định xin về nước nhưng chính quyền Nam Việt Nam thời đó khước từ nên phải bỏ ý định ấy. Sau nầy vào lúc quân đội của tướng Giáp mở tung các cánh cửa vào Sài Gòn, ông đã xin đứng ra làm trung gian hoà giải cuối cùng. Từ sau chiến thắng Xuân 1975 hai miền thống nhất thì tinh thần quân chủ cũng cáo chung. Tuy nhiên một sự kiện là tro xương của Duy Tân, ông vua trẻ năm 1916 đã dám nổi dậy chống nền bảo hộ của nước Pháp thì lại được chính phủ Việt Nam xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện đưa về chôn cất trong nước.
Ông Bảo Đại không từ bỏ những chuyến đi xa. Cách đây mấy năm, ông đã sang Mỹ thăm con gái là Phương Minh, kết quả của mối tình với bà Phi Ánh khi còn ở Hà Nội năm 1946, sau nầy đã theo ông lên Đà Lạt khi ông đã có bà "thứ phi" Mộng Điệp ở bên cạnh. Chuyến viếng thăm gây được ít nhiều tiếng vang trong cộng đồng người Việt ở đây. Ông còn dự định phải phát biểu tại Quốc hội Mỹ ở Washington. Nhưng một cử chỉ vụng về, thiếu tôn trọng đối với quận chúa Monique, vừa mới kết hôn với ông, khiến ông phải rút ngắn chuyến viếng thăm và huỷ bỏ chương trình phát biểu tại Quốc hội Mỹ.
Cho mèo ăn xong, Bảo Đại tiếp tục đi dạo. Ông trở lại con đường cũ dẫn đến khu nhà của thuỷ cung Trocadéro, được cải dạng để dùng vào việc khác từ chục năm nay. Những bức tường nứt nẻ, những đống đá, nơi đó người ta cấm trẻ con không được chơi trò đi trốn sợ xảy ra tai nạn. Một bọn trẻ xuất hiện đột ngột, từ bãi trước chạy đến, một đứa đâm sầm vào ông già vừa bỏ chạy vừa nói iời xin lỗi. Nó không bao giờ biết nó vừa xô đẩy ông Hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn, một người mà hàng triệu người dân Việt trước đây không lâu coi như một thánh nhân.
Bước vào tuổi già người ta hay nghĩ về quá khứ. Chắc ông không thoát khỏi quy luật ấy. Cuộc sống đầy thăng trầm trong một thế giới nhiều biến động của thế kỷ XX, ba lần thay thầy đổi chủ, bấy nhiêu lần phản thầy và bị công kích và lên án nơi chính giới và công luận ở Pháp, nơi đã nuôi dưỡng ông để trở về chấp chính cũng lạnh nhạt và bỏ rơi ông, đến vợ, con, và cả người tình và biết bao người chịu ân sủng của ông nay cũng xa lánh, đã làm ông day dứt không yên.
Khi còn trẻ lúc trị vì ở Huế, ông đã nghe lời mẹ là bà thái hậu Từ Cung, quy y Phật giáo, nay về già, lưu lạc xứ người, ông lại nghe bà vợ trẻ đến nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot, quận 16, Paris, làm lễ rửa tội và quy y Công giáo năm 1988. Một buổi chiều cuối tháng 8 năm 1996, trong lúc ông tha thẩn ngồi một mình trên ghế đá công viên Trocadéro, một người Việt Nam dạo chơi qua đấy tình cờ nhận ra ông, đừng lại hỏi chuyện. Trước khi chia tay, ông than thở: Hiện nay tôi chẳng còn gì ông ạ. Tôi sống cô đơn mặc dù có bà Monica chăm sóc chu đáo. Bạn bè, con cái xa lánh . Trả lời câu hỏi: ông có ý định muốn về Việt Nam thăm lại mồ mả tổ tiên không? Ông bùi ngùi đáp chậm rãi: "Tôi không bao giờ quên Huế và công lao của cha ông nhưng tôi vẫn còn mối hận trong lòng (ông dùng tiếng Pháp rancune) ". Ông không nói gì thêm nữa. Không hiểu ông định ám chỉ ai khi nói lên chữ rancune? Mối hận đối với chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh và báo chí ở chiến khu đã nghiêm khắc lên án ông là phản quốc và toà án quân sự Liên khu III đã tuyên án tử hình vắng mặt đối với ông năm 1949, hay đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, người được ông che chở, đã lật lọng một cách hèn hạ, trâng tráo phản bội lời thề trung thành với ông, phế bỏ ông, thông qua một cuộc trưng cầu dân ý giả hiệu và gian lận tịch biên tài sản, nhục mạ chửi rủa ông cay độc hơn báo chí kháng chiến năm 1949, lại còn giật dây hội đồng hoàng tộc truất bỏ cương vị Quốc trựởng và mọi tước hiệu của ông?
Người đời nói ông cũng là con người thông minh, suốt đời sống xa dân nhưng ít nhiều cũng hiểu được chuyện đời. Sang Pháp du học từ lúc 7 tuổi, được ông bà Charles, nguyên khâm sứ Trung Kỳ trông nom rèn cặp được học các thầy giỏi của các trường nổi tiếng ở Paris như trường Henri IV, Condorcet, đỗ tú tài loại ưu, được vào học trường Sciences PO (Đại học Khoa học chính trị) danh tiếng, lại được cử nhân Hán học Lê Nhữ Lâm do Triều đình Huế cử sang dạy thêm chữ Hán. Phải cái ham chơi, mê gái và được nhiều gái mê, ham thích nhảy đầm, chuộng thể thao: quần vợt, đánh "gôn", cưỡi ngựa, câu cá, săn bắn, thích phóng xe ôtô và cả lái máy bay nhào lộn, và cuối cùng là giỏi bài bạc. Những tật xấu nầy đâu phải chỉ riêng ông mới có. Các vị đế vương trên thế giới nầy, Âu cũng như Á, thời nay cũng như thời xưa không hiếm người như ông.
Ông không tham quyền cố vị, vì biết mình chẳng có quyền lực gì mà chỉ muốn làm vua để được sống như vua ăn tiêu hào phóng, không phải chịu trách nhiệm gì với quốc dân, như vua ở các nước quân chủ lập hiến như Anh, Thuỵ Điển, Nhật Bản, Thái Lan... Đó là chính thể ông hằng mơ ước nhưng suốt đời ông không thực hiện được. Khi mới về nước cầm quyền bính ở tuổi 19, ông đã biết "ngẫu hứng" trả lời khi có người hỏi:
- Ngài dự định làm gì khi trở về chấp chính?
- Tôi chẳng làm gì cả!
- ??
- Vì có việc đâu mà làm. Mọi việc "người ta" làm hết!
Ông cũng biết kết thúc một cách khôn ngoan và êm đẹp chế độ vua quan phong kiến đã tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử Việt Nam và bị nhân dân căm ghét.
Câu nói để đời, được dư luận trong và ngoài nước hoan nghênh - cho dù được người khác viết sẵn - Thà làm dân một nuớc tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ - và việc chấp nhận thoái vị đã giúp ông bảo toàn mạng sống, mà không cần phải dựa vào sự can thiệp của quân Nhật ở Huế theo chúng đề nghị, để tránh một cuộc đổ máu vô ích. Vai trò cố vấn chính phủ cách mạng, dù chỉ là tượng trưng, đã tô đậm thêm hình ảnh đại đoàn kết dân tộc. Không đủ bản lĩnh tiếp bước con đường nhân dân và cách mạng đã mở ra, ông cam tâm bán mình cho quỷ dữ, nhận làm con bài trong giải pháp Bảo Đại để che lấp tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa. Ông để phần lớn thời gian làm Quốc trưởng vào cuộc sống ẩn mình trong thú vui săn bắn ở Buôn Ma Thuột và mê mải trong các sòng bạc ở Cannes. Nghị lực làm việc của ông thời gian nầy dành vào việc ăn chia lợi nhuận với Bảy Viễn kinh doanh Đại Thế giới ở Chợ Lớn, mua sắm ôtô đời mới, tậu biệt thự sang trọng, còn mọi việc "quốc gia" chỉ là ký các đạo dụ, các sắc lệnh, các thông điệp, đọc các bài diễn văn có người khác làm sẵn. Ông bỏ mặc lũ cận thần tha hồ đục nước béo cò, mua quan bán tước thanh toán lẫn nhau. Quan thầy chán ngán không mấy tin ông. Tên tuổi ông gắn với thất bại của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954). Lịch sử đã chuyển giai đoạn, Việt Nam trở thành tiêu điểm của cuộc chiến quyết liệt chống cộng ở Đông Nam châu Á.
Thấy ông không đủ sức đảm đương nhiệm vụ mới, cố nhiên chủ mới phải tìm tay sai mới. Chính ý định thay ngựa giữa dòng của các thế lực phản động nước ngoài đứng đằng sau hành động phản trắc của Ngô Đình Diệm, đối thủ chính trị của ông chứ chưa phải là sự trừng phạt nghiêm khắc của nhân dân đã đánh đòn chí mạng chôn vùi toàn bộ sự nghiệp chính trị của ông suốt đời làm công cụ cho các thế lực ngoại xâm.
***
Cũng vào giờ nầy, ở bên kia của thành phố Paris, Bảo Long đi ăn trưa. Dáng người thấp bé hơn bố, cử chỉ thanh lịch, ăn mặc chải chuốt pha chút phóng túng đáng ngạc nhiên của một nhân viên ngân hàng. Ông làm việc trong một chi nhánh ngân hàng có hội sở giao dịch khá to và đẹp trên đại lộ Opéra.
Ông là người có tài dù sao thì cũng là con người dày dạn biết làm cho tiền của mẹ ông sinh sôi. Ông phụ trách công việc đầu tư tiền của khách hàng ra nước ngoài, đem lại lợi ích cho họ.
Bước qua ngưỡng cửa, như mọi ngày, ông ngập ngừng giây lát như bị choáng ngợp trước ánh mặt trời, ông đi ngược đại lộ, dừng lại trước các tủ kính cửa hàng, rồi lại tiếp tục những bước chân nhẹ nhàng, đều đặn và uyển chuyển.
Đến giờ ăn trưa, phố xá đầy những nhân viên công sở muốn thưởng thức cảnh đẹp ngoài trời, ngồi lỳ ở ngoài thềm tiệm cà phê. Bảo Long dừng chân thận trọng sang đường đi trở lại vài bước. Cuối cùng ông cũng dừng lại trước một quầy hàng có mái che do dự rồi bước vào mua một bánh mì kẹp thịt để ăn trưa như tất cả mọi người.
Hoàn toàn đúng như vậy, nếu không có ánh nhìn đăm đăm, nửa thân trên thẳng cứng một cách gần như quý tộc biểu lộ một quá khứ khác thường, độc đáo. Trái với cha ông, ông giàu có. Từ văn phòng ngân hàng, ông quản lý tài sản thừa kế của mẹ, quan tâm đến việc sinh lợi, giữ được đôi chút ổn định sau bao nhiêu bão tố.
Ông sống trong một căn hộ đẹp ở đường Marais. Chưa bao giờ lập gia đình, không con cái. Luôn luôn day dứt vì cuộc sống lưu vong. Cuộc sống nhiều tai tiếng của bố, suốt từ thời trị vì đến lúc sau nầy thân bại danh liệt lúc về già ở nước ngoài, lại còn tranh chấp kiện tụng giữa hai cha con chia nhau báu vật trong đó có hai quốc bảo là ấn và kiếm nhà Nguyễn xưa(1) khiến tâm trạng ông lúc nào cũng u uất, buồn phiền.
Quá khứ hiện về qua những dự định mờ nhạt tìm cách trở về nước. Trong những tháng đầu năm 1975, khi Nam Việt Nam chờ đợi cuộc tổng công kích cuối cùng thì một sĩ quan nổi tiếng trong trận Alger trong cuộc chiến tranh Algérie là đại tá Trinquer cũng đã định mở cuộc vận động ủng hộ ông trở về nước, nhưng không thành.
***
Lý Lệ Hà, ngườỉ tình nổi tiếng một thời của Bảo Đại, người đã dốc hết tiền tiết kiệm để ông chi tiêu ở Hongkong, hiện sống ở xa, tại một làng ngoại thành của thủ đô. Nàng sống trong một khu quân nhân và ở tuổi tám mươi mốt vẫn đam mê chuyện tranh cử.
Người chồng Pháp của bà làm chính trị, đang nhăm nhe một chân trong ê-kíp lãnh đạo thành phố. Bà chưa gặp lại Cựu hoàng từ khi bà đến Paris cách đây ba mươi năm. Nhưng khi nói đến ông, bà vẫn tỏ lòng tôn kính, một điều "Ngài Ngự" hai điều "Ngài Ngự". Lối nói ấy gợi lên một kỷ niệm. Còn "thứ phi" Mộng Điệp mà vai trò gần như Hoàng hậu ở Buôn Ma Thuột , bà sống trong một căn hộ hai buồng gần quảng trường Nation, quận 12 ở Paris, và bà Nguyễn Tiến Lãng, cũng như chồng, đã đi theo bà Nam Phương đến cùng. Và còn nhiều người khác, bà con thân thuộc đến hàng ngàn người, trong hoàng tộc đã trải qua những bi kịch như nhau...
Khi các thế lực phương Tây bị quét sạch vĩnh viễn khỏi Việt Nam thì hầu hết những họ hàng xa gần với hoàng tộc, những diễn viên cuối cùng trong kịch bản về đế chế An Nam còn sống đều di tản ra nước ngoài trong những năm năm mươi hay sau đó. Chỉ một số ít đã ở lại với chế độ mới. Có một số ngoại lệ, trong đó có bà Hoàng Thái hậu Từ Cung mất năm 1980, đám tang được chính quyền thành phố Huế giúp đỡ tổ chức với đầy đủ lễ nghi theo tục lệ Phật giáo. Phần dông họ đều đã gần đất xa trời. Họ sống lặng lẽ, bị bỏ quên, chờ đợi sự may rủi của lịch sử, nhưng không hy vọng. Từ vài năm nay trước công cuộc đổi mới đang mở cửa cho đất nước lâu đời của họ, tất cả đều chăm chú theo dõi sức khỏe ngày một tàn tạ của cựu hoàng.

Chú thích:
(1) Tướng hồi hưu Jean Julien Fonde, năm 1946 là thiếu tá trưởng phái đoàn Pháp trong Ban Liên Kiểm (Commission de Contrôle et de Liaison). Ban nầy có nhiệm vụ liên lạc giữa hai quân đội Việt - Pháp và kiểm soát việc thi hành hiệp định 6 tháng 3 năm 1946 về mặt quân sự.
(2) Nguyễn Đắc Xuân, Hỏi chuyện tình bà "thứ phi" Bùi Mộng Điệp với cựu hoàng Bảo Đại, đăng trên báo Kiến thức ngày nay số 527, ngày 1 tháng 4 năm 2005 (B.T.)
(3) Đó là chiếc ấn bằng vàng và kiếm có chuỗi nạm ngọc được Hoàng đế Bảo Đại trao cho Trưởng phái đoàn Chính phủ lâm thời Trần Huy Liệu trong lễ thoái vị ngày 30 tháng 8 năm 1945 ở Huế. Khi chiếm lại Hà Nội, Pháp tìm lại được hai báu vật nầy không dám giữ đã làm lễ trao lại cho hoàng gia tại Buôn Ma Thuột. Lúc nầy Bảo Đại vẫn ở Pháp cũng chẳng mấy quan tâm đến việc nầy. Năm 1953, bà Bùi Mộng Điệp được Bảo Đại giao nhiệm vụ mang hai báu vật đó sang Pháp trao lại cho bà Nam Phương. Khi về Corrèze ở, bà Nam Phương đã đưa cho Bảo Long giữ. Sau nầy Bảo Đại kiện đòi lại được ấn còn kiếm do Bảo Long giữ. (Theo lời kể của bà Bùi Mộng Điệp cho nhà báo Nguyễn Đắc Xuân (xem bài Hỏi chuyện tình bà "thứ phi" Bùi Mộng Điệp với cựu hoàng Bảo Đại đăng trên báo Kiến thức ngày nay số 530 ngày 10 tháng 6 năm 2005 - B.T.).
BẢO ĐẠI, HAY LÀ NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VƯƠNG QUỐC AN NAM
LỜI ĐỀ TỰA
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22
Chương 23
Chương 24
Chương 25
Chương 26
Chương 27
Chương 28
Chương 29
Chương 30
Chương 31
Chương 32
Chương 33
Chương 34 (Chương kết)