Chương 1
Tác giả: Hà Mã
g iáo sư Phương Tân hét lên mấy tiếng vào miệng hố, không nghe thấy hồi âm, liền lo lắng nói: “Cường Ba cũng lỗ mãng quá, vẫn cứ nóng nảy như vậy, chẳng có chút tố chất của người làm khảo sát khoa học gì cả.”
Lạt ma Á La thò đầu sâu vào miệng hố, nói: “Cậu ấy không chỉ biết có mạo hiểm thôi đâu, bên trong có gió.”
Có gió, đồng nghĩa với cái hố này còn có lối thông ra nơi khác nữa, thông gió có thể thổi tan khí độc, giữ cho không khí bên dưới lưu thông. Điểm này Trác Mộc Cường Ba đã học được ở chỗ đội khảo sát hoa học Khả Khả Tây Lý, hơn nữa xét theo tốc độ trượt xuống của ba lô, vì vậy, gã mới không hề do dự nhảy luôn xuống theo. Nhưng gã không thể ngờ, tốc độ trượt xuống của mình cao hơn tốc độ của cái ba lô rất nhiều. Đường hầm hình vuông đều tăm tắp phủ dày cát, làm tăng tốc độ trượt xuống của gã giống như dầu bôi trơn vậy. Chưa đến mười giây, đã nghe “vù” một tiếng, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy thân thể mình lơ lửng trên không, đầu va mạnh vào tường đá, kế đó cả người lại tiếp tục trượt xuống theo hướng ngược lại; chưa đầy mười giây sau, phần lưng gã đã áp tới bờ tường, va chạm một cú rõ mạnh, rồi lại đổi phương hướng. Cứ như vậy đập đi đập lại, không biết đã va đập bao nhiêu lần, rồi gã cũng đuổi kịp cái ba lô đã dùng chân đẩy xuống lúc đầu.
Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy các tiếng động khác đi, rồi cả người gã văng ra khoảng không, trước tiên nghe tiếng ba lô rơi xuống nước, kế đó là tiếng thân thể gã “hạ thủy”. Trong lúc hoảng loạn, chân tay cứ vung bừa tứ phía, kết quả vừa đạp 1 cái, đã thấy thân mình đứng vọt lên mặt nước. Hồ nước không sâu lắm, Trác Mộc Cường Ba đứng lên vừa hay để lộ ra cái đầu. Gã dợm bước vài bước, chỗ sâu nhất thì phải bơi qua mới được. Trác Mộc Cường Ba vừa bơi vừa tóm lấy ba lô, chẳng mấy chốc chân đã chạn đất. Trong bóng tối vang lên tiếng “soạt soạt soạt”, nghe như có cái gì đang lùi về sau. Trác Mộc Cường Ba cả mừng kêu lên: “Mẫn Mẫn! Em phải không? Trả lời anh đi?”
Không thấy trả lời, chỉ nghe “oa” một tiếng, rồi có người rống lên. Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Đừng sợ, đừng sợ, anh đến đây, em ở đâu?” Vừa nói gã vừa lần bước về phía tiếng khóc. Trong bóng tối vang lên giọng thổn thức: “Hức…hức, hức, em sợ quá…em sợ quá…em cứ tưởng không bao giờ gặp lại anh nữa, ức…” Trác Mộc Cường Ba đeo ba lô trên lưng, rời khỏi hồ nước, giơ hai tay lần mò về phía phát ra âm thanh, cuối cùng cũng bắt được một bàn tay mềm mại lạnh buốt. Hai người ôm chầm lấy nhau trong bóng tối.
Trác Mộc Cường Ba nhỏ nhẹ an ủi: “Đừng khóc nữa, đừng khóc, anh ở đây. Không sao rồi, anh ở đây rồi này.” Đường Mẫn rúc đầu sâu vào ngực Trác Mộc Cường Ba, hai vai run rẩy, khóc thút thít đến đau lòng, nói câu được câu mất: “Trong thành… hức… em nghe thấy tiếng anh… em gọi tên anh…hức hức… anh không nghe thấy em gọi anh à? Em… hức…chạy về phía anh… hức… kết quả… kết quả…rơi xuống chỗ này, hức… chỗ này không có đường, lại không nhìn thấy gì, hức…”
Trác Mộc Cường Ba chỉ biết tiếp tục an ủi cô: “Được rồi, khóc nhiều quá thì không xinh nữa đâu. Anh mang theo ba lô của em xuống đây này, bên trong có thứ gì chiếu sáng được không? Ở đây tối om om chẳng nhìn thấy gì cả.”
“Có”. Đường Mẫn đã thôi không khóc to, nhưng vẫn cứ nức nở thổn thức, đón lấy ba lô lục lọi. Chỉ thoáng sau, đèn đã sáng lên, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy gương mặt xinh xắn của Đường Mẫn đã bị đôi tay lấm lem bùn đất xoa lên trong như tranh sơn dầu treo tường phái ấn tượng, mắt đỏ mọng vì khóc, nước mắt vẫn không ngừng trào ra, lại làm nhòa đi những vết bùn trên đôi má phấn, trông như hoa lê đẫm mưa, hoa hồng đẫm sương vậy. Gã vừa tức vừa buồn cười, miệng hơi nhếch lên tủm tỉm. Đường Mẫn nín khóc, ngây ngây nhìn Trác Mộc Cường Ba, rồi hỏi: “Có phải xấu xí lắm không?” Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, cô lại “oa” một tiếng rồi tiếp tục khóc lóc. Trác Mộc Cường Ba yêu chiều nâng gương mặt nhỏ nhắn ấy lên, cười cười bảo: “Được rồi, rửa một chút là sạch sẽ ngay thôi. Em có bị thương không?” Bản thân gã cũng bị đập vào người vào tường không biết bao nhiêu lần, giờ từ đầu đến chân đều ê ẩm cả.
Bên ngoài giếng Thánh, lạt ma Á La nói: “Quân du kích lại lui xuống rồi, xem ra đám ăn thịt người đã chiếm phần lợi thế. Chúng ta ở đây cũng không thoát nổi đâu, may ra bên trong này còn tìm được đường thoát nào khác.”
Giáo sư Phương Tân trợn trừng mắt nhìn lạt ma Á La, hoảng hốt kêu lên: “không phải ngài cũng muốn… ngài đã nghĩ kỹ chưa đại sư.”
Lạt ma Á La chắp tay trước ngực nói: “Hoạt Phật sẽ chỉ đường dẫn hướng cho chúng ta.” Dứt lời, ông liền chui vào trong giếng theo tư thế ngồi kiết già. Giáo sư Phương Tân há hốc mồm nhìn con người cuồng tín trước mặt, rồi lại nhìn đám phần tử vũ trang đang hò hét xông tới, cuối cùng thở dài một tiếng, ném ba lô xuống miệng giếng, rồi nhảy vào theo.
Đường Mẫn bảo nước trong giếng Thánh này toàn ngâm xác người chết, nói thế nào cũng không chịu đi rửa mặt. Trác Mộc Cường Ba phải khuyên giải mãi, bảo nước hồ này là nước nguồn, thông với mạch nước ngầm dưới lòng đất, rồi lại chiếu sáng cho cô nhìn rõ hồ nước trong thấy cả đáy. Bấy giờ Đường Mẫn mới miễn cưỡng đi rửa mặt. Trác Mộc Cường Ba cầm nguồn sáng đó lên ngắm nghía. Trước đây gã chưa từng thấy thứ này bao giờ, nguồn sáng chính là một cái mũ, nhưng lại không giống mũ có đèn pha của công nhân khai khoáng hay đội, mà chỏm mũ có một cái trụ thẳng, giống như gắn cây nến trên đỉnh đầu vậy. Đường Mẫn nói: “Đây là mũ chiếu sáng, dành riêng cho các chuyên gia thám hiểm khảo cổ sử dụng. Tại vì trong môi trường hoàn toàn xa lạ, đèn pha chỉ chiếu sáng được một hướng, sẽ làm xuất hiện rất nhiều khu vực mù trong thị giác. Để loại trừ những chỗ tia sáng không chiếu tới được, người ta mới sử dụng loại mũ gắn bóng đèn bên trên thế này, như vậy thì có thể chiếu sáng được cả ba trăm sáu mươi độ rồi. Nhưng ánh sáng kiểu này phân tán, không thể chiếu xa, nên phải sử dụng kết hợp cả đèn pha lẫn mũ chiếu sáng mới đủ.”
Trác Mộc Cường Ba giơ cao chiếc mũ chiếu sáng lên: “Xem xem ở đây có lối thông nào khác trước đã.”
Đột nhiên có tiếng “bịch bịch” vang lên, làm Đường Mẫn sợ giật bắn mình, vội ôm chặt Trác Mộc Cường Ba. Gã mỉm cười nói: “Đừng sợ, là giáo sư Phương Tân hay lạt ma Á La xuống đấy thôi.”
Vì đã có ánh sáng, giáo sư Phương Tây và lạt ma Á La không bị một phen hốt hoảng như Trác Mộc Cường Ba lúc nãy. Hai người bơi lên bờ, lạt ma Á La nhìn ngó quanh cái hang ngầm, rồi nói: “Giếng Thánh này khác hẳn với bình thường thì phải.”
Giáo sư Phương Tân vẫn hơi bực bội nói: “Giờ chúng ta ở chung một chỗ rồi. Vậy có ai bảo cho tôi biết làm sao ra khỏi đây được không?” Không gian này rất nhỏ, chỉ khoảng bằng một cái sân bóng rổ, hai phần ba phía bên trái là nước, bên phải hơi nhô cao, để lộ ra một phần ba còn lại. Bốn phía đều là tường đất, miệng hố nơi họ rơi xuống ở ngay giữa bức tường, bên bức tường đối diện cũng có một miệng hố y như vậy, trên đỉnh đầu dường như là đá thiên nhiên, cách mặt đất tới ba bốn mét, ngoài ra thì không còn gì khác nữa. Trước tình cảnh này, Trác Mộc Cường Ba cũng không biết làm gì hơn, chỉ đành nở một nụ cười ngượng nghịu, cố gắng không chọc giận thầy giáo mình thêm nữa.
Lạt ma Á La bỗng hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Lúc rơi xuống cậu đã chuyển hướng mấy lần?”
Trác Mộc Cường Ba ngẩn người. Lúc nãy va đi va lại đảo điên một trận, đầu óc lung bung ai mà nhớ được đã qua bao nhiêu khúc ngoặt cơ chứ. Chỉ nghe giáo sư Phương Tân cất tiếng đáp: “Mười tám khúc ngoặt, đúng như chúng ta đã nghĩ.” Lạt ma Á La khẽ gật gật đầu: “Xem ra, chúng ta đang ở phần đáy của kim tự tháp Maya rồi.” Đường Mẫn lẩm bẩm nói: “Mười tám khúc ngoặt.” Dường như cô cũng nhận ra điều gì đó.
Trác Mộc Cường Ba vẫn hoàn toàn không hiểu gì cả, lại hỏi: “Cái gì mà mười tám lần chuyển hướng? Sao lại đúng như hai người đã nghĩ? Thầy giáo?”
Giáo sư Phương Tân “phì” một tiếng, đoạn nói: “Đừng gọi thân thiết thế chứ, cậu đã phạm phải đại kỵ trong công tác khảo sát khảo cổ rồi đó.”
Lạt ma Á La giải thích: “Toà kim tự tháp khổng lồ này, riêng phần trên mặt đất đã cao tới mấy trăm mét, chính là kiến trúc lớn nhất mà chúng ta trông thấy, còn bên dưới móng, chỉ sợ cũng sâu mấy chục mét. Người Maya rất có thể dựa theo lý giải của họ về địa ngục để xây dựng nên cung điện ngầm dưới lồng đất này.”
“Mười tám tầng địa ngục!” Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt lên. Đường Mẫn nói: “Không, địa ngục của người Maya có chín tầng. Mười tám là bội số của chín, ở giữa hai lần chuyển hướng chính là một tầng địa ngục, vậy thì, giờ chúng ta đang ở dưới địa ngục đó.”
Lạt ma Á La gật đầu nói: “Ừm, ở đoạn cuối cùng, đoạn dốc vừa dốc vừa dài, có lẽ bây giờ chúng ta đang ở tầng dưới cùng của kim tự tháp. Nếu đúng là như vậy, chỉ sợ không còn đường ra nữa rồi.” Giáo sư Phương Tân “hừ” mạnh một tiếng.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tìm thử đi, có lẽ còn có đường ra khác cũng không chừng.” Nói xong, liền cùng Đường Mẫn chầm chậm lần tìm kiếm dọc theo các vách tường.
Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân vẫn chưa có hành động gì, chỉ ngồi bên mép nước trầm tư, lạt ma Á La nói: “ở đây có một điểm rất kỳ lạ. Nếu là giếng thánh, bên dưới cho dù không có xương người thì cũng phải có tế phẩm, nhưng vừa nãy ở dưới nước, ngoài một ít xương khô của dã thú thì tôi không còn thấy gì khác nữa.”
Giáo sư Phương Tân cũng tán đồng: “Phải, đúng vậy, tình huống này dường như chỉ có một khả năng để giải thích.” Ông và lạt ma Á La đưa mắt nhìn nhau, trừ phi sau khi giếng Thánh này xây xong, chưa từng được sử dụng một lần nào, người trong thành vì một nguyên nhân nào đó đã bỏ rơi cả thành trì này đi nơi khác.
“A!” Đúng lúc đấy, tiếng kêu kinh hốt của Đường Mẫn vang lên, trong không gian kín mít này tiếng kêu trở nên lảnh lót vang động lạ thường.
Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La vội vàng chạy tới, họ và Trác Mộc Cường Ba vừa đến, liền phát hiện ra bên mép tường có một hốc khoét rỗng, bên trong có một bộ hài cốt dựng nghiêng nghiêng. Không hiểu Đường Mẫn đã chạm phải chỗ nào, làm phiến đá bịt kín cái hốc này tự dưng rời ra.
Trác Mộc Cường Ba bước tới quan sát, nhưng bị giáo sư Phương Tân kéo lại. Ông nói: “Đừng lại gần, trên phiến đá kia hình như có thứ gì đó.”
Lạt ma Á La đã bắt đầu nghiên cứu phiến đá ấy rồi, ông ngồi xổm phía trước, nói: “Không phải bằng đá, mà bằng đất, hình vẽ bên trên là… là bản đồ đơn giản của hang động này!”
Giáo sư Phương Tân cũng bắt đầu quan sát, rồi đưa ra phán đoán: “Nhìn trang phục của người này, chắc là một nhà thám hiểm từ thế kỷ mười tám hoặc mười chín. Cái hốc do con người đào ra này e là cũng do ông ta tự đào ra, nhưng tại sao bên cạnh ông ta lại không có thứ gì vậy nhỉ?”
Lạt ma Á La nói: “Chiếu đèn lại gần một chút, người này đã để lại cho chúng ta một số thông tin, nhìn bức tranh này xem.”
Giáo sư Phương Tân liếc mắt nhìn qua, nói: “Tấm vách đất này bị vỡ rồi, hình vẽ có hơi lệch lạc. Mẫn Mẫn, dùng công cụ ráp lại đi.” Mẫn Mẫn “vâng” một tiếng, bắt đầu lục tìm các thứ trong ba lô của giáo sư Phương Tân.
Trác Mộc Cường Ba đứng bên cạnh quan sát, đột nhiên nhận ra nhóm của gã chưa từng phối hợp nhịp nhàng như vậy bao giờ, mỗi người đều làm việc của mình, quả thực là khoảng cách chênh lệch so với nhóm của giáo sư Phương Tân vẫn còn rất xa.
Đường Mẫn lấy trong ba lô ra một chiếc hộp da màu đen, phải ba bốn lượt khóa mới mở được ra, bên trong lại là một tầng hộp sắt, thì ra là chiếc máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân. Trác Mộc Cường Ba thốt lên: “Một chiếc máy tính mà phải giữ gìn phức tạp như vậy à!”
Giáo sư Phương Tân nói: “Máy tính chính là nòng cốt của nhóm chúng tôi, so với người, vị ‘đội trưởng’ này còn quan trọng hơn nhiều.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy cũng không cần phải bọc thêm một tầng hộp sắt nữa chứ.”
Giáo sư Phương Tân cười cười: “Đừng coi thường chiếc hộp ấy, không có nó, chiếc máy tính này của tôi không qua nổi khu vực bão tố đâu. Nó có một tầng chống điện ly, cho dù bị luồng điện năm trăm nghìn vôn đánh thẳng vào, cũng vẫn giữ được hoàn hảo món đồ để bên trong.”
Lạt ma Á La cầm 1 thiết bị điện tử khác, nói: “Độ bão hòa oxy trong không khí là hai mươi bảy phần trăm, các chất khí có hại cho cơ thể chưa tới hai phần nghìn, hàm lượng bụi thấp hơn năm phần trăm; chỉ số hóa sinh của nước đạt tiêu chuẩn, có một tầng oxit cacbon hỗn hợp với hydro cacbon; chỉ số sinh hóa của bùn đất đạt tiêu chuẩn, nhưng cacbon, ni tơ và muối vô cơ thì vượt quá tiêu chuẩn.” Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: “Hy vọng không phải là vậy.” Lạt ma Á La cũng gật gật đầu. Trác Mộc Cường Ba đần mặt ra, rõ ràng là học cùng một nơi, tại sao người ta nói chuyện với nhau mà gã chẳng hiểu gì hết cả vậy?
Đường Mẫn đã lắp pin vào chiếc máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân, nối với webcam và máy scan. Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân lấy các dụng cụ trong hộp đồ Đường Mẫn đưa cho ra, đeo găng tay, cầm bàn chải, bắt đầu làm sạch phiến đất. Trác Mộc Cường Ba nuốt nước bọt đánh “ực” một tiếng, thầm nhủ: “Xem ra chuyên nghiệp thật.”
Phiến đất đã được scan vào máy tính, giáo sư Phương Tân nói: “Tốt quá.” Đường Mẫn lại lấy ra một chiếc mũ chiếu sáng nữa, cả căn hầm liền sáng bừng lên. Lạt Ma Á La lấy webcam quét qua một lượt khắp cái xác kia, nhập hết các số liệu vào máy tính. Giáo sư Phương Tân thành tạo thao tác trên máy tính, dùng kỹ thuật phục hồi trên máy, chậm rãi ghép từng mảnh vỡ của phiến đất lại với nhau, tự động nối các khe hở lại, một tấm bảng đồ hang động đường nét rõ ràng và hơi có phần thô sơ hiện lên trước mặt bốn người. Hình vẽ này và cảnh vật họ nhìn thấy trong cái hầm này đại thể là tương đồng, nhưng ở giữa hầm có vẽ một ngôi sao năm cánh rất lớn, mỗi góc sao đều tiếp xúc với vách tường. Trên phiến đất còn khắc một số hình vẽ mơ hồ không thể nhìn rõ, sau khi giáo sư Phương Tân nhập vào một loạt các lệnh “xóa răng cưa ở viền”, “làm rõ hình”, “giảm bóng mờ”, các ký hiệu mờ mờ như một đám hồ nhão dần dần thành hình, giáo sư Phương Tân mừng rỡ reo lên: “Là tiếng Anh!”
“When There Is a Will There Is a Way”, đây là một thành ngữ trong tiếng Anh, thường dịch thành “Có chí thì nên”, dịch theo mặt chữ thì gần giống với câu “Xe đi tới núi thì ắt có đường”. Giáo sư Phương Tân nhìn lạt ma Á La hỏi: “Đại sư thấy sao?”
Lạt ma Á La nói: “Trước tiên, ở giữa không có ký hiệu gì tách rời, đây hình như không phải chuyện ngẫu nhiên; thứ nữa câu này có mấy chữ viết lớn in nghiêng, không khó phát hiện ra tính trùng lặp của các chữ cái này, nếu bằng đầu bằng w, vậy thì ý của nửa câu sau có thể lý giải thành ‘đây chính là lối ra’. Đây là một câu đa nghĩa.”
Giáo sư Phương Tân nhìn đường thẳng cắt ngang ngôi sao năm cánh bên dưới hàng chữ cái, nói: “nhìn đường thẳng này đối ứng với chỗ nào của căn hầm nhỉ?”
Mọi người nhìn hình vẽ, rồi tìm được một điểm trên vách tường. Trác Mộc Cường Ba xung phong nhận việc thăm dò nơi đó, gã gõ gõ vào tường, đương nhiên thấy rỗng bên trong, liền đập vỡ một cái hốc đủ cho một bàn tay vào đó. Ba người còn lại đều nhìn gã với vẻ chờ đợi, đột nhiên Trác Mộc Cường Ba “ai cha” một tiếng, rụt vội tay ra như bị bò cạp đốt, máu tươi chảy ròng ròng: “Bên trong có giấu đao, ngoài ra không còn gì hết!”
Đường Mẫn nhanh nhẹn lấy thuốc và bông băng trong túi ra, sát trùng rồi băng bó cho gã. Trác Mộc Cường Ba nhìn câu tiếng Anh kia, lẩm bẩm nói: “wti, wti, là dầu thô kỳ hạn, dầu thô, là… là nước! Chắc là đường thẳng bên dưới, đây là một câu đố lồng trong câu đố! Đáng ghét thật!”
Giáo sư Phương Tân nói: “Đường ở dưới nước? Không thể nào, rốt cuộc ông ta muốn giấu thứ gì?
Lạt ma Á La nói: “Để tôi xem xem.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Để tôi đi cho.” Gã không muốn người khác bị thương, một mình lần mò dưới nước.
Hồ nước này chỉ có mấy kẽ hở không đủ đút lọt ngón tay; đây là một căn hầm do con người đào xuống đất mà thành, căn bản không thể đột phá bốn vách tường để tìm lối ra nào khác. Từ từ, Trác Mộc Cường Ba cũng mò được thứ gì đó, liền cầm lên, thì ra là một chiếc xẻng công binh bọc trong vải dầu. Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra nhìn cái xẻng, lẩm bẩm nói một mình: “Để lại thứ này làm gì? Lẽ nào bảo chúng ta đào địa đạo thoát ra?”
“Đợi chút.” Giáo sư Phương Tân cầm lấy chiếc xẻng công binh, chỉ vào vết khắc trên cán: “Đây là gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba nhìn lại, quả nhiên thấy trên cán xẻng có khắc ba chữ cái xiêu xiêu vẹo vẹo “CMG”, liền lẩm bẩm nói: “CMG? Tập đoàn Nghiên cứu Phát triển Phần Mềm Trung Quốc?”
Giáo sư Phương Tân nói: “nói bậy, hai trăm năm trước làm gì có tổ chức này chứ.” Ông bật máy tính lên, rồi nhập từ khóa vào, máy tính bắt đầu tìm kiếm trong kho dữ liệu nội bộ, tìm kiếm tất cả những cụm từ tiếng Anh viết tắt thành “CMG”. Trác Mộc Cường Ba biết rõ, ổ cứng máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân sử dụng công nghệ dòng dữ liệu quang học tiên tiến nhất của Mỹ, dung lượng lên đến 80 Terabyte, có thể nói là một dung lượng khủng khiếp, dù có lưu cả bảo tàng Anh quốc vào cũng vẫn còn thừa chỗ. Giáo sư Phương Tân nói: “Cái này thì thế nào? Đây là một từ viết tắt của ngành giao thông, ý là ‘phương hướng từ điểm xuất phát tới vị trí trước mặt’.”
Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ: “Điểm xuất phát? Điểm xuất phát ở đâu? Vị trí trước mặt là chỉ chỗ nào chứ?”
Lạt ma Á La nói: “Điểm xuất phát có lẽ là để chỉ điểm gốc ban đầu, là nơi người này tọa hóa, vị trí trước mặt đương nhiên chính là nơi cậu nhặt được cái xẻng. Nhìn tấm bảng đồ này, điểm xuất phát và vị trí trước mặt, vừa vặn chính là hai góc của ngôi sao năm cánh, góc gữa chúng, nếu phóng đại lên thành tỷ lệ lớn, chắc là…” Ông bước sang trái ba bước, vác tường phía đó vừa hay có một núm gồ lên. Trác Mộc Cường Ba giơ xẻng công binh lên, hỏi: “Ở đây hả?” Lạt ma Á La khẽ gật đầu, Trác Mộc Cường Ba bắt đầu vung xẻng lên đào đất, vừa đào vừa càu nhàu: “Chỉ một con đường thôi mà, cần gì phải giở lắm trò như vậy chứ?”
Đào được gần một mét, Trác Mộc Cường Ba đầm đìa mồ hôi, cuối cùng cũng chạm phải một vật bằng kim loại. Gã cả mừng, vươn tay ra rờ lấy, là một cái tay năm quấn bằng dây sắt, đã gỉ hoen gỉ hoét ra rồi. Gã vừa kéo một cái… “rầm rầm rầm” cả vách đất trước mặt Trác Mộc Cường Ba liền đổ sập xuống, nếu không phải lạt ma Á La nhanh tay, chắc chắn gã đã bị đè bên dưới rồi.
Đường Mẫn lo lắng hỏi: “Anh không sao chứ?” Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, sắc mặt nhợt đi, không ngờ đây lại là một cạm bẫy, nếu không kịp tránh đi, cho dù không bị đất đá đè cho chết hay bị thương, thì cũng bị cả tảng tường đất chôn bên dưới. Chỉ nghe lạt ma Á La nói: “Ô, vách tường đã bị đào rỗng, sau đó lấy bùn nhão đắp thành tường bùn, bên trên đặt đá hoặc gạch, để xương cốt dã thú bên dưới chống đỡ, dây sắt quấn thành tay nắm kéo cột chống này, khi có người dùng sức kéo tay nắm này, cho dù thế nào cũng không thể tránh khỏi bức tường sập xuống.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Rất giống bẫy bắt người của Câu lạc bộ Săn người Anh quốc thế kỷ mười tám. Người này không đơn giản đâu.”
Trác Mộc Cường Ba vừa tức vừa giận, giơ xẻng lên định đập nát bộ xương kia, bỗng giáo sư Phương Tân phát hiện sau bức tường đổ có mấy chữ cái khác, hợp thành chữ “SIN”, ông lẩm bẩm nói: “Tội ác nguyên thủy?” Lạt ma Á La cũng sực nhớ ra: “A, sao năm cánh, đây là ký hiệu được sử dụng sớm nhất trong tôn giáo, tượng trưng cho tội ác nguyên thủy, khi trước chỉ là một nửa âm tính của thế giới, về sau bị giáo lý xuyên tạc bóp méo thành hóa thân của ma quỷ. Thực ra, trong một số dị giáo, nó cũng mang ý nghĩa khởi điểm và sơ nguyên, khi thế giới còn trong trạng thái hỗn độn ban đầu, do năm nguyên tố hợp thành.”