watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Mật Mã Tây Tạng - tập V-Chương 15 - tác giả Hà Mã Hà Mã

Hà Mã

Chương 15

Tác giả: Hà Mã

M erkin thởi dài nói: “Thật không ngờ đấy, thì ra tấm bản đồ cũng chỉ đường đến nơi này, xem ra hồi ức của Tây Mễ là chính xác rồi, giờ chỉ còn xem rốt cuộc tấm bản đồ ấy chỉ tường tận đến mức nào thôi. Mấy trăm cây số lưng chừng núi bị bao bọc trong sương tuyết mù mịt, lại chỉ có một lối vào rộng chừng một mét là có thể đi xuống dưới, đám giáo đồ Mật giáo cổ đại ấy sao lại tìm ra được nơi như thế chứ? Thật là không thể tin nổi…







Người áo xám bước vào nhà, không ngờ lại là Lạt ma Á La. Ngọn lửa nhỏ trong bếp lò vùng vẫy run rẩy một hồi, ánh sáng hắt lên chiếu vào gương mặt ông, già nua mà điềm tĩnh. “Anh biết là tôi sẽ đến…”

“Đó là lẽ dĩ nhiên.” Cương Nhật Phổ Bạc kéo một chiếc thảm trên giường đắp lên đầu gối, đoạn nói: “Ông nhất định có rất nhiều chuyện muốn hỏi tôi, vừa khéo, tôi cũng có khá nhiều chuyện muốn hỏi ông. Một nghìn năm rồi, các ông trước sau vẫn không chịu bỏ cuộc, xem ra, năm xưa Đạo quân Ánh sáng không chỉ mang đi báu vật trong Tứ phương miếu thôi phải không, ngoài ra còn thứ gì đó khác có thể khiến các người quyết chí đi tìm như thế?”

Lạt ma Á La hỏi ngược lại: “Còn các anh? Cũng cùng chung cảnh ngộ, cùng chung vận mệnh, chẳng phải các anh cũng chưa từng bỏ cuộc đấy hay sao?”

“Không!” Cương Nhật Phổ Bạc nhìn ngọn lửa đang nhảy múa đến mức xuất thần, trầm giọng xuống: “Gia tộc chúng tôi đã bỏ cuộc từ lâu rồi. La Long Ni Khắc – Cương Nhật Phổ Bạc tôi đây, đã là người cuối cùng của gia tộc, trở thành một gã hậu duệ Bạch Ngân danh phù kỳ thực. Khi tổ tiên tôi chọn lựa mảnh đất này để định cư, chúng tôi đã thôi không còn tìm kiếm nó nữa. Có lẽ, cứ để bí mật ấy chôn vùi trong dòng sông thời gian thì tốt hơn.”

Nói tới đây, Cương Nhật Phổ Bạc ngẩng đầu lên mỉm cười với Lạt ma Á La, rồi hỏi: “Xem ra thì bọn Cường Ba vẫn chưa biết thân phận thực sự của đám Mật tu giả các ông phải không?”

Lạt ma Á La gật đầu: “Đợi thời cơ đến rồi mới cho họ biết thì tốt hơn.”

Cương Nhật Phổ Bạc nói: “Điều này thì tôi có thể hiểu được. Thế nhưng, các ông đã để họ giúp đỡ tìm kiếm Bạc Ba La, song dường như lại không nói cho họ biết mấy thông tin thì phải? Đến cả lang tiêu mà cũng không biết là gì…”

Lạt ma Á La nói: “Hầu hết tư liệu chúng tôi nắm được đều đã đưa cho họ cả rồi, vấn đề còn lại là phải xem họ lĩnh ngộ lý giải được bao nhiêu mà thôi; còn về lang tiêu, bản thân tôi cũng không ngờ đến ngày nay nó vẫn còn phát huy được tác dụng; ngoài ra còn một số việc mà chúng tôi không biết, đây chính là lý do tôi đến tìm gặp anh.”

“Ừm”, Cương Nhật Phổ Bạc tựa như ngộ ra điều gì đó, nói: “gia tộc chúng tôi vì bị vu hãm, không nuốt được mối hờn căm này, nên mới quyết tìm Dquas hòng rửa nỗi oan khuất mà gia tộc phải gánh chịu. Tất nhiên, có thể tìm thấy các bảo vật trong Tứ phương miếu, trùng chấn lại thanh uy của gia tộc, khôi phục sự huy hoàng năm xưa cũng là một nguyên nhân rất quan trọng. Còn các ông thì sao?”



Đêm đã khuya, Cương Lạp hoàn toàn không hứng thú chút nào với câu chuyện của hai người, nó cụp tai ngủ thiếp đi, chỉ còn ngọn lửa là vẫn nhảy múa không biết mệt mỏi.

***

Sáng sớm hôm sau, Nhạc Dương dậy rất sớm, chỉ thấy cảnh vật bên ngoài đẹp mê hồn, không khí trong lành, hồ nước núi non trông như tranh vẽ, anh chàng tập một bài thể dục, hít thở không khí thanh khiết, tinh thần sảng khoái, không kìm được mà phải ca tụng rằng, nếu được ở đây chắc chắn sẽ sống lâu thêm mấy năm.

Nhạc Dương đã nghe Trác Mộc Cường Ba kể, rằng người Đạt Mã rất thanh đạm chất phác, cuộc sống đơn giản đến khó có thể tin nổi. Đàn ông trưởng thành chặt củi rèn sắt, còn dệt vải và dọn dẹp nhà cửa là việc của đàn bà, người già thì ngồi ngoài cửa xe sợi, nếu không thì đan lưới, hôm nào trời lạnh quá thì ngồi bên bếp lò. Dạo trước, trẻ con ở đây còn ít được giáo dục, đa phần đều được để mặc ngoài đồng cỏ với bò cừu hoặc tự do chơi đùa với bạn bè cùng lứa, lớn lên thì kết hôn sinh con, toàn bộ cuộc sống chỉ có thế, ngày lại qua ngày. Khi nghe kể mười mấy năm trước, trẻ con ở đây không cần đọc sách đi học, Nhạc Dương và Trương Lập không những không cảm thấy thương hại chúng, ngược lại còn tỏ ra hết sức ngưỡng mộ nữa.

Nhạc Dương đang say sưa ngắm cảnh, thấy Trương Lập cũng bước ra, liền cất tiếng: “Chào buổi sáng!”

Trương Lập nói: “Tập hợp, tập hợp, giáo quan gọi tập hợp kìa!”

Các đồng chí ở Cục Khí tượng thông báo, trong khoảng thời gian ngắn tới đây thời tiết không thích hợp cho leo núi, Lữ Cánh Nam nói với các thành viên trong đội, mấy ngày này sẽ để dân làng dẫn họ đi thăm dò các tuyến đường, hy vọng có thể tìm được con đường lên núi nào khác ngoài con đường đã bị đàn sói chiếm cứ.

Vì lý do an toàn, mọi người vẫn chia làm ba nhóm do những dân làng quen thuộc địa hình dẫn đường, cẩn thận tránh xa khu vực bầy sói tập trung, đi khắp xung quanh núi tuyết để đo đạc quan trắc. Mấy ngày liền bôn ba vất vả, đến cả người như Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy hơi mệt mỏi, xem ra họ vẫn phải tăng cường rèn luyện thể lực thêm nữa.

Không chỉ vậy, họ còn chẳng có thời gian để nghỉ ngơi. Mỗi ngày trở về đều phải chỉnh lý, phân tích các tuyến đường mới thăm dò được, còn phải tiếp tục nghiên cứu tấm bản đồ đã được các chuyên gia đánh dấu kia. Hướng đi của mạch núi nhìn đại để thì không sai rồi, nhưng trên bản đồ không đánh dấu chỉ đường lên núi, đây cũng là lý do căn bản khiến họ phải nhọc công đến vậy. Lữ Cánh Nam nói với mọi người, về nơi này, ngọn núi này, ngoài bản đồ ra còn một bằng chứng khác nữa. Trong tư liệu lịch sử từng có ghi chép rất rõ ràng, tượng Phật và kinh thư theo Văn Thành công chúa vào đất Tạng năm xưa xuất hiện lần cuối cùng chính ở huyện Đạt Mã này, bởi thế mà từ rất nhiều năm trước, nhà nước đã tiến hành khảo sát ở khu vực núi non gần đây. Có điều khi ấy còn chưa có bản đồ chỉ rõ là ngọn núi nào, mà điều kiện kỹ thuật cũng không được hoàn bị cho lắm, cuối cùng đội khảo sát đã mất tích toàn bộ ở khu vực này, nghĩ lại thì có lẽ chính là lần mà Mã Bảo nhắc đến lúc họ mới tới đây rồi. Lữ Cánh Nam nói, về sau, nhà nước còn tổ chức đội khảo sát khoa học tới đây thăm dò nhiều lần nữa, nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau, nên cuối cùng cũng vẫn buộc phải bỏ cuộc. Nhạc Dương lập tức liên tưởng đến người dẫn đường Cương Nhật Phổ Bạc mà đội trưởng Hồ Dương nhắc tới, liền thì thầm nói riêng với Trác Mộc Cường Ba rằng, có lẽ Lạt ma Á La biết một số việc liên quan đến Cương Nhật Phổ Bạc, có điều tới giờ anh vẫn chưa nghĩ ra nên hỏi ông như thế nào thôi.

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nói: “Còn phải hỏi như thế nào nữa à? Trực tiếp hỏi thôi, để tôi đi tìm đại sư luôn.”

Trác Mộc Cường Ba tìm được Lạt ma Á La, liền hỏi ngay: “Đại sư, hôm qua ngài và a quả đọ sức một trận, có phải đã nhận ra được điểm gì đó từ thân thủ hay gì đấy của anh ấy phải không? Thí dụ như thân phận, lai lịch gì đó chẳng hạn. Nói thực lòng, tôi đã ở với anh ấy hơn nửa năm, trước giờ vẫn cứ nghĩ anh ấy chỉ là một người dân Tạng bình thường, nhưng hôm qua, từ những hiểu biết của anh ấy về Đạo quân Ánh sáng và Bạc Ba La, có thể thấy thân phận của a quả dường như không tầm thường một chút nào.”

Lạt ma Á La hơi ngạc nhiên đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, hiển nhiên ông không ngờ gã lại đem mình và Cương Nhật Phổ Bạc liên hệ với nhau nhanh như vậy. Có điều cuộc nói chuyện đêm qua với Cương Nhật Phổ Bạc đã mở được khá nhiều nút thắt nghi vấn trong lòng ông, vậy nên đại sư cũng thẳng thắn trả lời luôn: “Đúng thế, tôi biết thân phận của Cương Nhật Phổ Bạc. Anh ta là người của gia tộc La Long Ni Khắc, chúng tôi gọi họ là hậu duệ Bạch Ngân.”

Thấy Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn không hiểu gì, Lạt ma Á La nở một nụ cười điềm đạm, ý bảo gã tìm chỗ nào đó ngồi xuống, chậm rãi giải thích: “Sự việc này, thông thường phải là người hiểu biết về lịch sử các gia tộc ở Thổ Phồn mới dễ dàng thông hiểu được. Để tôi nói về gia tộc trước nhé. Vương triều Thổ Phồn hùng cứ cao nguyên Thanh Tạng cả mấy trăm năm, ngoài hai gia tộc thế gia đại thần Nương thị và Vi thị, còn có rất nhiều gia tộc được trọng dụng qua nhiều triều đại, họ cũng giống như Dương gia tướng, Nhạc gia tướng, Tiết gia tướng… mà ngày nay mọi người đều đã quá quen thuộc rồi vậy. Triều đại thay đổi, quý tộc thế tập cha truyền con nối, có rất nhiều gia tộc đã cùng hưởng vinh chịu nhục với Thổ Phồn. Đây chính là gia tộc, mỗi triều đại đều có mấy gia tộc lớn mạnh, tôi không nhắc đến hết ở đây, mà chỉ nói riêng về gia tộc La Long Ni Khắc thôi. Cậu cũng biết rồi đấy, Đạo quân Ánh sáng là lực lượng chiến đấu mạnh nhất do Tạng vương Tùng Tán Can Bố lập nên, về sau thì chủ thể của Đạo quân Ánh sáng là bộ tộc Qua Ba, nhưng trước khi chiến thắng Tượng Hùng, cậu có biết những người nào là chủ thể của Đạo quân Ánh sáng này hay không?”

Trác Mộc Cường Ba đã lờ mờ đoán được: “Lẽ nào lại là…”

Lạt ma Á La gật đầu: “Đúng thế, chính là gia tộc La Long Ni Khắc. Trong lịch sử, họ cũng từng được gọi là Nô bộc của Ánh sáng, họ chính là Đạo quân Ánh sáng tiền nhiệm. Sau khi bộ tộc Qua Ba được biên vào làm bộ phận chính của Đạo quân Ánh sáng, gia tộc La Long Ni Khắc được thuyên chuyển sang một cánh quân khác, ngoài chuyện đó ra, họ vẫn đảm nhận sứ mệnh giống như Đạo quân Ánh sáng, cũng tức là quân thân vệ của Tạng vương. Cũng có nghĩa là, vào thời đó, gia tộc La Long Ni Khắc đảm nhiệm cùng một cương vị với Đạo quân Ánh sáng, họ chính là những người tiếp cận gần nhất với bộ tộc Qua Ba. Còn nữa, tôi vẫn nhớ hôm qua Nhạc Dương đã nhắc đến một chuyện, nói rằng tại sao Tạng vương lại dám dùng một đội quân không trực tiếp trung thành với mình làm cận vệ, gia tộc La Long Ni Khắc này, chính là một trong các nguyên do đó. Gia tộc này đã trực tiếp thề sẽ tận hiến sức lực cho Tạng vương, so về số lượng trong quân thân vệ thời bấy giờ, bọn họ còn đông hơn cả Qua Ba tộc, đại khái cũng có vai trò khắc chế bộ tộc Qua Ba, cân bằng thực lực. Bởi vậy, khi Đạo quân Ánh sáng đột nhiên biến mất, gia tộc này cũng phải đối mặt với nguy cơ vô cùng to lớn…”

Lạt ma Á La ngừng nói, Trác Mộc Cường Ba liền thắc mắc: “Đạo quân Ánh sáng biến mất thì liên quan gì với bọn họ kia chứ?”

Lạt ma Á La nói: “Đạo quân Ánh sáng tuy là đội quân bí mật của Thổ Phồn, nhưng không phải là không ai hay biết, ít nhất cũng có hai gia tộc Nương thị và Vi thị là biết chuyện. Hơn nữa, khi ấy, những gia tộc lớn mạnh, nắm giữ các bí mật tối cao của quốc gia cũng ít nhiều biết được một chút. Vì vậy, bí mật về nguyên do tại sao Đạo quân Ánh sáng có thể trở thành lực lượng chiến đấu mạnh nhất của vương triều Thổ Phồn vẫn là điều mà các gia tộc lớn đều khao khát nhòm ngó. Sau khi Đạo quân Ánh sáng biến mất, cân bằng thế lực giữa các gia tộc lớn bị phá vỡ, không còn lực lượng nào áp chế được họ nữa, những gia tộc này thèm khát được sở hữu sức mạnh của Đạo quân Ánh sáng; hơn nữa, cậu chớ quên rằng, cùng biến mất với Đạo quân Ánh sáng còn có tất cả báu vật của vương triều Thổ Phồn thời kỳ toàn thịnh. Chỉ với hai điểm này thôi, cũng đủ khiến những gia tộc thực lực hùng mạnh kia đào đất sâu ba thước lên tìm kiếm bất cứ đầu mối nào liên quan đến Đạo quân Ánh sáng rồi. Mà những đầu mối này, ngoài hai gia tộc Nương thị và Vi thị ra, ai sẽ là người bị nghĩ đến đầu tiên chứ?”

Trác Mộc Cường Ba giờ mới hiểu ra: “Gia tộc La Long Ni Khắc!”

Lạt ma Á La gật đầu: “Không sai. Họ từng đảm nhiệm công việc ở cùng một nơi với Đạo quân Ánh sáng, lại là người tiền nhiệm của bộ tộc Qua Ba, trong con mắt người ngoài, chắc chắn họ còn biết rất nhiều ẩn tình bên trong mà không ai khác biết được. Vì vậy, trong cuộc chiến loạn sau này, vận mệnh của họ cũng giống như những người Qua Ba bị Đạo quân Ánh sáng bỏ rơi vậy, họ trở thành mục tiêu đầu tiên mà các gia tộc lớn muốn đối phó. Những gia tộc hơi có thực lực một chút, đều muốn tìm được đầu mối về Đạo quân Ánh sáng từ gia tộc La Long Ni Khắc. Liên tiếp nhiều năm chinh chiến, dẫu rằng sức chiến đấu của gia tộc La Long Ni Khắc cực cao, nhưng rồi cuối cùng cũng không thể thoát được số phận bi thảm. Thế nhưng, sự thực là họ cũng hoàn toàn không hề hay biết về sự biến mất của Đạo quân Ánh sáng, chỉ là vô tình đã trở thành chìa khóa mở cửa kho báu trong mắt người ngoài mà thôi.”

Trác Mộc Cường Ba bừng tỉnh ngộ, nói: “Thì ra là vậy. Thế nên để rửa sạch mối oan khiên, họ phải tìm ra Đạo quân Ánh sáng, và cũng gia nhập hàng ngũ những người đi tìm kiếm Bạc Ba La. Chẳng trách a quả lai nói, gia tộc nhà họ đã tìm kiếm gần nghìn năm nay rồi.”

Lạt ma Á La gật đầu: “Ừm, về sau những hậu nhân của gia tộc La Long Ni Khắc còn sống sót sau cơn chiến loạn đã bị buộc phải thay tên đổi họ, sống lưu vong hoặc ẩn cư. Có điều, để ghi nhớ lòng trung thành của họ với vương thất và sự cống hiến trong công cuộc mở rộng cương thổ của vương triều Thổ Phồn, người đời sau gọi họ là hậu duệ Bạch Ngân, ý chỉ những võ sĩ mạnh mẽ, sức chiến đấu chỉ đứng sau có Đạo quân Ánh sáng.”

Trác Mộc Cường Ba lại nó: “Vậy hôm qua làm sao đại sư nhận ra được thân phận của anh ấy thế?”

Lạt ma Á La mỉm cười: “Chuyện này thì đơn giản thôi. Đầu tiên cậu phải biết, lịch sử của một số gia tộc thậm chí còn dài hơn cả bản thân vương triều Thổ Phồn nữa, những gia tộc này đều có huy chương, kỳ hiệu và những hoa văn trang trí đặc trưng chỉ thuộc về gia tộc họ. Thời đó, chỉ cần nhìn thấy những tiêu chí đặc biệt này, là lập tức có thể nhận ra đây là thuộc về gia tộc nào, cũng giống như bây giờ cậu thấy logo của ngân hàng Kiến thiết, ngân hàng Công thương là nhận ra ngay vậy thôi. Tôi nhận ra tiêu ký của gia tộc La Long Ni Khắc trên cán đao Cương Nhật Phổ Bạc, mà thực ra, đến ngày nay, mọi người cũng vẫn thường trông thấy những tiêu ký đó mà.”

Thấy vẻ hoài nghi trên mặt Trác Mộc Cường Ba, Lạt ma Á La nói: “Vì chiến tranh, những gia tộc ấy thường là bị tiêu diệt toàn bộ, huy hiệu của họ tản mát khắp trên cao nguyên, bị che phủ trong những bờ cây bụi cỏ. Về sau, khi dân du mục tìm thấy chúng, lịch sử đã bị lãng quên, nên người ta không thể nhận ra được đó là vật thuộc về ai, ở thời nào nữa, liền coi là những thứ trên trời rơi xuống, là vật trời cao ban tặng, vậy là những huy hiệu của gia tộc ấy liền được coi là vật tượng trưng cho may mắn, được giữ gìn như một thứ bùa hộ thân. Những huy hiệu gia tộc ấy, cũng chính là thiên khâm mà người ta vẫn thấy bây giờ. Tất nhiên, thiên khâm không chỉ gồm có huy hiệu của gia tộc, mà còn có cả các pháp khí từng được các tôn giáo cổ đại sử dụng. Ngoài ra, trong số rất nhiều hoa văn kỳ quái trên thiên châu, có không ít là hoa văn chuyên dụng của một số gia tộc nào đó, chỉ là đến ngày nay, e rằng không còn ai nhận ra được chúng nữa mà thôi.”

Lúc này, Nhạc Dương chạy đến hỏi: “Cường Ba thiếu gia, đại sư, hai người…”

Lạt ma Á La hỏi: “Nói chuyện xong rồi, có chuyện gì vậy?”

Nhạc Dương nói: “Cường Ba thiếu gia, giáo sư Phương Tân muốn anh qua nói một chút về tình hình bầy sói hôm trước.”

Trác Mộc Cường Ba đứng lên hỏi: “Các cậu chưa kể à?”

Nhạc Dương gãi đầu: “Giáo sư bảo chúng tôi kể không chuyên nghiệp chút nào…”

Trác Mộc Cường Ba cười lên ha hả, sải chân bước đi. Nhạc Dương ở phía sau căn vặn: “Thế nào, Lạt ma Á La nói gì vậy?”

Trở vào trong nhà, Mẫn Mẫn và Trương Lập đang tranh luận gì đó, rõ ràng cô không tin những gì Trương Lập kể cho lắm, giáo sư Phương Tân đang nhập dữ liệu vào máy tính. Trác Mộc Cường Ba đã tự mình trải qua vụ đụng độ với bầy sói, lại lựa ra những chỗ chính yếu, nên nhanh chóng giúp giáo sư Phương Tân hiểu được tất cả mọi chuyện họ gặp phải hôm trước.

Nghe Trác Mộc Cường Ba kể xong, giáo sư Phương Tân nói: “Rõ ràng là sói di cư rồi, nhưng lại có điểm khác biệt với tất cả những đàn sói di cư mà chúng ta từng nghiên cứu, tôi muốn đích thân đi quan sát một phen…”

“Không, không, không, không thể được…” giáo sư Phương Tân còn chưa dứt lời, đã bị mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba cực lực ngăn cản. Hệ số nguy hiểm quá lớn, nhưng giáo sư Phương Tân đâu dễ dàng bỏ cuộc đến thế, cuối cùng Trác Mộc Cường Ba đành nói, muốn đi cũng phải đợi vũ khí trang bị vận chuyển đến đã, sau đó còn phải hỏi ý kiến Lữ Cánh Nam, vậy mới khiến giáo sư Phương Tân tạm gác ý định đó lại.

Trương Lập nói: “À, tôi định hỏi anh từ hôm qua rồi cơ, Cường Ba thiếu gia, hôm trước anh nói, chỉ ở trong đàn sói di trú mới có thể xuất hiện vua sói, những đàn khác thì chỉ có sói đầu đàn, sói thống lĩnh, chuyện là như thế nào vậy?”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn giáo sư Phương Tân, nói: “Chuyện này để thầy giáo giải thích thì rõ ràng hơn.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Cậu có biết tập trí là gì không?”

Trương Lập và Nhạc Dương cùng lúc lắc đầu. Giáo sư Phương Tân liền giảng giải: “Thấy chưa, đây chính là chỗ tai hại của việc không thích học đấy. Tập trí, chính là chỉ trí tuệ tập thể. Hệ thần kinh của những cá thể nhỏ bé như ong mật hay kiến đều hết sức đơn giản, khi chúng là một cá thể thì hầu như chẳng có trí tuệ gì. Thế nhưng, khi số lượng cá thể đạt đến một con số nhất định, sẽ tự động nảy sinh một dạng trí tuệ tập thể, chúng có thể xây dựng những cái tổ phức tạp, tuân theo những quy tắc xã hội phức tạp, có lúc thoạt nhìn thấy gần như là xã hội loài người thu nhỏ vậy, thậm chí còn tinh chuẩn hơn cả con người nữa, tại sao lại như vậy chứ?”

Nhạc Dương và Trương Lập lại lắc đầu, giáo sư Phương Tân tiếp tục giải thích: “Ở đây có một vấn đề cấp độ. Một là điểm, vô số điểm nối lại với nhau thì thành đường, hai đường thẳng giao nhau thì thành một mặt phẳng, vô số mặt phẳng chồng chất lên nhau thì tổ hợp thành không gian lập thể mà chúng ta đang tồn tại, đây chính là không gian vĩ độ mà các nhà khoa học vẫn thường nói đến, các không gian vĩ độ cao đều do các không gian vĩ độ thấp tổ hợp mà thành. Đồng thời các nhà khoa học cũng cho rằng, phương diện trí tuệ cũng tương tự như vĩ độ không gian này vậy, sao các cậu ngây ra thế? Chà chà, vậy mà cũng không hiểu được hả? Thôi thì tôi nói đơn giản hơn một chút vậy, các cậu thử tưởng tượng một chút nhé, một cái bóng đèn nếu tắt hay sáng, thì nó chỉ có thể biểu thị tắt hay sáng thôi, có đúng không? Nếu như có một nghìn cái bóng đèn xếp thành hình vuông, vậy thì khi bật hay tắt một phần những bóng đèn trong đó, chẳng phải là sẽ có thể hiện thành những hình khác nhau hay sao? Như vậy đã hiểu được chưa, một con ong mật chính là một cái bóng đèn, nó không có trí tuệ gì cả, là một cá thể cùng lắm chỉ có một chút bản năng sinh tồn, nhưng khi cả đàn ong tập trung lại, bọn chúng liền trở thành động vật có tính xã hội, chúng có ong chúa, có ong đực, có binh sĩ chiến đấu, có con phụ trách ong non, có con thu thập lương thực. Khi ấy, hiện ra trước mắt chúng ta, là một đại biểu gia đình đầy trí tuệ.”

Nhạc Dương và Trương Lập đã hơi hơi hiểu, bắt đầu gật gù. Kế đó, giáo sư Phương Tân lại nói: “Kiểu trí tuệ tập thể này thích hợp với đại đa số các loài động vật quần cư, bao gồm cả tổ tiên loài người chúng ta; cùng một lý do đó, cũng bao gồm cả đàn sói. Khi đàn sói lấy gia tộc làm đơn vị, chúng chủ yếu là săn bắt, vấn đề mà con sói đầu đàn quan tâm chỉ là bảo vệ lãnh địa của gia tộc và địa vị thủ lĩnh của mình, đảm bảo gia tộc của nó có thể tiếp tục tồn tại lâu dài, mặc dù trong đàn sói có sản sinh ra quan hệ địa vị xã hội cao thấp, nhưng trí tuệ rất có hạn. Khi chúng phát triển thành một tập đoàn sói, quan hệ xã hội không chỉ là trong nội bộ gia tộc với nhau nữa, đồng thời, giữa các gia tộc cũng sẽ nảy sinh sự phân biệt về địa vị xã hội, săn bắt tập thể cũng cần sự phối hợp chặt chẽ hơn, điều động chỉ huy chuẩn xác hơn, có điều chúng cũng vẫn có một vấn đề,đó là vấn đề khu vực. Khu vực hạn định phạm vi hoạt động của chúng, không dám dời khỏi hoàn cảnh sinh tồn ban đầu của mình thì trước sau khó có thể đột phá được giới hạn thấp để nảy sinh trí tuệ tập thể. Cổ nhân có câu, đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường, trong thời đại không có thông tin điện tử như bây giờ, nếu muốn tăng cường kiến thức, thì cần phải du lịch khắp nơi, đối với bầy sói cũng vậy thôi. Chỉ có trên con đường di cư, chúng mới gặp được các sinh vật chủng loại khác nhau, giao lưu với những đàn sói ở khu vực khác, có thể học được các kỹ xảo săn bắt đặc biêt; trên đường di cư, mới cần phải thích ứng với những hoàn cảnh sinh tồn khác nhau; quan trọng hơn cả, là bầy sói di cư sẽ không ngừng lớn mạnh, khi số lượng sói trong đàn tăng đến một điểm giới hạn, toàn thể đàn sói sẽ nảy sinh đột phát, sản sinh ra trí tuệ tập thể mà tôi vừa nói đến.

Giáo sư Phương Tân hít sâu vào một hơi, nói: “Về điểm tới hạn này thì trong giới học thuật cũng chưa có định luận, tóm lại, nếu số lượng bầy sói tăng đến một cơ số tương đối lớn, cả bầy sẽ xuất hiện một thay đổi nghiêng trời lệch đất. Phải biết rằng, trong bản thân lũ sói đã tiến hóa ra các loại ngôn ngữ cơ thể, cơ chế phụ trách săn bắt và đẳng cấp xã hội rất nghiêm khắc, khi chúng nảy sinh hiện tượng trí tuệ tập thể, trí tuệ của cả bầy sẽ có một bước nhảy lớn. Có chuyên gia đã tính toán, khi đó, trí tuệ và hình thái xã hội của bầy sói sẽ có thể đạt đến hoặc vượt trên trình độ văn minh của xã hội nô lệ loài người. Nói một cách thông tục hơn, chẳng hạn như bầy sói di cư xuất hiện hôm nay vậy, chỉ số thông minh của chúng còn cao hơn cả người thời đồ đá, có khả năng là đã đạt đến trình độ văn minh của nước ta thời kỳ triều Hạ(*), hoặc giả có thể còn cao hơn. Sự thực là, xã hội loài người xưa cũng thông qua hình thức trí tuệ tập thể này mà tiến hóa tới thứ mà chúng ta ngày nay gọi là văn minh, người ta vẫn thường nói, con người có trí tuệ từ lao động, điều này không hoàn toàn chuẩn xác cho lắm, nói một cách chuẩn xác, thì phải là, con người có trí tuệ từ trong lao động tập thể.”

*******

(*) Ông giáo sư này nghiên cứu về chó nhiều quá đến mức không còn tỉnh táo nữa rồi. Trí tuệ tập thể chỉ là một trong nhiều điều kiện lịch sử để hình thành nên nền văn minh nhân loại; vì thế cho dù chó sói có chỉ số IQ cao như trong truyện, thậm chí vượt cả loài người, nhưng không có hai chi trước phát triển để có thể chế tạo và sử dụng công cụ lao động thì sói vẫn là… chó thôi. Điều này giáo trình Sinh học phổ thông đã nói qua rồi.
Mật Mã Tây Tạng - tập V
Mở đầu
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22
Chương 23
Chương 24
Chương 25
Chương 26
Chương 27
Chương 28
Chương 29
Chương 30
Chương 31
Chương 32
Chương 33
Chương 34
Chương 35
Chương 36
Chương 37
Chương 38
Chương 39