Chương 4
Tác giả: Hồ Biểu Chánh
Thầy Nhãn về nhà, chiều bữa ấy thầy ăn cơm không được.
Trời vừa tối thì thầy thơ-thẩn đi ngoài đường; thầy lựa mấy đường vắng-vẻ mà đi đặng có suy nghĩ, mà vì trong lòng thầy cứ hồi-hộp, trong trí thầy cứ bàng-hoàng nên thầy không suy ra việc gì hết.
Ðã khuya rồi, xe hết chạy, người hết đi. Thầy đi vòng ra tới cầu tàu lục-tỉnh. Thầy đi đã mỏi chưn, nên tạm ngồi trên một cái băng mà nghỉ. Trên trời vừng trăng vặc-vặc, trước mặt dòng nước minh-mông, gió thổi hiu-hiu phất vạt áo, guộn sóng sông, trên đầu cồn đèn đánh cá lờ-đờ trôi-nổi.
Thầy Nhãn ngồi nhắm cảnh, xét việc mình. Bành-Nghiệp chết đó có phải tại mình hay không? Vì ghen nên giận uống thuốc độc mà chết, hay là vì vợ muốn rảnh chưn nên phục thuốc độc mà giết chồng? Hồi chiều đi về dọc đường, quan Biện-Lý tỏ ý nghi Bành-Nghiệp ghen nên tự-vận, còn quan Thẩm-Án lại nghi cô Ðằng bị chồng đánh chưởi nên cô dùng pháo chà bỏ vô cơm nước mà thuốc chồng. Hai cái lý-thuyết ấy cái nào cũng có thể tin được hết, vậy mà cái nào trúng? … Cái nào trúng mình cũng có tội hết thảy. Nếu Bành-Nghiệp ghem mà tự-vận thì tại nơi mình, mà cô Ðằng giết chồng thì cũng tại nơi mình, bề nào mình chối cũng không được! Quan trên đổi mình về đây làm chi mà sanh ra điều rắc-rối như vầy? Sao bữa đầu cô Ðằng lại nhà, mình không kháng cự hẳn-hòi, để cô lân-la làm chi nên bây giờ phải mang họa?
Thầy Nghĩa nhớ tới tánh-khí của cô Ðằng. Cô là một gái tình sâu-sia, tánh nóng-nảy. Gặp nhau đêm chót, lúc ra về cô khóc mà nói rằng: “Phải tính làm sao, chớ ở vào cái địa-vị kỳ-cục như vầy thì em chịu sao nổi”. Cô lại thường nói ở trong nhà chồng ấy là ở trong địa-ngục, miễn sum-hiệp thì thôi, dầu chết chém cũng không sợ, kiếp nầy tíng sum-hiệp phứt cho xong, rồi kiếp sau ra làm sao cũng được. Thầy nhớ những lời ấy thì trong lòng thầy lạnh ngắt, cặp mắt thấy ướt dầm.
Cô Ðằng vì nặng tình với mình mà phải mang tội giết chồng hay sao? Trời đất ôi! Nếu thiệt như vậy thì còn gì mà kể!
Thầy ngồi tại cầu tàu quá nửa đêm rồi thầy thủng-thẳng đi về, mà về nhà thầy ngủ cũng không được.
Sáng bữa sau vô Tòa, thầy làm đơn trình với quan Biện-Lý mà xin đổi về Sài-gòn, viện lẽ đau trái tim, nên cần phải về kinh-thành mà uống thuốc.
Hương-Quản Ngã Tư giải Trần-Thêm với Thị-Cải vô, thì quan Thẩm-Án làm giấy giam liền, chớ không hỏi nữa. Ngài lại dạy thầy thông-ngôn viết trát đòi cô Ðằng ba bữa phải đến hầu.
Tới bữa đó, người nấu ăn dọn-dẹp xong rồi mới xin về. Thầy Nhãn đóng cửa nằm trong nhà, đèn vặn lu-lu. Cách một lát thầy nghe có tiếng gõ cửa ở phía ngoài. Thầy hỏi “Ai đó?”. Không nghe tiếng trả lời mà lại gõ nữa. Thầy ra mở cửa.
Cô Ðằng chun vô. Cô giớn-giác rồi hỏi: “Anh nấu ăn còn ở trong nhà hay không?”.
Thầy lắc đầu. Cô đóng chặt cửa lại rồi tè ngồi trên một cái ghế, tay chống trán mà khóc và nói nhỏ nhỏ rằng: “Vì em quá thương anh, em không kể chi hết nên phải phạm tội như vậy đó. Xin anh cứu giùm em”.
Thầy Nhãn vừa nghe mấy lời, thì thầy la rằng: “Úy! Tè ra em giết …” rồi thầy đứng ngó cô Ðằng trân-trân, nghẹn cổ nói không được nữa.
Cô Ðằng cũng không nói nữa, cô cứ ngồi khóc rấm-rứt.
Thầy Nhãn ngồi dựa ngửa trên cái ghế canapé, rưng-rưng nước mắt. Cách một hồi lâu, thầy chắt lưỡi lắc đầu mà nói rằng: “Em có biết việc của em làm đó đại ác hay không? Hôm trước giữa đôi ta thì có chồng của em; kể từ nay giữa đôi ta lại có một cái thây ma, làm sao mà sum-hiệp với nhau cho được! Chẳng những kiếp nầy bị tội đại hình mà thôi, mà lại còn phải mang quả-báo về kiếp sau nữa! Khốn-khổ biết chừng nào!”.
Cô Ðằng đứng dậy đi lại ngồi gần một bên thầy mà nói rằng: “Xin anh thương giùm thân em. Việc em làm đó, bây giờ em biết tội lớn lắm, nên em ăn-năn vô cùng. Xin anh đừng có trách em mà đau-đớn thêm cho em nữa”.
Thầy Nhãn lặng thinh, nước mắt chảy ròng-ròng.
Cô Ðằng nói tiếp rằng: “Em là người cuồng trí, thương anh mà gần không được, tức giận mà không biết làm sao. Hôm nọ chồng em đi Sài-gòn về, chú Thêm học với nó rằng em bỏ nhà đi mất hai đêm. Nó nổi ghen rầy-rà. Em cự lại với nó. Nó giận nó đánh em mấy bốp tai. Cái ghét của em nó trở ra cái oán. Em giận vô cùng, em không kể tội phước quấy phải chi nữa hết. Em lấy pháo chà trong tiệm bán đó em đâm nhỏ lén trộn trong cơm, chồng em không dè, nó ăn cơm, nên nó mới bị hại đó. Xin anh đừng lo. Việc em làm đó một mình em biết mà thôi, trong nhà không có ai thấy hết. Còn em tỏ thiệt đây là tỏ với anh, chớ em được trát Tòa đòi hầu rồi, bữa lên Tòa em cũng chối hoài, dại gì mà khai thiệt. Hôm qua chú Thêm khai rằng em bỏ nhà đi hai ba đêm. Tòa hỏi em đi đâu. Em khai rằng em đi thăm cô em đau. Em sợ Tòa đòi cô em mà gạn hỏi, nên hồi chiều em có ghé mà dặn cô em rồi, đặng hễ Tòa có hỏi thì cô em khai cho ăn rập. Vậy việc đó em xin anh đừng lo. Em nói thiệt, vì em thương anh nên em mới thành gái giết chồng. Việc đã lỡ rồi, dầu em phải bị hình-phạt nặng-nề đền thế nào em cũng cam tâm mà chịu một mình; em thề quyết chẳng bao giờ em cho người ta nói tới tên anh trong vụ án-mạng nầy. Em đến đây là vì em muốn nói với anh một chuyện…”
Cô Ðằng nói tới đó thì cô dở vạt áo trước lên, cô mò trong túi mà lấy ra một gói bao bằng giấy nhựt-trình rồi cô đưa thầy Nhãn mà nói rằng: “Xin anh làm ơn cất giùm gói bạc nầy cho em. Ấy là bạc trong tủ sắt, khi chồng em chết rồi, em mở tủ lấy ra giấu đó, được 13 ngàn đồng. Anh cất giùm, nếu Tòa có bắt mà giam em thì xin anh lấy một mớ trong số bạc đó mướn Trạng-sư bào-chữa cho em. Nói cùng mà nghe, ví như em phải bị Tòa kêu án đày em, hoặc chém em, thì bạc còn lại bao nhiêu anh cứ lấy mà xài, chẳng cần phải để dành mà đợi em”.
Thầy Nhãn co tay, né mình, rồi đứng dậy nói rằng: “Không được. Em đã làm cho qua đồng-lõa về tội sát-nhơn, rồi bây giờ em còn muốn cho qua phải đồng-lõa về tội cướp giựt nữa hay sao?”.
Cô Ðằng châu mày ngó thầy, rồi vói muốn níu tay áo thầy.
Thầy xô tay cô rồi bước dan ra.
Cô đứng dậy, ngó ngay thầy, mà nói rằng: “Té ra anh hết thương em rồi! Ðã hết thương mà còn oán em nữa sao?”.
Thầy đứng trơ-trơ không trả lời.
Cô ngồi lại trên ghế, hai tay bụm mặt mà khóc. Cô than nhỏ-nhỏ rằng: “Mấy tháng nay, mỗi lần đôi ta gần nhau, em để ý dòm coi anh đương vui-vẻ dan-díu rồi anh lại ngơ-ngẩn buồn lo, dừng như bóng trăng đang tỏ rạng một lát lại có vừng mây che án vậy. Anh ngơ-ngẩn buồn lo đó là tại anh nhớ tới phận em có chồng. Vừng mây làm cho bóng trăng lu-lờ đó là chồng em. Em muốn cho khỏi có vừng mây ấy nữa, em tính bỏ chồng về ở với anh, anh lại không cho. Em trở về nhà, chồng em lại nói tiếng nặng tiếng nhẹ. Em cuồng trí mà làm việc độc-ác, bây giờ anh thấy em, anh lại ghê-gớm, em biết làm sao! Hi! Bây giờ em mới tin chắc rằng đôi ta không có nhơn-duyên với nhau. Phải, ngày trước anh nói phải lắm. Tại em không nghe lời, nên mới rắc-rối như vầy”.
Cô ngồi cô nói mà nước mắt chảy dầm-dề.
Thầy bước lại ngồi trên cái ghế dựa vách, tay chồng lên trán mà nói rằng: “Bây giờ chẳng nên tính việc chi nữa hết. Phải lo đền tội rồi tu-niệm cho dày công thì hoặc may mới chuộc tội chút đỉnh đặng chăng”.
Cô đáp rằng: “Em xin vưng lời anh, em không dám cãi nữa”.
Cô lấy gói bọc bỏ vào túi, mở khăn lau nước mắt rồi đứng dậy và bước lại cửa và nói rằng: “Em xin từ-giã anh… kiếp khác sum-hiệp cùng nhau”.
Cô rút chốt cửa, rồi cô dục-dặc không chịu mở. Cô đứng ngẫm-nghĩ rồi cô trở lại chỗ thầy ngồi mà nói rằng: “Còn phận em đương có thai nghén đây, anh tính lẽ nào? Em nói thiệt, em có thai đó là dấu tích của anh đa!”
Thầy thở dài mà đáp rằng: “Qua có quyền gì mà can-thiệp vào việc đó cho được. Em nói thì qua tin; nhưng mà dầu con của qua đi nữa, luật cũng không cho qua nhìn biết. Vậy qua xin phú-thác cho em, dầu thế nào cũng phải dạy-dỗ nó cho có đạo-đức viên-mãn đặng nó khỏi sa vào đường mê như đôi ta vậy”.
Cô gặc đầu nói rằng: “Em xin vưng lời…Em sẽ hết lòng lo”. Cô nói dứt lời thì cô quày-quả lại cửa mà đi tuốt.
Thầy ngó theo cô, nước mắt tuôn dầm-dề.
Cách ba ngày sau, cô Ðằng đến hầu quan Thẩm-Án, theo như trát dạy. Quan Thẩm-Án tra hỏi rồi cũng thả cô về, song Thị-Cải với Trần-Thêm cũng còn giam.
Quan Thẩm-Án còn đương đòi hỏi tùm-lùm nhiều người ở chợ Ngã Tư, thì có giấy quan trên đổi thầy thông-ngôn Phan-thanh-Nhãn lên tùng sự Tòa-Án Tây-ninh.
Thầy Nhãn được giấy đổi thì quan Thẩm-Án làm giấy giam cô Ðằng về tôi phục độc-dược mà giết chồng.
Thầy hay tin ấy thì thầy ngẩn-ngơ, bỏ ăn bỏ ngủ. Thầy nghĩ cô Ðằng phạm tội giết chồng thì cô phải chịu hình-phạt mà đền cái tội đại-ác ấy, bởi vì theo lẽ Trời cũng như theo luật người, hễ có vay thì phải trả, không trốn đâu cho khỏi được. Mà cái tội ác của cô Ðằng phạm đây gốc ở nơi mình mà ra.
Tuy mình không xúi cô làm như vậy, nhưng mà mình nhen-nhúm bếp lửa tình trong lòng cô, mình làm cho cô cuồng tâm loạn trí, chẳng còn phân-biệt tội-phước dữ-lành được nữa, nên cô mới dùng thuốc độc mà giết chồng. Ấy vậy tội của cô làm cũng là tội của mình, cô là cái tay làm, còn mình là cái óc khiến, bây giờ ra trả nợ oan-trái ấy, há mình đành trốn lánh hay sao.
Ðã biết cô tự-quyết gánh-vác một mình, đã biết việc mình tư-tình với cô không ai hiểu thấu, nhưng mà dầu người ta không hiểu, chớ Trời Ðất há không biết hay sao? Cái nợ oan-trái nầy mình không thể trốn đâu cho khỏi, trước sau gì mình cũng phải trả phứt cho rồi, dầu bị khổ-hình mà lương-tâm được bình-an, mình hủy cái kiếp lao-đao nầy thì hoặc may kiếp sau mình mới được hoan-lạc.
Thầy nghĩ như vậy rồi thầy nhứt-định ra khai thiệt với Tòa, dầu phải chịu hình-phạt gì thầy cũng cam tâm. Mà khai thiệt là khai những khoản nào? Ra trước mặt Tòa mình nhận rằng hồi nhỏ mình có ước-nguyện làm vợ chồng với cô Ðằng, mấy tháng nay tuy cô Ðằng đã có chồng khác rồi mà mình còn tư-tình với cô, sau đây Bành-Nghiệp đi Sài-gòn cô Ðằng có lên ở tại nhà mình hai đêm. Khai thiệt thì bất quá khai bao nhiêu đó mà thôi, chớ chuyện cô Ðằng phục độc-dược mà giết chồng, mình không hay, mình không xúi, thì mình khai sao được. Dầu cô có đem việc ấy mà tỏ riêng cho mình biết đi nữa, ấy là vì cô nặng chữ tình với mình nên cô không nỡ giấu-giếm. Bây giờ mình đành đem những lời tâm-huyết của cô mà cáo cô hay sao? Chịu tôi của mình thì được, mà cáo cho người khác bị tội thì không nên, mình làm như vậy thì chẳng khác nào mình rửa sạch lương-tâm rồi lại làm cho lương-tâm lem-luốc nữa.
Thầy suy đi xét lại, cân phải gióng quấy trót một đêm, rồi sáng bữa sau thầy vàp phòng qua Thẩm-Án mà tỏ thiệt thầy có tư-tình với cô Ðằng.
Quan Thẩm-Án mới nghe thầy khai thì chưng-hửng. Ngài hỏi một hồi rồi nghi thầy đồng-lõa với cô Ðằng về vụ dùng thuốc độc giết Bành-Nghiệp. Hỏi về khoản đó thì thầy thề-thốt rằng chẳng bao giờ thầy có xúi làm chuyện ác như vậy, mà cô Ðằng có giết chồng hay không thì thầy cũng không hiểu.
Quan Thẩm-Án làm giấy giam thầy Nhãn về tội tình-nghi đồng-lõa với cô Ðằng dùng thuốc độc giết Bành-Nghiệp. Ngài tra hỏi gần ba tháng mà thầy Nhãn cũng cứ khai như bữa đầu. Còn cô Ðằng thì cô có tới hai vị Trạng-sư bào-chữa cho cô; cô cứ khai rằng cô vô tội, có lẽ chồng cô hay cô có ngoại tình nên ghen tương uống thuốc độc mà chết.
Tuy Tòa xét không có bằng cớ, mà cũng không có chứng, song bởi vì thầy Nhãn chịu có tư-tình với cô Ðằng nên Tòa nghi mà giải hết hai người ra Tòa Ðại-Hình: cô Ðằng về tội dùng thuốc độc mà giết chồng, còn thầy Nhãn về tội đồng-lõa.
Bữa Tòa Ðại-Hình xử, thì hai vị Trạng-sư bào-chữa cho cô Ðằng tận tâm, viện đủ lẽ, đọc đủ luật, chịu cô Ðằng có ngoại tình, song kết luận Bành-Nghiệp vì nghe nên uống thuốc độc tự-tử chớ không phải vợ giết.
Tòa lên án tha bổng thầy Nhãn. Còn cô Ðằng tuy không đủ bằng cớ cô dùng thuốc độc mà giết chồng, song hai vị Hội-Ðồng Thẩm-Án An-nam tỏ ý nghi quyết cho cô phạm tội ấy và xin Tòa phải trừng-trị mà răn ác-phụ, nên Tòa kêu án cô 2 năm tù.
Cô Ðằng ngồi nghe Tòa đọc án mà cô không đổi sắc, không tỏ dấu oan-ức. Hai vị Trạng-sư bước lại hỏi dọ coi ý cô muốn chống án về Tây đặng xin phá án hay không, thì cô bình-tĩnh đáp rằng: “Thôi, Tòa xử lẽ nào tôi cũng vưng chịu hết, dầu xử tử tôi cũng không chống án”.
Mãn giờ, lính dắt cô trở xuống khám. Khi ra tới cửa Tòa, cô thấy thầy Nhãn đứng đó thì cô kêu mà nói vói rằng: “Nợ trái-oan kiếp nầy em sẽ trả xong. Em hứa chắc với anh rằng em sẽ tu-niệm đặng kiếp sau đôi ta sum-hiệp.
Thầy Nhãn đứng ngẩn-ngơ.