Chương 11
Tác giả: Jules Verne
Không nghi ngờ gì nữa, đã thấy rõ một con tàu ở hải phận đảo Lincoln! Nhưng nó sẽ đi ngang qua hay tiến gần vào đảo? Hai ba giờ nữa, mọi việc mới rõ ràng.
Cyrus Smith và Harbert gọi ngay Spilett, Pencroff và Nab vào căn phòng lớn của Lâu đài Đá hoa cương và báo tin cho họ biết. Pencroff chộp lấy ống kính viễn vọng, vội vàng nhìn khắp chân trời và phát hiện thấy cái chấm đen ở đúng ngay nơi có vệt mờ trên tấm kính ảnh.
Harbert khiến mọi người bất ngờ.
- Có thể là “Duncan”! – chú kêu lên.
- Cần phải báo ngay cho Ayrton biết và gọi khẩn cấp anh ta về đây. – Gédéon Spilett nhận xét – Chỉ có mình anh ta mới có thể nói cho chúng ta biết chính xác, đó có phải là “Duncan” hay không.
Mọi người tán thành ý kiến của chàng nhà báo, và anh đã đến máy điện báo, gõ những từ sau:
- Hãy về ngay!
Mấy giây sau, chuông trả lời vang lên:
- Tôi đi đây! – Ayrton đáp lại.
Những người ngụ cư lại chú ý nhìn ra tàu.
Bốn giờ chiều, đúng một giờ sau khi được gọi, Ayrton có mặt ở Lâu đài Đá hoa cương.
- Tôi xin sẵn sàng chờ lệnh, thưa các ngài! – anh ta nói khi bước vào phòng.
Cyrus Smith, như mọi khi, chìa tay cho Ayrton và dẫn anh ta lại cửa sổ nói:
- Chúng tôi gọi anh, Ayrton! Có việc quan trọng. Ở khu vực vùng đảo của chúng ta vừa xuất hiện một con tàu.
Thoạt đầu Ayrton hơi tái mặt, và trong đôi mắt anh ta thoáng vẻ lo âu. Anh ta chăm chú nhìn về chân trời, nhưng không thấy gì cả.
- Hãy cầm lấy ống kính viễn vọng. – Gédéon Spilett nói – Và nhìn cho thật kỹ, Ayrton! Có thể đó là “Duncan”, trở lại vùng biển này để đón anh về Tổ quốc.
- “Duncan”! – Ayrton lẩm bẩm – Nhanh thế!
Ayrton cầm lấy ống kính viễn vọng và nhìn theo hướng Spilett chỉ dẫn. Mấy phút liền anh ta đứng bất động, lặng lẽ nhìn về phía chân trời rồi nói:
- Đúng, đó là tàu thật, nhưng không phải “Duncan”.
- Tại sao không phải “Duncan”? – Gédéon Spilett hỏi.
- Tại vì “Duncan” là một tàu buồm chạy bằng hơi nước mà con tàu này dù tôi muốn lắm cũng không phát hiện được một làn khói nhỏ trên tàu lẫn đằng sau tàu.
Vừa lúc ấy, gió thổi tung lá cờ bí ẩn của con tàu lên. Ayrton giằng lấy ống kính viễn vọng từ tay chàng thuỷ thủ vừa bỏ xuống, đưa ngay lên mắt và sau khi nhìn kỹ, anh ta kêu lên bằng một giọng nghẹn ngào:
- Cờ đen!
Quả vậy, trên cột cờ của tàu phần phật bay một mảnh vải đen, và bây giờ những người ngụ cư đã có đủ cơ sở để khẳng định đây là một con tàu rất khả nghi!
Vậy là linh cảm đã không lừa dối viên kỹ sư? Có nghĩa rằng đó là một con tàu của bọn cướp biển? Nó định vào đảo Lincoln để làm gì? Có thể, nó chọn một vùng đất không ai biết đến để làm nơi cất giữ những của báu mà bọn hải tặc đã cướp được? Hoặc là, có thể nó tìm một bến cảng lặng sóng để tránh những trận bão? Lẽ nào cái cơ nghiệp đáng yêu của những người ngụ cư trở thành tổ quỷ đê tiện, hang ổ của bọn hải tặc Thái Bình Dương?
- Không thể chậm một phút nào nữa. Cần đối phó với con tàu lạ này.
- Các bạn, – Cyrus Smith bắt đầu nói – có thể tàu này chỉ muốn quan sát đảo từ xa thôi, đoàn thuỷ thủ của nó sẽ không đổ bộ lên đảo. Ta hi vọng vào điều ấy. Dẫu thế nào thì chúng ta cũng cần phải giấu kín tất cả những gì chứng tỏ sự có mặt của chúng ta trên hòn đảo này. Đập vào mắt rõ nhất là cái cối xay gió đặt trên cao nguyên Tầm nhìn, Ayrton và Nab hãy đi tháo cánh của nó ra. Chúng ta lấy cành cây bịt các cửa sổ Lâu đài Đá hoa cương lại. Cần dập tắt hết lửa đi. Đừng để lộ ra ngoài sự có mặt của con người trên hòn đảo này!
- Còn chiếc tàu của chúng ta? – Harbert hỏi.
- Không sao đâu! – Pencroff trả lời – Nó đã được giấu kín ở cảng Khí cầu. Tôi đảm bảo rằng bọn giết người cướp của này không thấy được nó đâu, em yên tâm đi.
Mệnh lệnh của viên kỹ sư được thi hành ngay. Khi mọi việc chuẩn bị đã xong. Cyrus Smith hướng về phía những người ngụ cư.
- Các bạn, – ông nói, trong giọng của ông lộ sự hồi hộp – nếu những kẻ gian hùng này dám liều mạng tấn công lên đảo Lincoln thì chúng ta sẽ giáng trả chúng một đòn thật thích đáng, có phải thế không?
- Đúng thế, Cyrus! – nhà báo trả lời thay cho tất cả – Và nếu cần thì chúng tôi sẽ hi sinh chiến đấu để bảo vệ hòn đảo của chúng ta.
Viên kỹ sư chìa tay cho các bạn của mình, và mọi người nồng nhiệt đáp lại cái bắt tay của ông. Chỉ riêng Ayrton đứng lặng thinh trong góc phòng. Có thể, anh ta một kẻ phạm tội cũ, cho rằng mình không xứng đáng với cái bắt tay ấy!
Cyrus Smith hiểu điều gì đang xảy ra trong lòng Ayrton, vì vậy ông đến gần anh ta.
- Còn anh, Ayrton! – viên kỹ sư hỏi – Anh định làm gì?
- Làm tròn nghĩa vụ của mình. – Ayrton đáp.*
* * Cyrus Smith và các bạn ông đã sẵn sàng hành động, nhưng họ hết sức thận trọng.
- Chúng có đông người không? Đó là một vấn đề quan trọng. – nhà báo nói – Nếu chúng có trên một chục tên thì chúng ta cân sức, nhưng nếu chúng có bốn mươi, năm mươi tên hoặc hơn, thì…
- Thưa ngài Smith! – bỗng Ayrton lại gần kỹ sư nói – Tôi muốn yêu cầu ngài một điều. Ngài cho phép tôi…
- Cụ thể là gì, anh bạn của tôi?
- Ngài hãy cho phép tôi bơi ra tàu bọn cướp để xem quân số của đoàn thuỷ thủ.
- Nhưng, Ayrton! – viên kỹ sư phản đối – điều đó có nghĩa là anh phải liều mình đấy.
- Thế tại sao lại không, thưa ngài Smith?
- Tại vì anh hành động như vậy là còn cao hơn “làm tròn nghĩa vụ của mình” nữa.
- Thì tôi cũng cần phải làm nhiều hơn nghĩa vụ của mình nữa chứ! – Ayrton trả lời.
- Anh muốn đi ra tàu bằng thuyền à? – Gédéon Spilett hỏi.
- Không, tôi muốn bơi. Người dễ lách qua những nơi mà thuyền không qua được.
- Nhưng tôi nhắc lại là sẽ nguy hiểm cho tính mạng anh đấy. – viên kỹ sư nhận xét – Và anh biết phải bơi hơn một hải lí đó chứ?
- Thì chuyện ấy cũng đâu có sao. – Ayrton nói – Tôi xin ngài cho phép, coi đó như một ân huệ, thừa ngài Smith. Đối với tôi, có thể đây là khả năng duy nhất để lấy lại cho mình lòng tự trọng.
- Thôi được, anh hãy đi đi, Ayrton! – viên kỹ sư nói. Ông hiểu rằng sự từ chối của ông sẽ làm cho kẻ tội phạm đã trở thành người lương thiện đau khổ vô cùng.
- Tôi sẽ đi cùng với anh! – bỗng Pencroff đề nghị.
Chiếc thuyền nhanh chóng cập vào đảo nhỏ, Pencroff nấp vào giữa các vách đá đợi bạn trở về. Trong khi đó Ayrton nhẹ nhàng, thận trọng bơi về phía chiếc tàu. Nửa giờ sau, anh ta tóm được dây cột buồm và leo lên tàu an toàn. Gặp chỗ phơi quần áo của thuỷ thủ anh xỏ luôn một cái và lựa tư thế thuận tiện anh chăm chú theo dõi.
Bọn trên tàu chưa ngủ. Ayrton nghe rõ tiếng chúng hát, hò, cười cợt ầm ĩ. Bỗng mấy lời ngắt quãng lẫn với những tiếng chửi tục đã thu hút sự chú ý của Ayrton.
- Cánh ta kiếm được chiếc tàu thật là tuyệt.
- Ừ, nó chạy không đến nỗi tồi. Gọi nó là tàu “Nhanh” cũng chẳng phải quá đáng!
- Thách cả hạm đội Norfolk đuổi coi!
- Thuyền trưởng Bob Harvey muôn năm!
Ayrton nhớ lại chẳng khó gì cái tên Bob Harvey. Chính hắn đã từng là kẻ đồng loã với anh ta từ hồi ở Australia. Đó là một tên liều lĩnh, bạt mạng. Bọn Harvey đã chiếm đoạt con tàu này ở vùng đảo gần biển Norfolk cùng với toàn bộ hàng hoá, vũ khí, đạn dược, dụng cụ, đồ dùng chuẩn bị chở đến một trong những đảo thuộc Sandwich. Đoàn thuỷ thủ hiện nay của hắn đều là những tên tù khổ sai người Anh vượt ngục ở Norfolk.
Khoảng một giờ sau, khi quá nửa bọn cướp đã ngủ, Ayrton không do dự đột nhập lên boong tàu lúc ấy đèn đã tắt và trời tối như bưng. Anh thận trọng luồn lách giữa bọn cướp, anh đi khắp tàu và xác định được rằng tàu “Nhanh” có bốn khẩu đại bác hiện đại, sử dụng rất thuận tiện và có sức công phá mạnh. Bây giờ Ayrton có thể trở về với một lương tâm trong sáng nhờ hoàn thành công việc trinh sát. Nhưng, một ý nghĩ dũng cảm bỗng thoáng qua đầu Ayrton – anh đã nói với viên kỹ sư rằng anh sẽ làm tròn nghĩa vụ, đúng hơn anh sẽ làm nhiều hơn mức nghĩa vụ đòi hỏi. Phải, anh sẽ hi sinh cuộc đời mình, nhưng hòn đảo và những người ngụ cư phải được cứu thoát.
Ayrton không lưỡng lự nữa. Anh tìm đến kho thuốc súng thường được bố trí ở đuôi tàu chẳng khó khăn gì. Trên một chiếc tàu cướp biển nhất định phải có lượng thuốc súng dự trữ và chỉ cần một tia lửa là đủ làm cho nó nổ tung trong nháy mắt.
Ayrton thận trọng đi xuống căn phòng nối liền với boong tàu, nơi mà bọn cướp biển say rượu nằm li bì. Gần cột buồm chính có ngọn đèn sáng, còn chung quanh là giá để gác các loại vũ khí.
Ayrton lấy một khẩu súng lục, biết chắc chắn là nó đã được nạp đạn. Bây giờ anh có thể thực hiện được kế hoạch huỷ diệt chiếc tàu, và lặng lẽ bò tới đuôi tàu, ở đó, ngay bên phải buồng lái là kho thuốc súng.
Chỉ còn việc phá cửa ra vào, và Ayrton đã cố nhẹ tay không gây lên tiếng động, nhưng hoàn thành việc đó đâu phải dễ dàng, bởi vì anh còn phải bẻ chiếc khoá treo. Tuy nhiên, với đôi tay hùng mạnh của Ayrton chiếc kháo cũng phải khuất phục, và cánh cửa bật mở.
Đúng lúc ấy, một cánh tay nặng nề hạ xuống vai Ayrton.
- Anh làm gì ở đây, hả anh bạn tử tế? – một giọng nói thô bạo phát ra ngay bên tai Ayrton, và một người to lớn cầm cây đèn pin rọi thẳng vào mặt anh.
Bất giác Ayrton lùi lại trước ánh đèn loé sáng. Anh nhận ra đó là tên đồng bọn của mình ngày trước, hắn chính là Bob Harvey. Nhưng Harvey không nhận ra anh, vì hắn tưởng anh đã chết từ lâu rồi.
- Mày làm gì ở đây? – Bob Harvey nhắc lại, túm lấy lưng quần Ayrton.
Ayrton không trả lời, hất mạnh tên đầu sỏ ra. Ayrton lao về phía câu thang dẫn lên boong tàu. Lúc chạy qua chiếc đèn Ayrton dùng báng súng đập vỡ nó đi, boong tàu lại chìm ngập trong bóng đêm, giúp cho việc chạy trốn của anh đỡ khó khăn hơn rất nhiều.
Sau đó, Ayrton nhảy qua mạn tàu và lao xuống biển. Anh bơi chưa được chục mét, một trận mưa đạn đã trút xuống anh, làn nước réo sôi sùng sục.
Pencroff, Cyrus Smith, nhà báo, Harbert và Nab đã trải qua biết bao xúc động khi nghe những tiếng súng vẳng đến tai họ! Họ chụp vũ khí, lao ra bờ, sẵn sàng tinh thần đẩy lùi quân thù.
Họ không hề có chút ảo tưởng nào, Ayrton rõ ràng đã bị sa vào tay bọn cướp và, lẽ dĩ nhiên, đã vĩnh biệt cuộc đời rồi. Có thể là bọn cướp biển đã quyết định lợi dụng ban đêm và sắp sửa đổ bộ lên bờ.
Cuối cùng, vào lúc mười hai giờ rưỡi đêm, con thuyền đã cập bến, trên đó có hai người ngồi. Những người ngụ cư dang rộng vòng tay ôm chặt Ayrton đang bị thương nhẹ ở vai, và Pencroff vẫn sống và nguyên vẹn.*
* * Đêm ấy trôi qua không có biến cố gì. Hòn đảo vẫn êm đềm, tưởng chừng như chiếc tàu cướp biển đã nhổ neo ra khơi.
Nhưng sáng hôm sau, sự việc hoàn toàn ngược lại, qua làn sương ban mai, những người ngụ cư nhìn kỹ vẫn thấy bóng dáng mờ mờ của tàu “Nhanh”.
- Các bạn! Cần chuẩn bị tinh thần chiến đấu. Trước hết phải gây cho bọn cướp ấn tượng là đảo có đông dân và những người dân ở đây biết giáng trả kẻ thù bằng những đòn đích đáng. Bởi vậy, tôi dự kiến lập ba tổ chiến đấu ở ba nơi. Chúng ta đủ súng đạn để đương đầu với chúng. Chỉ cần các bạn bắn liên tục, nhưng phải trúng đích. Mỗi người phải tiêu diệt tám hoặc mười tên trong bọn chúng.
Các vị trí được xếp đặt như sau: Cyrus Smith cùng với Harbert ở lại Hang ngụ cư. Mai phục ở đây họ có thể bắn và khống chế được một phần đáng kể bọn cướp đổ bộ vào khu vực bờ biển dưới chân Lâu đài Đá hoa cương.
Gédéon Spilett cùng với Nab, núp trong các vách đá gần cửa sông Tạ ơn. Tại đây, các loại cầu lớn nhỏ đều được nâng lên. Tổ này đảm bảo không những không cho một chiếc xuồng địch nào vào đảo, mà còn phải ngăn chặn bọn cướp đổ bộ lên bờ bên kia.
Riêng Pencroff cùng với Ayrton trong thời gian đó đã kịp hạ chiếc thuyền xuống nước để bơi sang hòn đảo nhỏ. Tại đây, họ phải chiếm lĩnh hai vị trí cách xa nhau. Khi thấy bị bắn từ bốn phía, bọn cướp sẽ cho rằng đảo có nhiều người và những người trên đảo quyên tâm bảo vệ tự do của mình.
Khi cần thì Pencroff và Ayrton sẽ đánh ngược về, và lập tức tăng cường viện trợ cho khu vực bị đe doạ nhiều nhất.
Trước khi bước vào vị trí chiến đấu những người ngụ cư siết chặt tay nhau lần cuối cùng.
Chăng bao lâu sương mù tan hết và chiếc tàu “Nhanh” hiện rõ dưới ánh mặt trời. Nó nhả hai neo, mũi quay về phía Bắc, mạn trái quay về đảo và tiếp tục im lặng.
Nhưng tám giờ sáng, những người trên đảo nhận thấy trên tàu “Nhanh” có dấu hiệu hoạt động. Các thuỷ thủ dùng palăng hạ một chiếc xuồng xuống nước. Bảy tên ngồi trên đó, tên nào cũng có súng. Một tên ngồi lái, bốn tên chèo, còn hai tên ngồi phía mũi. Chúng khom lưng, tay lăm lăm súng và chăm chú nhìn lên bờ. Nhiệm vụ của chúng rõ ràng là trinh sát đảo, chứ không phải đổ bộ, vì nếu làm như vậy thì tên thuyền trưởng phải phái một đoàn quân đông hơn…
Pencroff và Ayrton từ vị trí quan sát kín đáo của mình trông thấy chiếc xuồng hướng thẳng đến chỗ họ, và họ đợi cho nó đến vừa tầm súng.
Mấy tên chèo xuồng thận trọng di chuyển về phía trước, cố không gây sự chú ý của những người trên đảo. Ayrton thấy rõ một tên cướp ngồi ở mũi xuồng, tay cầm dụng cụ đo độ sâu và định tìm luồng lạch của dòng chảy sông Tạ ơn. Điều đó chứng tỏ rằng tên Bob Harvey muốn đưa tàu của hắn vào gần bờ hơn. Cách đảo nhỏ chưa tới hai cabeltov chiếc xuồng dừng lại. Tên cầm lái đứng thẳng người lên đưa mắt tìm nơi cập bến.
Đúng lúc ấy vang lên hai phát súng. Một làn khói trắng bốc lên trên các mỏm đá. Tên cầm lái và tên thuỷ thủ cầm dụng cụ đo độ sâu đổ xuống đáy xuồng. Những viên đạn do Ayrton và Pencroff bắn cùng một lúc giết chết hai tên cướp biển.
Hầu như ngay lúc ấy vang lên tiếng động khủng khiếp, một cột khói bốc cao trên tàu và một viên đại bác đập vào vách đá nơi mà dưới đó Ayrton và Pencroff đang ẩn nấp. Các mảnh đá văng ra tứ phía nhưng, may sao, các xạ thủ của chúng ta vẫn còn nguyên vẹn…
Một thuỷ thủ khác ngồi thay vào chỗ lái và chiếc xuồng bơi dọc theo bờ, định vòng qua đảo nhỏ ở phía Nam. Chúng cố sức chèo xa tầm dạn. Mặc dù Pencroff và Ayrton thừa biết bọn cướp định tập hậu họ, nhưng họ không rời vị trí chiến đấu, vì không muốn để lộ mục tiêu cho khẩu đại bác của giặc. Mặt khác, họ tin tưởng các bạn của họ bảo vệ được chỗ của mình.
Khoảng hai mươi phút, sau những phát súng đầu tiên, chiếc xuồng bơi về phía cửa sông Tạ ơn được ít nhất hai cabeltov. Vào giờ ấy thuỷ triều bắt đầu lên mạnh vì nơi đây lòng sông hẹp. Nhưng, khi bọn cướp vừa vào đúng tầm súng của trận địa phía cửa sông, chúng bị hai viên đạn phóng tới đón chào. Thế là thêm hai tên cướp nữa bỏ mạng. Nab và Spilett đã bắn rất chính xác.
Bây giờ trên xuồng chỉ còn lại ba tên cướp có khả năng chiến đấu. Xuồng bị dòng thuỷ triều cuốn mạnh nên lướt nhanh khỏi tầm đạn của Cyrus Smith và Harbert. Lát sau đó, nó vòng qua phía bắc đảo và trở lại tàu.
Sau thất bại đầu tiên, bây giờ bọn cướp cho tung ra hai chiếc xuồng khác, một xuồng chở 12 tên đổ bộ vào bờ đảo nhỏ, xuồng kia chở 8 tên định đột nhập vào cửa sông Tạ ơn. Tình hình của Pencroff và Ayrton trở nên hết sức hiểm nghèo, họ hiểu rằng đã đến lúc phải quay trở lại đảo lớn.
Song họ quyết định để cho chiếc xuồng thứ nhất lại gần, nổ hai phát súng làm tiêu hao thêm sinh lực địch, rồi mới lên thuyền của mình bơi qua eo biển, vào nấp trong Hang ngụ cư.
Họ vừa kịp nhập bọn với Cyrus Smith và Harbert thì bọn cướp biển trên xuồng thứ nhất đổ bộ lên bờ đảo nhỏ và bắt đầu sục sạo trên đó. Gần như cùng một lúc vang lên hai phát súng ở cửa sông Tạ ơn, nơi chiếc xuồng thứ hai lao tới rất nhanh. Hai trong số tám tên cướp đã bị Gédéon Spilett và Nab tiêu diệt. Chiếc xuồng đã bị thuỷ triều cuốn xô vào đá ngầm ngay cửa sông và vỡ tan. Sáu tên còn lại giơ cao súng lên đầu cho khỏi ướt và lội sang bờ sông phía bên phải, nhưng sợ bị làm bia đỡ đạn, nên chúng ba chân bốn cẳng chạy ngay về hướng mũi Tìm thấy.
Tình hình bây giờ chưa hẳn đã nguy ngập, trên đảo nhỏ có mười hai tên cướp, một số tên trong đó đã bị thương, nhưng chúng lại có xuồng, còn sáu tên khác đổ bộ lên đảo lớn, nhưng chưa tiến đến Lâu đài Đá hoa cương được, vì chúng bị sông cản đường, còn tất cả các cầu đều bị rút đi.
- Chúng ta sẽ đứng vững được phải không thưa kỹ sư? – Pencroff vừa chạy vào Hang ngụ cư đã hỏi ngay Cyrus Smith.
- Theo tôi, – viên kỹ sư trả lời – cuộc chiến đấu nhất định sẽ bước sang giai đoạn mới, sẽ là vô lí nếu cho rằng bọn cướp biển là những tên ngu ngốc nào đó cứ đổ bộ quân lên bờ trong điều kiện bất lợi như thế đối với chúng. Biết đâu, con tàu sẽ vào gần bờ.
Trong khi ấy, toán cướp biển chiếm được đảo nhỏ đã đã dần dần lội tới bờ đảo trước mặt. Bây giờ chúng chỉ còn cách cái eo biển nữa là tới đảo lớn. Bỗng hai khẩu cacbin của Ayrton va Spilett cùng lên tiếng một lúc. Chắc chắn là ngôn ngữ của họ đã khiến hai tên tội phạm té nhào.
- Các ông ạ! – Ayrton nói, tay nạp đạn vào khẩu cacbin – Tình hình phức tạp rồi, tàu đang nhổ neo.
- Đúng, chúng đang nhổ neo! – Pencroff kêu lên.
- Nó đã bắt đầu chạy! – viên kỹ sư lo lắng.
Thật vậy, trên tàu bọn cướp biển đã kéo buồm lên, và con tàu tiến gần vào đảo.
Cyrus Smith hiểu rõ hiểm hoạ thật là lớn lao, cố vắt óc suy nghĩ để tìm ra một lối thoát trong tình thế hiểm nghèo này. Chỉ còn vài phút nữa thôi, dẫu sao thì ông cũng phải có một quyết định. Nhưng quyết định như thế nào đây? Trước mắt vào trú trong Lâu đài Đá hoa cương đang bị bọn cướp biển bao vây, cầm cự một tuần, một tháng, mà cũng có thể vài tháng, vì lương thực dự trữ thừa đủ.
Trong khi đó, chiếc tàu đã tiến gần đảo nhỏ, có lẽ bọn cướp biển định đổ bộ lên phía nam hòn đảo.
Không thể bỏ lỡ một phút nào nữa, những người ngụ cư lách ra khỏi Hang ngụ cư.
Trong chốc lát họ đã đến chỗ thang máy và lên tới cửa Lâu đài Đá hoa cương. Tại đây, Top và Jup đã bị nhốt trong phòng lớn từ tối hôm qua. Những người ngụ cư hi vọng rằng Lâu đài Đá hoa cương sẽ nguyên vẹn, bởi vì để đề phòng, Cyrus Smith đã ra lệnh phủ kín các cửa sổ bằng cành cây xanh, nhưng bỗng nhiên một quả đạn xé toang cửa ra vào và bay qua hành lang.
Có thể bọn cướp biển không nhìn thấy những người ngụ cư, nhưng, không nghi ngờ gì nữa, Bob Harvey cho rằng cần kịp thời nhả đạn vào bức màn cây xanh nổi bật lên một cách đáng ngờ trên tường đá. Cuộc pháo kích Lâu đài Đá hoa cương đã đã tiếp diễn với mức độ điên cuồng gấp đôi, và chẳng mấy chốc lại thêm một quả đạn nữa xé tan những cành xanh, để lộ một cái lỗ toang hoác trên khối đá hoa cương.
Tình cảnh của những người ngụ cư trở nên tuyệt vọng. Nơi trú ẩn của họ đã bị lộ. Mà họ thì không thể dựng lên những bức tường ngăn chặn đại bác, thậm chí họ không tránh nổi những mảnh đá hoa cương bay xối xả quanh họ. Chỉ có một cách là ẩn núp ở hành lang thượng của Lâu đài Đá hoa cương, rồi tìm cách rời khỏi nơi ở của mình, phó mặc tính mạng và hòn đảo cho số phận.
Bỗng từ phía biển, một tiếng “Ầm” vang lên và tiếp theo đó là những tiếng kêu tuyệt vọng của bọn cướp.
Cyrus Smith và những người bạn của ông ta lao đến cửa sổ. Một cột nước lớn giống như một vòi rồng với sức mạnh chưa từng thấy đã nhấc bổng con tàu bị vỡ làm đôi lên, và độ mười giây sau, những đợt sóng đã nuốt chửng con tàu và đoàn thuỷ thủ.