Một cung điện trên dãy Tuyết Sơn
Tác giả: Không rõ
Gặp gỡ giữa Lahiri Mahâsaya và Babâji là một truyện thần tiên, một huyền thoại phàm thật xứng đáng với tác phong của vị Tôn sư bất tử.
Chính bởi những lời này mà tu sĩ Kebalâ bắt đầu câu chuyện tường thuật của ông. Lần đầu tiên tôi nghe câu chuyện này, tôi đã thật sự giật mình vì kinh ngạc. Sau đó, tôi đã nhiều lần yêu cầu tu sĩ, thầy dạy Phạn ngữ của tôi, hãy lập lại cho tôi nghe câu chuyện ấy, mà về sau Sri Yukteswar đã kể lại cho tôi nghe cũng đại khái giống y như thế. Hai vị đều là đệ tử của đức Lahiri Mahâsaya, và đều đã được nghe Tôn sư trực tiếp kể lại câu chuyện ấy. Đức Lahiri Mahâsaya thuật chuyện như sau:
- Cuộc gặp gỡ lần đầu tiên của tôi ới đức Babâji xảy ra hồi năm tôi ba mươi ba tuổi. Mùa thu năm 1861, tôi đang làm kế toán viên của sở Hành chánh quân đội Anh ở Danapar. Một buổi sáng, ông trưởng phòng cho mời tôi đến và nói:
- Lahiri, chúng tôi vừa nhận được một bức điện tín của văn phòng Trung ương. Anh sẽ được thuyên chuyển đi Ranikhet, tại đây tiền đồn quân sự vừa mới được thiết lập.
Tôi bèn cùng với một người gia nô bắt đầu một chuyến viễn du dài năm trăm dặm đường. Khi thì đi ngựa, khi đi xe, sau một tháng trường chúng tôi đã đến Ranikhet, dưới chân dãy núi Tuyết Sơn. Công việc của tôi tại đây cũng nhàn, nên tôi có nhiều thời giờ rảnh để đi chơi trên núi. Người ta đồn rằng vùng này được thánh hóa bởi sự hiện diện của nhiều bậc hiền giả, chân tu đã đắc Đạo. Tôi cảm thấy một sự mong ước mãnh liệt là được gặp các ngài. Một buổi chiều, trong một chuyến đi ngao du trên núi, tôi ngạc nhiên mà nghe thấy có một giọng nói từ đàng xa gọi tên tôi. Tôi đang cố gắng leo lên sườn núi cheo leo như vách của ngọn núi Drongiri, và hơi e ngại rằng có thể tôi không kịp về nhà trước khi trời tối. Sau cùng, tôi đến một khoảng trống và hẹp giữa hai bên vách núi có những hang động thâm u, ở trước một hang động này tôi thấy một dị nhân gương mặt trẻ như một thanh niên, vừa mỉm cười vừa đưa một tay vẫy tôi như một cử chỉ đón tiếp. Tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy người ấy giống tôi như đúc, chỉ trừ ra mái tóc của người như màu đồng đó.
- Lahiri, con đây rồi!
Dị nhân nói với tôi một cách trìu mến bằng tiếng thổ ngữ Bắc Ấn.
- Con hãy nghỉ ngơi trong động này. Chính ta đã gọi con đến đây.
Tôi bước vào động và nhìn thấy có những nệm, chăn bông và vài cái bình bát khất thực.
- Lahiri, con có nhớ chỗ ngồi này không?
Dị nhân vừa nói vừa chỉ một nệm vuông ở một góc.
- Bạch ngài, tôi không nhớ.
Hơi ngạc nhiên vì cuộc gặp gỡ lạ lùng này, tôi nói thêm:
- Bây giờ, tôi phải trở về trước khi trời tối. Sáng mai, tôi còn phải có mặt tại sở làm!
Dị nhân nói một câu bằng tiếng Anh rất trôi chảy:
- Sở làm được tạo ra cho con, chứ không phải con được tạo ra cho sở làm!
Tôi lấy làm king ngạc mà thấy dị nhân không những nói được tiếng Anh, mà còn chú thích cả lời nói của đấng Christ: "Ngày lễ Chúa Nhật được đặt ra cho con người, chứ không phải con người được sinh ra cho cuộc lễ ngày Chúa Nhật" (marc, II:27).
- Ta thấy rằng bức điện tín của ta đã có hiệu quả.
Câu nói đó đối với tôi là một điều bí hiểm. Tôi xin dị nhân giải thích rõ. Người đáp:
- Ta nói về bức điện tín nó đã kêu gọi con đến nơi thị trấn hẻo lánh này. Chính ta đã dùng thần giao cách cảm để gợi ý cho thượng cấp của con thuyên chuyển con đến Tanikhet. Đối với người nào đã đạt tới sự hợp nhất tâm linh với toàn thể nhân loại, thì tất cả những linh hồn đều là những trạm thu thanh vô tuyến sẵn sàng tiếp nhận mệnh lệnh của y.
Dị nhân nói thêm với tấm lòng ưu ái:
- Lahiri, chắc hẳn con đã từng quen thuộc với chốn hang động này?
Tôi còn đang hoang mang trong sự thầm lặng, dị nhân bèn bước đến gần và vỗ nhẹ một cái trên trán tôi. Ngay khi đó, một luồng từ điện chạy xuyên qua óc tôi, làm cho tôi nhớ lại những kỷ niệm đã bị che lấp về tiền kiếp của tôi.
- À, con nhớ ra rồi!
Giọng nói tôi đứt quảng vì xúc động, xen lẫn với những giọt lệ sung sướng:
- Ngài tức là Babâji, Sư phụ con! Cũng như tự thuở nào!
Những hình ảnh của quá khứ diễn ra rõ ràng trong trí tôi! Chính tại đây, trong động núi thâm u này, tôi đã từng sống trong nhiều năm trải qua nhiều tiền kiếp! Những kỷ niệm đó mỗi lúc càng hiển hiện ra trong ký ức tôi, tôi bèn cúi xuống hôn hai bàn chân của sư phụ thiêng liêng...
- Ta đã đợi con ở đây từ trên ba mươi năm nay, ta hy vọng con sẽ trở lại!
Một tình thương bao la biểu lộ trong giọng nói của Babâji:
- Con đã từ biệt ta, và biến mất dạng giữa những cảnh giới bên kia cửa Tử. Sự hành động của nghiệp quả mầu nhiệm như chiếc đũa thần, đã khiến cho con từ giã cõi trần, và con đã biến mất. Tầm nhãn quang của con không còn nhìn thấy ta nữa, nhưng còn ta, thì trái lại, không khi nào! Ta đã theo dõi con trên những làn sóng hào quang dập dồn của biển trung giới, là nơi mà các vị thiên thần bay lương thung dung. Xuyên qua bóng tối dày đặc, xuyên qua bão bùng, mưa gió, ánh sáng, ta đã theo dõi con như một người mẹ tìm con. Khi con đầu thai vào lòng mẹ trong kiếp này, ta đã chú ý đến con. Khi còn nhỏ, con tập ngồi thiền trong tư thế liên hoa, ta đã có mặt một bên, tuy rằng vô hình vô ảnh. Trải qua bao nhiêu năm tháng dập dồn, ta luôn luôn để ý theo dõi con, và trông đợi đến ngày tốt lành mà con sẽ trở lại sống gần bên ta. Đây là cái động đá thân yêu của con khi xưa. Ta vẫn giữ nó được sạch sẽ, sẵn sàng tiếp đón ngày con trở về. Đây là tấm nệm con vẫn ngồi thiền định. Kìa, con hãy nhìn xem, đây là cái bình bát khất thực, trong đó con đã bao lần uống cạn nước cam lồ mà ta rót cho con. Con có nhận thấy chăng nó vẫn trơn tru, bóng láng, sáng chói, chờ đợi đến ngày nó sẽ phục vụ con như thuở nào. Con hỡi, bây giờ con đã hiểu chưa?
- Bạch sư phụ, con còn biết nói gì hơn? Tôi nói thì thầm, giọng nói đứt đoạn vì xúc động, Chưa bao giờ con được nghe nói đến một thứ tình thương sâu rộng bao la như thế, tình ấy còn mạnh hơn cả bất cứ một mãnh lực nào trên thế gian này!
Tôi rơi vào một trạng thái say sưa ngây ngất trong một lúc rất lâu, và chiêm ngưỡng đức sư phụ mến yêu của tôi, thầy của tôi trong cõi sống và cả trong cõi chết.
- Lahiri, con phải tinh luyện xác thân con. Con hãy uống chất dầu đựng trong cái chén này, rồi đi ra tắm rửa dưới giòng sông ở trước mặt.
Tôi thầm nghĩ:
- Sư minh triết của Babâji cũng vẫn như độ nào!
Tôi bèn tuân theo các chỉ thị đó. Tuy rằng đêm lạnh như băng của vùng Tuyết sơn đã đến, một nhiệt độ tốt lành, dễ chịu, phát sinh từ những rung động thầm kín bên trong nội tâm, đã thấm nhuần khắp cả những tế bào trong thân thể tôi. Hay là chất dầu mà tôi vừa uống đã đem lại sự công hiệu nhiệm mầu?
Một ngọn gió lạnh như cắt thổi rít lên chung quanh tôi, và tung hoành như vũ bão trong đêm tối. Những ngọn sóng nhấp nhô của con sông Gogash lạnh như băng đập vàp mình tôi, trong khi tôi bám chặt lấy những tảng đá lớn. Những tiếng gầm thét của chúa sơn lâm vang dội gần bên, nhưng lòng tôi không cảm thấy sợ sệt, một nguồn thần lực vô hình xâm chiếm lấy tôi và đem cho tôi một sự dũng cảm phi thường không thể lay chuyển. Thời gian trôi qua rất mau. Những kỷ niệm xa vời của một tiền kiếp trở lại dồn dập trong trí tôi, xen lẫn với niềm hạnh phúc vừa được gặp lại vị sư phụ thiêng liêng của tôi.
Thình lình, giữa cơn vắng lặng của núi rừng tôi nghe có tiếng chân người bước đến gần. Trong bóng tối, một bàn tay ưu ái đỡ tôi đứng dậy và cầm đưa cho tôi một bộ áo quần khô ráo.
- Sư huynh hãy trở về động. Sư phụ đang chờ đấy!
Người ấy đưa đường cho tôi xuyên qua rừng. Từ đàng xa, một ánh sáng rực rỡ chọc thủng màn đêm u tối một cách đột ngột. Ngạc nhiên, tôi hỏi:
- Trời đã sáng rồi chăng? Sao mà mau lắm vậy, vì tôi tưởng là đêm hãy còn lâu mới hết!
- Mới vừa nửa đêm thôi, sư huynh ạ.
Người hướng dẫn tôi mỉm cười:
- Ánh sáng đó toát ra từ một tòa cung điện bằng vàng khối mà đức sư phụ toàn năng vừa tạo ra. Trong một tiền kiếp, sư huynh đã bày tỏ lòng mong ước có một tòa lâu đài bằng vàng. Sư phụ đã làm thỏa mãn điều ước vọng đó để cho sư huynh giải tỏa khỏi sợi dậy trói buộc của nghiệp quả.
(Luật nhân quả định rằng mọi điều ước vọng của con người rốt cuộc sẽ được thực hiện. Bởi đó, mọi điều ham muốn, dục vọng là sợi dây trói buộc con người vào vòng luân hồi sinh tử)
Người lại nói thêm:
- Tòa cung điện này sẽ là nơi sư huynh làm lễ nhập môn theo đạo pháp Kriyâ Yoga. Tất cả các huynh đệ đều vui mừng chào đón sư huynh sau một thời gian vắng mặt lâu dài. Kìa, sư huynh hãy nhìn xem!
Một tòa cung điện nguy nga đồ sộ bằng vàng chói sáng rực rỡ hiện ra trước mắt tôi. Lâu đài có cẩn muôn nghìn viên ngọc quý đủ màu, và dựng lên giữa một khung cảnh vườn tược rộng rãi, cây cối sầm uất, thật là một cảnh tượng có một không hai trên thế gian này. Những vị tu sĩ thánh đức, gương mặt hiền hòa, đứng túc trực nơi các cửa vàng có chạm những viên ngọc lưu ly màu đỏ thắm chói lòa. Các cổng ngoài, cửa trong, và khung cửa lớn, cửa nhỏ, thảy đều cẩn ngọc trai, trân châu, kim cương, ngọc bích, ngọc thạch... huy hoàng, lộng lẫy, sang trọng vô cùng.
Tôi đi theo người hướng dẫn viên vào tòa sảnh đường. Một mùi hương trầm và mùi thơm của hoa hường đượm trong không khí, hàng nghìn ngọn hoa đăng muôn màu nghìn sắc chiếu một ánh sáng nhạt mờ huyền ảo. Từng nhóm tu sĩ hoặc môn đồ da trắng hoặc nâu sậm, ngồi rải rác đó đây, hoặc hát thánh ca, hoặc ngồi thiền theo tư thế liên hoa, đắm chìm trong cơn yên tĩnh của nội tâm. Một niềm vui tươi phảng phất trong không khí. Ngươi hướng dẫn viên mỉm cười một cách thân tình với tôi, trong khi tôi thốt ra những tiếng kêu ngạc nhiên và thán phục. Y nói:
- Sư huynh hãy chiêm ngưỡng cho thỏa lòng sự huy hoàng lộng lẫy của tòa lâu đài này, vì nó được tạo lập nên để chào mừng sư huynh đấy!
Tôi đáp:
- Sư huynh hỡi, những công trình kiến trúc nguy nga tráng lệ này thật là vượt khỏi sự tưởng tượng của con người. Xin sư huynh hãy vui lòng tiết lộ cho biết sự bí mật về nguồn gốc của nó.
- Tôi xin sẵn lòng!
Một tia minh triết chiếu sáng trong cặp mắt người bạn đồng môn của tôi, người bắt đầu nói:
- Trong cõi thiên nhiên, không có gì là khó giải thích. Toàn thể vũ trụ chỉ là sự kết tinh tư tưởng của đấng Tạo Hóa. Chính quả địa cầu này cũng là sự thể hiện cái giấc mơ của đấng Hóa Công. Ngài sáng tạo mọi vật từ trong ý thức hệ của ngài, cũng y như con người lập lại trong giấc ngủ những gì y đã thấy thật sự trong khi thức tỉnh.
Lúc khởi thủy, Thượng đế sáng tạo nên trời đất bằng cách phác họa hình ảnh vũ trụ trong trí của ngài, kế đó ngài mới kết tinh lại thành hình: những nguyên tử tinh lực mới phát sinh và kết cấu lại thành những quả tinh cầm đông đặc. Tất cả những phân tử hóa chất đều kết hợp lại do bởi Ý chí thiêng liêng. Khi thượng đế rút lại cái Ý Chí đó, quả địa cầu lại tan rã thành tin lực vô hình vô ảnh, và thậm chí đến tinh lực này cũng tan biến để hoàn nguyên trở lại thành ý thức của Thượng đế. Chừng đó, quả địa cầu dưới hình thức một ý nghĩ cũa Thượng đế, đã mất hẳn sự tồn tại của nó trong không gian.
Nhờ hợp nhất làm một với Ý chí sáng tạo thiêng liêng, đức Babâji có cái quyền năng kết cấu, phối hợp những nguyên tử vật chất lại thành vô số hình thể biến hóa đến vô cùng tận. Tòa cung điện bằng vàng khối này, được dựïng lên trong nháy mắt, cũng có thật như quả địa cầu của chúng ta đây. Sư phụ đã phác họa sẵn trong trí cái hình ảnh tòa lâu đài bằng vàng và dùng quyền năng của ý chí kết tinh các nguyên tử vật chất trong không gian theo kiểu mẫu cái khuôn đã đúc sẵn trong trí để cho nó thể hiện ra thành sự thật. Điều này cũng giống y như khi Thượng Đế sáng tạo nên Trời đất và các bầu thế giới, và duy trì các quả tinh cầu thành hình trong một thời gian nhất định.
Người bạn tôi nói thêm:
- Khi tòa lâu đài đã thực hiện xong vai trò của nó, Babâji sẽ làm cho nó tan rã và trở về kho tinh lực vật chất trong thiên nhiên.
Tôi lặng người vì ngạc nhiên trước sự mầu nhiệm đó, người bạn tôi nói tiếp:
- Tòa cung điện nguy nga lát vàng cẩn ngọc này không phải xây dựng nên bằng sức lao động. Người đã đạt tới cái quả vị thiêng liêng cao quý như Babâji có thể thực hiện bất cứ việc nhiệm mầu nào do bởi nguồn thần lực vô biên ẩn tàng trong Chân Ngã của Ngài. Một cục đá có tiềm năng chứa đựng cả một kho nguyên tử lực vô tận. Chính cũng bởi đó mà một người phàm có cái tiềm lực hàm xúc một quyền năng vô biên: ấy là nguồn gốc thiêng liêng ẩn tàng của y.
Vị tu sĩ day qua một bàn gần bên và cầm lấy một lọ lộc bình rất quý, cái quai có cẩn kim cương lóng lánh, và nói tiếp:
- Sư phụ đã tạo nên tòa cung điện này bằng hằng hà sa số những vũ trụ tuyến đã kết tinh đông đặc lại. Sư huynh hãy cầm cái lộc bình này, hãy sờ mó những hột kim cương này để nhận xét rằng đó là sự thật chứ không phải ảo ảnh.
Tôi quan sát lọ lộc bình, và đưa tay tay sờ lên vách tường đúc bằng vàng khối! Một sự thỏa mãn thâm trầm đã tràn ngập cõi lòng tôi: một ước vọng thầm kín chôn chặt dưới đáy lòng từ bao nhiêu kiếp trở về trước, nay vừa mới được thực hiện!
Xuyên qua những cánh cửa chạm trổ tinh vi, những hành lang dài thăm thẳm, những gian phòng trang hoàng lộng lẫy theo một cách điệu sang trọng của bậc đế vương, vị tu sĩ đưa tôi vào một nơi cung thất to rộng vô cùng. Nơi chính giữa, có đặt một chiếc ngai vàng cẩn ngọc chớp sáng loè muôn màu nghìn sắc. Trên ngai vàng, đức Babâji ngồi tĩnh tọa trên thế liên hoa. Tôi bèn cúi đầu làm lễ dưới chân ngài trên sàn gạch đánh bóng. Sư phụ cất tiếng hỏi:
- Lahari, con vẫn còn nuôi cái mộng sở hữu một cung vàng điện ngọc nữa chăng?
Đôi mắt của sư phụ chiếu sáng như những viên ngọc quý trong cung điện.
- Con hãy thức tỉnh. Tất cả những dục vọng trần gian của con nay đã gần phủi sạch!
Sư phụ bèn thì thầm một câu châm ngôn bí mật. Kế đó người nói:
- Con hãy đứng dậy để làm lễ nhập môn vào cõi giới của Thượng Đế do đạo pháp Kriyâ Yoga.
Babâji đưa hai tay ra trước một bàn thờ: một ngọn lửa hy sinh (homa) xuất hiện một cách mầu nhiệm, giữa những bông hoa và trái cây. Tôi bèn làm lễ thụ pháp giải thoát của pháp môn Yoga trước bàn thờ khói hương nghi ngút.
Lúc trời hừng sáng, cuộc lễ đã chấm dứt. Không cảm thấy buồn ngủ chút nào, tôi đi dạo thẩn thơ trong cung điện và ngắm nhìn những đồ mỹ nghệ quý giá cùng những kho tàng bảo vật, chỉ có trong những truyện huyền thoại hoang đường. Trong những khu vườn hoa đẹp như bồng lai tiên cảnh, tôi nhìn thấy những khối đá tảng của hang núi: mới ngày hôm qua đây, chưa có một tòa lâu đài nào ở vùng chung quanh.
Trở về cung thất, chiếu rạng ngời những ánh vàng lộng lẫy trước những tia nắng bình minh, tôi đưa mắt nhìn quanh để tìm sư phụ. Người vẫn ngồi tĩnh tọa trên ngai, giữa bầu không khí yên lặng có các vị đệ tử đứng vây chung. Kế đó, Babâji nói:
- Lahiri, chắc con đã đói bụng. Con hãy nhắm mắt lại.
Khi tôi mở mắt ra, tòa lâu đài cung điện và những cảnh hoa viên xinh đẹp như mộng đã biến mắt! Babâji, các đệ tử và tôi thảy đều ngồi dưới đất, ở ngay chỗ tọa lạc của tòa lâu đài khi nãy, cách hang động của Sư phụ không xa. Tôi mới nhớ lại lời nói của vị hướng dẫn tôi từ lúc đầu rằng tòa cung điện sẽ được giải thể (làm cho tan rã, dématérialiser) sau khi đã hoàn thành sứ mạng của nó, những nguyên tử kết hợp sẽ được giải tỏa và tiêu tan trong kho tinh lực của trời đất. Kinh ngạc vô cùng, nhưng tôi nhìn sư phụ một cách tin tưởng, và tự hỏi không biết ngày ấy sẽ còn dành cho tôi những sự bất ngờ nào nữa chăng. Babâji giải thích:
- Mục đích việc thiết lập nên tòa cung điện này đã đạt được.
Ngài lấy một chén lớn bằng đất đưa cho tôi và nói:
- Con hãy cầm lấy cái chén này và con sẽ có đủ những vật thực mà con muốn ăn.
Khi tôi vừa cầm lấy cái chén lớn, nó liền chứa đầy những khoanh bánh bột mì chiên bơ, cari, và những cao lương mỹ vị khác. Tôi ăn ngon lành, và nhận thấy rằng cái chén không bao giờ cạn thức ăn. Khi đã ăn no, tôi mới đi tìm nước uống. Sư phụ chỉ cái chén mà tôi vừa dùng xong, và thức ăn được thay thế bằng nước suối mát trong lành. Babâji nói:
- Người thế gian ít ai ngờ rằng. Cõi trời là cõi mà mọi điều ước vọng đều được thỏa mãn. Cõi ấy cũng nới rộng đến quả địa cầu này, tuy rằng thế gian chỉ là hư ảo và không có gì chân thật.
- Bạch sư phụ, đêm nay Sư đã đưa con vào một lãnh vực tuy ở cõi thế nhưng lại rất gần với Cõi trời!
Tôi mỉm cười mà nhớ đến lâu đài thần diệu, có người tu sĩ nào lại làm lễ nhập môn học Đạo ở giữa một khung cảnh cực kỳ xa hoa lộng lẫy như thế? Từ này tôi có thế chiêm ngưỡng trong yên lặng cái khung cảnh một mạc giản dị, tương phản một cách rõ rệt với tòa cung điện lúc nãy. Núi rừng, hang động, suối chảy, thông reo, tất cả đều hợp thành một nơi cư ngụ lý tưởng cho những tu sĩ đang ở chung quanh tôi.
Ngày hôm ấy, tôi đắm chìm trong những cơn thiền định, và những sở đắc tâm linh mà tôi đã thực hiện trong những tiền kiếp đã trở lại với tôi. Sư phụ bước đến gần đưa bàn tay đặt nhẹ lên đỉnh đầu tôi, và tôi liền lọt vào cơn đại định nirvikalpa samadhi, trạng thái ấy tiếp tục kéo dài suốt bảy ngày không dứt. Trong trạng thái đó, tôi đã vượt qua các lớp chướng ngại để thực hiện Chân Ngã, tôi đã vượt qua ngưỡng cửa của cõi giới siêu linh để bước vào cõi Đạo diệu huyền. Những bức màn ảo ảnh, những tham vọng phù du giả tạm thảy đềy lần lượt tiêu tan. Linh hồn tôi đã bước vào cõi Vô cùng và hợp nhất làm một với Chân Như Đại Ngã, tức Đại Hồn của Vũ Trụ. Bắt đầu qua ngày thứ tám, tôi quỳ dưới chân Sư phụ và cần xin ngài hãy giữ tôi lại một bên ngài mãi, giữa chốn núi rừng cô tịch. Sư phụ ôm lấy tôi một cách rất mến yêu và nói:
- Con hỡi, trong kiếp này, con phải đóng vai trò của con trên sân khấu của cuộc đời thế tục. Con đã được thánh hóa nhờ công phu tu luyện mà con đã thực hành trong bao nhiêu tiền kiếp, bây giờ con phải sống lẫn lộn với người thế gian.
Sự kiện rằng con chỉ gặp ta sau khi đã lập gia đình và có một chức vụ khiêm tốn, có hàm xúc một ý nghĩa xâu xa. Con phải từ bỏ hy vọng gia nhập với nhóm đệ tử của ta trên dãy Tuyết Sơn. Vai trò của con sẽ sống chung lộn với người đời, để nêu một tấm gương cao quý về những sở đắc tâm linh mà một người gia trưởng sống ngoài thế gian có thể đạt được nhờ thực hành pháp môn Yoga.
Thượng Đế không hề làm ngơ trước những lời cầu nguyện thiết tha của những kẻ khát khao tìm đạo và còn sống ngoài thế tục. Con đã được chọn lựa để phổ biến đạo pháp Kriyâ Yoga trong quần chúng. Những kẻ có trách nhiệm gia đình và những bổn phận hằng ngày sẽ nhận được giáo lý ấy dễ dàng hơn ở nơi con, vì con cũng ở vào một hoàn cảnh giống như họ. Vai trò của con sẽ là nêu một tấm gương sống động để chứng minh rằng những thành quả tối cao của sự thực hành đạo pháp Yoga không phải là hạn chế đối với những người còn có trách nhiệm gia đình. Dẫu cho sống ngoài thế gian, người hành giả làm tròn các bổn phận mình một cách vị tha, vô kỷ, chắc chắn sẽ đạt tới sự giác ngộ tâm linh.
Từ này, không có gì bắt buộc con phải từ bỏ thế gian, vì con đã cắt đứt mọi sợi dây trói buộc của nghiệp quả. Tuy sống trong trần thế, nhưng con không còn hệ lụy cõi trần. Con còn phải trải qua nhiều năm dành cho những bổn phận gia đình, xã hội và tâm linh. Niềm hy vọng thiêng liêng từ nay sẽ thức động những tâm hồn đau khổ của người đời đang sống trong thế kỷ này. Cuộc đời hoàn toàn sống theo kỷ luật tâm linh của con sẽ giúp cho họ hiểu rằng sự giải thoát là tùy nơi những sự dứt bỏ thâm sâu từ bên trong, chứ không phải từ bên ngoài.
Gia đình, sở làm, toàn cõi thế gian đối với tôi lúc ấy có vẻ xa với biết bao nhiêu trong khi tôi lắng nghe những lời dạy đó của Sư phụ tôi trong vùng Tuyết Sơn hẻo lánh hoang vu. Tuy nhiên, chân lý đã do cửa miệng của ngài thoát ra, hang động yên tịnh này. Đức Babâji bèn dạy cho tôi biết những luật lệ cổ xưa và bất biến về việc truyền pháp Yoga giữa Tôn sư và đệ tử. Sư phụ nói:
- Con chỉ nên truyền bí thuật Kriyâ Yoga cho những môn đệ xứng đáng. Người nào sẵn sàng từ bỏ và hy sinh tất cả để tìm đạo, mới thật xứng đáng được truyền thụ những bí pháp giúp cho y thâu triệt được vấn đề sinh tử bằng cách tham thiền.
- Bạch sư phụ, sư phụ đã ban cho thế gian bằng cách phụ hồi đạo pháp Kriyâ Yoga đã bị mất đi trong quên lãng, thì nay cũng xin Sư phụ hãy mở lượng từ bi mà làm dịu bớt những luật lệt khắt khe về việc chọn lọc đệ tử.
Tôi nhìn Babâji với đôi mắt khẩn cầu:
- Con xin sư phụ cho phép cho truyền pháp Kriyâ Yoga cho tất cả những kẻ tầm Đạo, dẫu rằng họ vẫn chưa sẵn sàng đạt tới sự dứt bỏ hoàn toàn từ bên trong. Người thế gian, cả nam lẫn nữ, đều đang bị dày vò trong đau khổ cả thể chất lẫn tinh thần, phải cần được nâng đỡ và khuyến khích. Họ sẽ không bao giờ tìm thấy chính đạo nếu họ bị từ chối không được truyền thụ Đạo Pháp Kriyâ Yoga.
- Ta chuẩn y lời cần xin đó. Thiên Ý được biểu lộ qua cửa miệng của con.
Bằng những lời đó, sư phụ đã đánh đổ những bức rào ngăn cách từ muôn đời vẫn che dấu đạo pháp Kriyâ Yoga trước mắt người thế gian.
- Con hãy truyền pháp Kriyâ cho tất cả những người tầm Đạo với tấm lòng khiêm tốn.
Sau một lúc im lặng, Babâji nói tiếp:
- Con hãy lập lại cho mỗi đệ tử lời hứa hẹn này trong kinh Bhagavad Gita: "Dẫu chỉ có một ít biết về pháp môn này cũng đủ giúp cho ta tránh được nhiều nỗi đau khổ rất lớn".
Sáng ngày hôm sau, khi tôi làm lễ kiếu từ Sư phụ để xin ngài ban ân huệ trước khi lên đường, ngài cảm thấy nỗi thất vọng buồn rầu của tôi phải từ giã ngài ra đi. Ngài nói,
- Sự biệt ly vốn không có giữa chúng ta, con ạ! Dầu cho con ở nơi nào, con chỉ cần gọi đến ta là ta sẽ xuất hiện ngay tức khắc.
Được an ủi bởi lời hứa hẹn huyền diệu đó, tôi lên đường trở về nhà. Về đến sợ làm sau mười mấy ngày vắng mặt, tôi được các bạn đồng nghiệp đón tiếp nồng nàn vì họ tưởng rằng tôi đã đi lạc vào núi trên dãy Tuyết Sơn. Kế đó, tôi nhận được một bức thơ của viên trưởng phòng. Trong thơ nói rằng: "Lahiri phải trở về văn phòng Hành Chánh ở Danapur. Việc thuyên chuyển y đến Ranikhet là một sự sai lầm. Một nhân viên khác sẽ được gửi đến Ranikhet để thay thế cho y".
Sự "sai lầm" nó đã đưa tôi lên tận dãy Tuyết Sơn, làm cho tôi mỉm cười. Trước khi trở về Danapur, tôi đến tạm trú vài ngày tại nhà của một gia đình quen thuộc ở Moradabad. Tại đây, có sáu người bạn hữu đến thăm tôi. Trong khi tôi hướng câu chuyện đến những vấn đề tâm linh người chủ nhà tỏ ý buồn rầu và nói:
- Than ôi! Các vị Chân sư của Ấn Độ ngày nay đã biến mất không còn nữa!
Tôi phản đối mãnh liệt để cải chính:
- Thưa ông, các vị chân sư vẫn còn thánh hóa xứ sở chúng ta bởi gót chân của các ngài!
Trong cơn hứng khởi tôi cảm thấy cần thuật lại kinh nghiệm độc đáo của tôi vừa rồi trên dãy Tuyết Sơn. Các bạn tôi tỏ vẻ hoài nghi, nhưng chỉ lễ phép mỉm cười. Một bạn bèn kết luận:
- Lahiri, có lẽ không khí miền sơ cước đã làm cho bạn say sưa ngây ngất, và chắc là bạn đã có một cơn mơ!
Vì muốn làm sáng tỏ sự thật, tôi đáp không do dự:
- Sư phụ tôi sẽ xuất hiên tại ngay chỗ này, bằng xương bằng thịt, để đáp lại lời kêu gọi của tôi!
Lần này, tôi đã làm cho họ chú ý, thật không phải là một chuyện lạ nếu mỗi người đều mong muốn chiêm ngưỡng một vị thánh nhân hiện hình ra một cách bất ngờ như thế. Tôi yêu cầu chủ nhà sắp đặt cho tôi một gian phòng và hai tấm nệm mới. Tôi nói:
- Sư phụ tôi sẽ xuất hiện từ không gian. Các bạn hãy đứng im lặng phía sau cánh cửa, trong chốc lát tôi sẽ mời các bạn vào.
Tôi bèn ngồi tĩnh tọa nhập thiền, và kêu gọi sư phụ tôi bằng tư tưởng. Trong giây lát, một ánh sáng huyền ảo và êm dịu như ánh trăng le lói trong gian phòng, và hình dáng đức Babâji từ từ xuất hiện.
- Lahiri, tại sao con lại kêu gọi đến ta vì một mục đích nhỏ mọn, vô nghĩa?
Cặp mắt sư phụ được một vẻ nghiêm khắc.
- Chân lý chỉ đến với những kẻ thật lòng tìm đạo, chứ không phải để cho những kẻ tò mò. Thật rất dễ mà tin tưởng nơi những điều tai nghe mắt thấy, vì chừng đó sự thật đã hiển nhiên, không còn phải chối cãi gì nữa. Chỉ có người nào thắng được sự hoài nghi mới khám phá được chân lý thâm diệu và vô hình vô ảnh.
Kế đó, người nói với một giọng nghiêm nghị:
- Hãy để ta đi!
Tôi bèn quỳ xuống chân sư phụ và nài nỉ:
- Bạch sư phụ, con xin sư phụ tha lỗi cho con. Chính vì con muốn gây đức tin cho những kẻ hãy còn mù quáng về phương diện tâm linh, mà con đã kêu gọi đến sư phụ. Sư phụ đã chiếu cố mà xuất hiện trước lời cầu xin của con thì con cũng xin sư phụ hãy vui lòng ban ân huệ cho các bạn con trước khi ra về. Tuy họ thiếu đức tin, nhưng ít nhất họ cũng khát khao được biết sự thật về kinh nghiệm lạ lùng của con.
- Được ta sẽ ở lại, vì ta không muốn cho các bạn con nghi ngờ lời nói của con.
Babâji dịu giọng, nhưng còn nói thêm:
- Từ rày về sau, ta sẽ không xuất hiện trước lời kêu gọi của con nữa, trừ ra khi nào sự có mặt của ta là tối cần thiết.
Khi tôi bước ra mở cửa, thì các bạn tôi đang chờ đợi trong một sự im lặng hoàn toàn. Hãy còn ngờ vực nới giác quan của họ, họ đứng sững, miệng há hốc, giương hai mắt to lên để chiêm ngưỡng dung nhan đức Babâji đang ngồi ung dung tự tại trên tấm nệm.
- "Đó là phép thôi miên tập thể", một nhân chứng vừa nói vừa cười. "Không ai có thể bước vào gian phòng này mà chúng tôi không biết!"
Babâji vừa mỉm cười vừa ra lịnh cho mỗi người hãy đến gần và sờ mó vào mình ngài để kiểm chứng sự thật. Khi họ không còn nghi ngờ gì nữa, họ bèn quỳ lạy dưới chân sư phụ tôi một cách cung kính và tỏ ra ăn năn sám hối vì đã có bụng hoài nghi.
- Hãy nấu cháo cho các vị dùng đỡ lót dạ. Babâji ra lịnh để đưa thêm một bằng chứng về sự thật của ngài. Trong khi nồi cháo đang sôi, sư phụ đàm thoại với tấm lòng ưu ái cởi mở với tất cả mọi người. Những kẻ hoài nghi lúc nãy nay đã trở thành những người sùng tín rất mực, không còn nghi ngờ gì nữa. Khi chúng tôi đã dùng cháo xong, Babâji đưa tay ban ân huệ cho từng người. Một tia chớp xuất hiện thình lình xẹt ngang qua gian phòng: chúng tôi chứng kiến tận mắt sự giải thể mau như chớp nhoáng của sư phụ: những nguyên tử, tế bào hợp thành thể xác của ngài bỗng nhiên tan rã mau lẹ trong chớp mắt, và phát ra một vầng hào quang mỗi lúc càng mờ dần. Quyền năng của Babâji vốn hòa hợp với Thựơng đế, đã giải tỏa bằng hà sa số những phân tử dĩ thái đã được kết cấu lại thành hình thể xác của ngài, những nguồn tinh lực được giải tỏa bèn trở về hòa lẫn với cái kho tinh lực vô biên của vũ trụ.
- Tôi đã thấy tận mắt người chiến thắng Tử thần!
Một nhân chứng trong nhóm bạn tôi, tên là Maitra đã nói như trên. Gương mặt y đổi sắc y chứng kiến điều nhiệm màu của sư phụ. Y nói tiếp:
- Tôn sư bất chấp mọi giới hạn của thời gian và khong gian và hành động mọi sự một cách dễ dành như trò trẻ. Tôi vừa chứng kiến một bậc siêu nhân nắm giữ chìa khóa mở các cõi huyền vi của trời đất.
Sau đó tôi trở về Danapur và tiếp tục công việc ở sở làm cùng làm tròn bổn phận người gia trưởng.
Lahiri Mahâsaya cũng thuật cho tu sĩ Kebalâ và Sru Yukteswar nghe chuyện một cuộc gặp gỡ khác với Babâji trong trường hợp hứa hẹp của sư phụ: "Ta sẽ xuất hiện khi nào cần thiết". Lahiri Mahâsaya kể chuyện như sau:
- Việc ấy xảy ra trong một cuộc thánh lễ Kumbha Mela ở Allahabad, thành phố tại đó tôi trải qua những tháng nghĩ hè. Trong khi tôi trà trộn trong đám đông những tu sĩ và khất sĩ từ khắp nởi ở Ấn Đô đến đây để dự lễ, tôi nhìn thấy một tu sĩ khổ hạnh mình đầy bụi bặm cầm một cái bình bát khất thực. Tôi có ý nghĩ rằng người này chỉ là một kẻ bịp bợm, giả vờ khoác lấy cái bề ngoài của kẻ tu hành chứ không phải là một người chân tu.
Khi tôi vừa đi qua khỏi người ấy thì tôi ngạc nhiên mà thấy Babâji đang quỳ gối trước mặt một tu sĩ khác râu tóc xồm xoàm. Tôi bèn chạy tới trước và kêu lên: - Bạch sư phụ, sư phụ làm gì vậy?
- Ta rửa chân cho người tu sĩ này, và sau đó ta sẽ lau chùi cái bình bát khất thực của y.
Babâji cười với tôi một cách hồn nhiên như một đứa trẻ nhỏ. Tôi hiểu rằng ngài muốn dạy tôi không nên chỉ trích kẻ khác, mà phải nhìn thấy hình ảnh của Thượng Đế ở bên trong mỗi người, bất luận lớn nhỏ, sang hèn. Sư phụ nói thêm:
- Khi ta phục vụ những tu sĩ khất thực, bất luận đó là những tu sĩ thánh thiện hay ngu dốt, ta học thực hành cái đức tính cao cả mà Thượng đế quý hơn tất cả mọi đức tính khác, đó là: đức khiêm tốn.