Nội dung
Tác giả: Khuyết Danh
1- Nhân-sinh thành Phật dễ đâu,
Tu hành có khổ rồi sau mới thành,
Ai hay vững dạ làm lành,
Chứng-minh trong chốn minh-minh cũng tường.
Kìa Ngô thị, tụng Kim-cương,
Chân thân còn để tượng vàng nghìn thu,
Kìa Địa Tạng, dốc lòng tu,
Độ thân cũng được khỏi tù đấng thân
Ấy là những truyện gần gần,
10-Tu thân mà được, độ thân lắm người,
2. Vào Truyện
Lọ là đức-hạnh tót vời,
Đức Quan-Âm ấy truyện đời còn ghi.
Vốn xưa là đấng nam-nhi,
Dốc lòng từ thủa thiếu thì xuất gia.
Tu trong chín kiếp hầu qua,
Bụi trần dũ sạch, thói tà rửa không,
Đức Mâu Ni xuống thử lòng,
Hiện ra một ả tư dung mỹ miều.
Lần-khân ép dấu nài yêu,
20- Người rằng: "Vốn đã lánh điều nguyệt-hoa,
"Có chăng kiếp khác họa là,
"Kiếp này sợi chỉ trót đà buộc tay".
Nào ngờ phép Phật nhiệm thay,
Lỡ lời mà đã vin ngay lấy lời.
Chờ cho kiếp nữa đủ mười,
Thử cho đày đọa suốt đời xem sao?
3. Quan-Âm thác sinh
Cõi trần mượn cửa thác vào,
Hóa sinh, sinh hóa lẽ nào cho hay,
Cao ly là nước lớn thay,
30- Đại bang thành vốn xưa nay gọi là.
Lũng-tài quận ấy bao xa,
Hồ nam huyện bắc, có nhà Mãng-ông.
Gia tư thì cũng bậc trung
Chỉ hiềm trước cửa treo cung còn chầy.
Vết Kim-Tiến kể thiêng thay,
Báo thai mộng nguyệt, mãn ngày treo khăn
Tuy chưa phải đấng thạch-lân
Khấn-cầu cũng bỏ người thân muộn-màng.
Đặt cho Thị Kính tên nàng,
40- Đượm nhuần sắc nước, dịu dàng nét hoa
Não nùng chim cũng phải sa
Người tiên-cung ở đâu ta trên đời.
Gồm trong tứ đức vẹn mười.
Cửa Vương-đạo dễ mấy người giường đông.
4. Họ Sùng ngỏ lời thông gia với họ Mãng
Ở trong quận, có họ Sùng,
Sẵn khuôn y bát, vốn dòng cân-đai.
Sinh chàng Thiện Sĩ là trai,
Qua vòng tổng-giốc mới ngoài gia quan.
Kể điều tài mạo cũng ngoan,
50- Gã tào kiếp trước, chàng Phan phen này.
Đã trồng bạch-bích sẵn đây,
Còn chờ bói phượng chưa vầy bạn loan.
Thư trung dành có ngọc-nhan,
Sách đèn còn bận, buông màn Quảng Xuyên.
Vẳng nghe họ Mãng gần miền,
Lam-kiều là chốn thần tiên có người.
Bức tranh khổng-tước vẽ vời,
Tay hèn dẫu bắn mấy đời cho tin.
Đem cân mà thử nhắc lên,
60- Bên tài bên sắc đôi bên cũng vừa.
Mượn người đánh tiếng trình thưa,
Cầu hôn mới viết thư từ đệ sang.
5. Họ Mãng bằng lòng nhận lời cầu hôn của họ Sùng
Mở ra họ Mãng xem tường,
Cùng phu nhân mới lo lường trước sau.
Bấy lâu vốn đã quen nhau,
Họ người vả cũng công-hầu xưa kia
Con trai rèn cập sớm khuya,
Nhà thi thư lại giữ nghề thi thư.
Vừa đôi phải lứa quan-thư,
70- Há rằng Trịnh với Tề ư mà ngờ.
Đừng rằng oanh-yến lọc-lừa,
Lại còn nay đợi mai chờ nơi nao?
Tơ hồng đã khéo xe vào,
Viết thơ hoàn-cát mà trao họ Sùng.
6. Thị Kính buồn nỗi phải xa cha mẹ:
Nàng nghe nghĩ ngợi đã xong,
Năm canh thắc-mắc, trong lòng cảm thương.
Linh Xuân một khóm hầu vang,
Quế non Yên đã nở nang chồi nào?
Có ta một chút má đào,
80- Thần-hôn cũng đã ra vào làm khuây.
Áo Lai chưa múa sân này,
Thì đem kinh-bố mà thay gọi là,
Tòng phu nếu đã từ gia,
Thừa hoan như lúc ở nhà được đâu?
7. Cha mẹ khuyên giải Thị Kính:
Song thân thấy ý đeo sầu,
Gọi con mới dạy gót đầu cho hay.
"Kẻ làm phụ mẫu xưa nay,
"Gái sinh mong sớm đến ngày hữu gia
"Cứ xem phúc-trạch nhà ta,
90- "Một mai cũng dễ trai già nở châu,
"Sự nhà chớ lấy làm sầu,
"Miễn con giữ đạo làm dâu cho toàn.
"Núi kia ắt hẳn chưa mòn,
"Thông kia sương-tuyết hãy còn chở che.
"Vả xem lối lại đường đi,
"Quanh đây thăm viếng đôi khi cũng gần"
8. Thị Kính về nhà chồng:
Nàng nghe dạy dỗ ân-cần,
Gạt châu mới nghĩ, lại dần dần khuây.
Cá đi, nhạn lại, tin bay,
100- Đủ năm lễ đã đến ngày thừa long.
Đào yêu choi chói màu hồng,
Ngọc trao chén dặn, hương xông áo nguyền.
Gió đằng kể khéo đưa duyên,
Chàng lưu giong-ruổi đến miền Thiên-thai,
Tiếng cầm tiếng sắt bẻ bai,
Tiếng chuông, tiếng trống, bên tai rập-rình
Một đôi tài sắc vừa xinh,
Đố Tăng-Đô vẽ bức tranh nào bằng?
Một rằng thế thế hai rằng sinh-sinh.
Đá kia tạc lấy lời minh,
Vàng kia thếp lấy chữ tình mà treo,
Xét nàng nết đủ mọi điều,
Đã niềm hiếu thảo, lại chiều đoan-trang.
Ở trên hiếu thuận song đường,
Lòng quỳ dám trễ, tay khương nào rời.
Câu thơ liễn-nhứ ngâm chơi,
Dẫu tài nàng Tạ đã xơi cho tày.
Khuyên chàng kinh-sử đêm ngày.
Thang mây mong nhắc chân giầy cho cao.
Nghi gia hai chữ thơ Đào,
Nhận ra trăm nết, nết nào còn chê.
9. Thị Kính bị nghi oan là giết chồng
Hôm mai trong chốn thâm khuê,
Kẻ đường kim-chỉ, người nghề bút-nghiên.
Canh khuya bạn với sách đèn,
Mỏi lưng chàng mới tựa bên cạnh nàng.
Phải khi liếc mắt trông chàng,
Thấy râu mọc ngược ở ngang dưới cằm.
Vô tâm xui bỗng gia tâm,
Dao con sẵn đấy, mới cầm lên tay.
Vừa giơ sắp tiễn cho tày,
Giật mình chàng đã tỉnh ngay bấy giờ.
Ngán thay sửa dép ruộng dưa,
Dẫu ngay cho chết, cũng ngờ rằng gian.
Thất thần nào kịp hỏi han,
Một lời la lối rằng toan giết người,
Song thân nghe tiếng rụng rời,
Rằng: "Sao khuya khoắt mà lời gớm thay?"
Thưa rằng: "Giấc bướm vừa say,
"Dao con nàng bỗng cầm tay kề gần.
"Hai vai hộ có quỷ thần,
"Thực hư đôi lẽ xin phân cho tường."
10. Thị Kính bày tỏ nỗi oan
Nàng vâng thưa hết mọi đường,
Rằng: "Từ gảy khúc loan-hoàng đến nay.
"Án kia nâng để ngang mày,
"Sạch trong một tiết, thảo ngay một bề.
"Bởi chàng đèn sách mỏi mê,
"Gối Ôn Công thủa giấc hòe thiu thiu.
"Thấy râu mọc chút chẳng đều,
Cầm dao tiễn để một chiều như nhau.
"Há rằng có phụ tình đâu
"Muôn trông xét đến tình đầu kẻo oan.
"Thác đi phỏng lại sinh hoàn,
"Thì đem lá phổi buồng gan giãi bày".