Chương 5
Tác giả: Larry Berman
Tạm biệt người Anh hùng, một sĩ quan tình báo xuất sắc người đã có nhiều cống hiến lớn lao cho sự nghiệp giải phóng dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tôi, Tư Cang, có rất nhiều kỷ niệm với bạn trong thành Sài Gòn tạm chiếm.
Giữa sự sống và cái chết chúng ta luôn ở bên nhau vượt qua muôn vàn khó khăn.
Lưu bút của Tư Cang trong sổ tay của Phạm Xuân Ẩn, tháng 9/2006
Cuối năm 1967, Thiếu tá Tư Cang, 40 tuổi, tổ trưởng mạng lưới tình báo quân sự cụm H.63 đặt chân đến Sài Gòn. Trước đó vài tháng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ở Hà Nội đã thông qua Nghị quyết về tổ chức một cuộc tổng tiến công và nổi dậy mới đánh vào "trung ương thần kinh của chính phủ bù nhìn miền Nam". Mục tiêu chính là Sài Gòn!
Bản Nghị quyết được các giao liên chuyển theo đường mòn Hồ Chí Minh, đến tháng 9/1967 mới tới được Trung ương Cục miền Nam. Ngày hành động được ấn định vào Tết Mậu Thân, tức ngày 31/1/1968. Nghị quyết này chỉ dành cho chưa đầy ba tháng để thu thập tin tức tình báo và lên kế hoạch chiến lược cho trận tấn công vào thành phố thủ phủ của miền Nam.
Ông Trần Văn Trà, Chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng ở miền Nam từ năm 1963, lãnh trách nhiệm về các hoạt động chiến thuật và chiến lược trong cuộc tổng tiến công. Ông Trần Văn Trà tin chắc rằng, nếu kế hoạch này được thực hiện thành công, Chính quyền Sài Gòn do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu sẽ sụp đổ. Phương pháp hướng dẫn cơ bản là kết hợp giữa tấn công của các đơn vị quân đội với sự nổi dậy của quần chúng nhân dân đô thị, kết hợp giữa tấn công từ bên trong các thành phố với bên ngoài thành phố, và giữa hoạt động quân sự ở nông thôn với hoạt động quân sự ở các trung tâm đô thị. Cuộc tổng tiến công sẽ là liên hoàn đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cuối cùng đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Ông Trần Văn Trà phụ thuộc nhiều vào các mạng lưới tình báo của ông ở Sài Gòn. Nhiệm vụ của ông Tư Cang là: Điều tra năng lực của Sư đoàn 1 quân đội Việt Nam Cộng hoà; Báo cáo về hệ thống an ninh xung quanh tổng hành dinh hải quân đóng ở Cảng Sài Gòn; Xác định đường đột nhập tốt nhất vào thành phố, cũng như những đường đến các toà cao ốc hoặc những cơ sở dễ tấn công nhất. Tư Cang hiểu rằng ông cần phải dành càng nhiều thời gian với điệp viên thượng hạng của mình là Phạm Xuân Ẩn thì càng tốt.
Phạm Xuân Ẩn tạo vỏ bọc cho Tư Cang là trong vai một người bạn từ Huế vào, một thầy giáo đi thăm đồn điền ở Dầu Tiếng, một người lai tạo giống chim và thích nuôi dạy chó. Với vỏ bọc như vậy, Tư Cang và Phạm Xuân Ẩn có thể đi cùng nhau đến tiệm cà phê Givral hoặc bất cứ nơi nào trong Sài Gòn mà không hề gây ra chút nghi ngờ nào. Với tư cách một nhà báo được kính trọng đang làm việc cho Tạp chí Time, Phạm Xuân Ẩn dễ dàng đi lại khắp Sài Gòn, trong đầu xốn xang với ý nghĩ về những địa chỉ có thể tấn công và những cách thức để tránh hệ thống an ninh.
Khoảng năm 1968, Phạm Xuân Ẩn nói chung được mọi người coi là anh cả trong đám phóng viên ở Sài Gòn. Laura Palmer, phóng viên tự do của Tạp chí Time và là bạn thân của ông Ẩn, viết: "Phạm Xuân Ẩn là một trong những nguồn thạo tin nhất ở Sài Gòn và rất nhiều phóng viên phải phụ thuộc vào ông". Khi David Lamb của tờ Los Angeles Times đến Sài Gòn đã được mọi người nói "Đến gặp Phạm Xuân Ẩn của Tạp chí Time". Henry Kamm của tờ New York Times biết Phạm Xuân Ẩn là "một đồng nghiệp thạo tin, hào phóng, nhẹ nhàng và tế nhị, người Việt Nam duy nhất được một toà báo Mỹ là Tạp chí Time tuyển dụng và cho hưởng qui chế phóng viên đầy đủ, chứ không phải chỉ là những trợ lý người địa phương cho các nhà báo Mỹ từ New York được cử đến để đưa tin về chiến tranh".
Nhiều năm trước khi David Halberstam biết về các hoạt động tình báo của Phạm Xuân Ẩn, ông đã nói với Neil Sheehan rằng Phạm Xuân Ẩn là một nhân vật lớn ở Sài Gòn "bởi vì ông ấy có nhiều ảnh hưởng đối với các nhà báo Mỹ". Khi tôi chìa đoạn trích từ kho tư liệu báo chí của Neil Sheehan này cho Phạm Xuân Ẩn xem, ông đã mỉm cười và nói: "David Halberstam nói đúng, bởi vì tôi gây ảnh hưởng đối với các nhà báo Mỹ bằng cách giúp họ hiểu Việt Nam. Nhiều người trong số họ đến đây khi còn là những phóng viên tự do rất trẻ, lúc nào cũng tìm kiếm tin để viết bài. Tôi không muốn họ bị hướng dẫn sai, vì có nhiều người khác đưa ra những thông tin không đúng. Tôi đã ở vị trí dạy cho các phóng viên Mỹ trẻ tuổi, vì tôi không thể để cho ai nghi ngờ tôi. Đó là lý do tại sao tôi không bao giờ dính líu vào việc đưa các thông tin thất thiệt. Chỉ có những người xấu mới làm như vậy. Tôi phải công bằng và khách quan, nếu không tôi sẽ bị chết. Đơn giản như vậy đó".
Câu hỏi về việc Phạm Xuân Ẩn một tình báo viên có đưa tin thất thiệt - tức là phát tán những thông tin giả nhằm đánh lạc hướng kẻ thù của đất nước mình - hay không, cho đến nay chưa được khẳng định, mặc dù đã từng có một số cuộc điều tra và buộc tội ông. Có lẽ vấn đề này vẫn còn nhạy cảm nếu không muốn nói đây là vấn đề trọng tâm liên quan đến vỏ bọc của Phạm Xuân Ẩn. Ông có đưa tin xuyên tạc về cuộc chiến tranh để có lợi cho Cộng sản hay không? Đã từng có người ở Mỹ buộc tội ông Phạm Xuân Ẩn như vậy. Tại cuộc điều trần của một tiểu ban thuộc Thượng nghị viện Hoa Kỳ do Thượng nghị sĩ Jeremiah Denton, một cựu binh Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, làm chủ toạ, ông Armaud de Borchgrave đã đưa ra những lời buộc tội Phạm Xuân Ẩn. Theo de Borchgrave, "Phạm Xuân Ẩn phụ trách việc chuyển tiếp thông tin sai lạc đến Đại sứ quán Mỹ và các đồng nghiệp nhà báo của ông".
Tuy nhiên, tất cả các đồng nghiệp từng làm việc sâu sát bên cạnh Phạm Xuân Ẩn đều nói rằng Phạm Xuân Ẩn chưa bao giờ cung cấp cho họ những thông tin sai lạc. Ông Roy Rowan, cựu Trưởng phân xã Tạp chí Time ở Sài Gòn, khăng khăng nói: "Vì uy tín của mình, Phạm Xuân Ẩn chưa bao giờ cung cấp các thông tin sai lạc cho các phóng viên về diễn biến của cuộc chiến tranh". Sau này, Tạp chí Time đã từng tiến hành thanh tra nội bộ, nhưng vẫn không tìm thấy bằng chứng nào về việc Phạm Xuân Ẩn đã viết những tin, bài xuyên tạc, bóp méo. Tôi đã phân tích một cách kỹ lưỡng những ghi chép chi tiết của Robert Shaplen trong các cuộc chuyện trò với Phạm Xuân Ẩn thì thấy không hề có chi tiết hoặc dấu hiệu nào chứng tỏ rằng ông Ẩn đã cố đưa ra những thông tin sai, hoặc thậm chí sự hiểu sai, để có thể bị coi là thân Việt Cộng. Cho đến những ngày cuối cùng của đời mình, Phạm Xuân Ẩn vẫn luôn khẳng định: "Làm báo là một nghề tôi thực hiện rất nghiêm chỉnh. Đó là lý do vì sao không ai có thể nghi ngờ tôi và đó cũng là lý do vì sao ngày nay tôi có rất nhiều bạn. Tất cả những điều tôi đã làm chẳng qua chỉ là vì nghề nghiệp của tôi, vì đất nước tôi. Những ai là người công bằng thì đều biết điều đó".
Mối quan hệ nghề nghiệp thân thiết nhất của Phạm Xuân Ẩn là với Bob Shaplen, phóng viên Viễn Đông của tờ New Yorker làm việc tại Hong Kong từ năm 1962-1978. Bob Shaplen có nhiệm vụ đưa tin về cuộc chiến tranh Việt Nam và tình hình ở các nước khác tại châu Á. Khi đến Sài Gòn, Bob Shaplen đặt trụ sở của mình tại phòng số 407, Khách sạn Continental. Từ phòng làm việc của mình và đứng ở ban công, Bob Shaplen có thể nhìn thẳng sang Toà nhà Quốc hội; nhìn sang bên phía tay phải và ngang qua phố là tiệm cà phê Givral. Nhà nhân chủng học Gerald Hickey nhớ lại: "Khi Bob Shaplen đến Sài Gòn, Phạm Xuân Ẩn và tôi thường đến phòng của ông ta ở khách sạn Continental Palace, nơi có nhiều người khác nhau tụ họp. Họ là những nhà báo, trong đó có Jean-Claude Pomonti của tờ báo Le Monde, George McArthur của Los Angeles Times, Keyes Beech của Chicago Daily News và những tay lõi đời về Việt Nam như Lou Conein. Nhiều lần các quan chức Việt Nam, trong đó có tướng Trần Văn Đôn, cũng xuất hiện ở đấy.
Phạm Xuân Ẩn và trưởng phân xã Tạp chí Time Jon Larsen tại trại Chiêu Hồi. Chiêu hồi trong tiếng Việt có nghĩa là đầu hàng(1) (ảnh trong Bộ sưu tập cá nhân của Phạm Xuân Ẩn
(Chú thích của Nhà xuất bản: Chiêu hồi là chương trình trong chiến tranh xâm lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn (trước 1975) tiến hành bằng các biện pháp mua chuộc kết hợp thủ đoạn tâm lý chiến để lôi kéo cán bộ cách mạng và chiến sĩ lực lượng vũ trang giải phóng đào ngũ về với họ)
Lou Conein dành khá ít thời gian với cả Phạm Xuân Ẩn và Shaplen. Ông luôn cho rằng Phạm Xuân Ẩn đã giúp cho Shaplen hình thành nên bài viết của mình. Lou Conein nhớ có lần ông dẫn Shaplen đến gặp Thượng toạ Phật giáo Trí Quang. Khi bài phỏng vấn của Shaplen xuất hiện trên tờ New Yorker, thì chẳng thấy giống như những lời mà Thượng toạ Trí Quang đã nói. Lou Conein nói với Shaplen về tính chính xác của bài viết: "Này Bob, ông ấy không nói như thế". Shaplen đáp: "Nhưng đó mới là ý ông ấy muốn nói Lou ạ. Đó mới thực sự là điều của ông ấy muốn nói". Lou Conein kết luận rằng sở dĩ có điều này là vì Shaplen đã tốc ký rất nhiều đoạn mà ông Trí Quang đã nói, sau đó, Shaplen đến gặp Phạm Xuân Ẩn và Vương ở tiệm cà phê Givral. Khi được Shaplen chìa cho xem bản tốc ký, hai người liền nói rằng ông ấy nói vậy, nhưng nghĩa thực sự của câu nói đó là thế này… ý của ông ấy là thế này… Vậy là Bob Shaplen cứ thế viết theo ý của họ".
Lou Conein tin rằng kiểu gây ảnh hưởng như vậy cũng tác động đến sự phân tích của Shaplen về tình hình chính trị nội bộ ở miền Nam Việt Nam và những ý nghĩa của nó. Sau khi đọc những bài phân tích của Bob Shaplen trên báo New Yorker, Lou Conein nói với Shaplen: "Bob này, mình có các nguồn tin riêng và họ nói rằng sự việc diễn ra không như vậy". Theo các ghi chép của Neil Sheehan, "Shaplen luôn luôn bảo với Conein rằng Conein nói không đúng vì Phạm Xuân Ẩn Và Vương đã nói như các nhà chức trách rồi".
Cả Lou Conein và Neil Sheehan đều cho rằng Phạm Xuân Ẩn là "một điệp viên hoàn hảo làm việc cho Việt Cộng, bởi vì ngoài một số chuyện khác thì Phạm Xuân Ẩn biết tất cả những gì mà Shaplen thu thập được từ nguồn Đại sứ quán Mỹ và chi nhánh CIA ở Sài Gòn. Thậm chí, Phạm Xuân Ẩn biết được cả những điều như phía Mỹ có ý định sẽ làm gì và người Mỹ đã xử lý tình huống đó như thế nào, ít nhất là khi các thông tin như vậy được chuyển tiếp đến Shaplen. Phạm Xuân Ẩn đã có một vỏ bọc hoàn hảo là trợ lý chính của Shaplen mỗi khi đến Sài Gòn và nhiều năm sau còn trở thành phóng viên người Việt Nam của Tạp chí Time nữa".
Đánh giá về Phạm Xuân Ẩn với tư cách là một nhà báo có lẽ được thể hiện rõ nhất trong đoạn mà nhà báo Neil Sheehan viết trong cuốn sách của ông với tựa đề "Sự nói dối hào nhoáng". Sheehan kể về lần ông đáp máy bay trực thăng của lính thuỷ đánh bộ bay tới một vùng căn cứ Việt Cộng ở Đồng Tháp Mười. Nhìn thấy có hoạt động của đối phương ở dưới đất, nên người lính giữ hoả lực ngồi bên cửa nổ súng. Lúc đó Sheehan nhìn thấy khoảng một chục người chạy xuyên qua bãi cỏ dại cao lút đầu. Những người này mặc giống như những du kích Việt Minh ngày trước mà Sheehan từng được thấy trong các bức ảnh chụp từ hồi chiến tranh của Pháp. Đồng phục màu xanh lá cây mũ tai bèo, mang vũ khí và một chiếc ba lô nhỏ đeo sau lưng. Nhưng những người đó không phải là Việt Minh, mà là lính chính qui Việt Cộng thuộc một tiểu đoàn quân chủ lực. Tuy nhiên, khi một đại uý Quân đội Việt Nam Cộng hoà vào trong làng để hỏi người dân ở đó về khoảng chục người du kích đã chạy biến đi đâu rồi, người ta cứ nói đi nói lại là từ Việt Minh. Neil Sheehan quay sang hỏi một phóng viên người Việt Nam làm việc cho một trong những hãng thông tấn nước ngoài đi cùng: "Tại sao viên đại uý cứ gọi những du kích là Việt Minh? Tôi cứ nghĩ rằng chúng ta đang đuổi theo Việt Cộng chứ?" Nguồn tin không nói rõ tên (sau này tôi xác định được đó chính là Phạm Xuân Ẩn) đã giải thích rằng "Người Mỹ và người của chính phủ ở Sài Gòn gọi họ là Việt cộng, nhưng ở đây mọi người vẫn gọi họ là Việt Minh. Sheehan hỏi tại sao thì được người phóng viên Việt Nam nói: "Vì nhìn họ giống Việt Minh, họ hành động giống Việt Minh, và vì thế mà những người ở đây gọi họ là Việt Minh".
Phạm Xuân Ẩn thôi làm việc cho Reuters từ năm 1964, sau khi có chuyện bất bình với Nick Turner. Phóng viên Nick Turner viết: "Cuối cùng, khi vai trò dưới vỏ bọc của Phạm Xuân Ẩn được phơi bày, thì nhiều người trong số các đồng nghiệp của tôi ngạc nhiên và đã viết rất nhiều về điều đó, nhưng tôi không hề ngạc nhiên. Tôi luôn có nhiều nghi ngờ và đã từng bảo với Phạm Xuân Ẩn như vậy. Nhưng tôi cũng nói tôi không quan tâm điều đó chừng nào Phạm Xuân Ẩn hoàn thành công việc của ông với Reuters. Tuy nhiên, tôi đã thận trọng không chia sẻ các thông tin nhạy cảm với ông ấy và rõ ràng là Phạm Xuân Ẩn đã nhận thấy điều này và cuối cùng thì ông ấy chuyển sang làm việc cho Văn phòng Tạp chí Time".
Sau này, khi tôi bảo Turner làm rõ quan điểm của ông, thì Nick Turner viết: "Tôi chưa bao giờ ám chỉ cho Phạm Xuân Ẩn hiểu rằng tôi tin ông ấy là một sĩ quan tình báo Việt Cộng, chứ nói gì đến chuyện biết ông ấy là một sĩ quan tình báo cao cấp. Trên thực tế, tôi chưa bao giờ nghi ngờ ông ấy về điều đó. Tuy nhiên, sự cảm tình của Phạm Xuân Ẩn với Việt Cộng thì khá rõ, và đó là vấn đề mà tôi đã thảo luận với ông ấy, chứ không dặt thành vấn đề về chuyện đó. Đối với tôi, đó là điều tất nhiên và không nên chỉ trích đối với những loại người như Phạm Xuân Ẩn vì bề ngoài có thể hoá trang hoặc có vẻ triết lý, nhưng lại có cảm tình với Việt Cộng. Tôi đánh giá cao những lần được chuyện trò với Phạm Xuân Ẩn vì ông ấy giúp tôi hiểu được sự phức tạp của cái điều mà người ta vẫn gọi là chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Tôi nghi ngờ là vì sự cảm tình của Phạm Xuân Ẩn đối với Việt Cộng khá rõ, nên rất có thể ông ấy cung cấp các thông tin cho Việt Cộng, nhưng chỉ ở mức độ thấp, thông qua một điệp viên hoặc một hệ thống khác. Ngoài ra, cũng còn những lý do khác khiến tôi tin rằng điều này là rất dễ xảy ra. Tuy nhiên, tôi muốn nhắc lại rằng tôi không hề nghi ngờ gì về việc chính Phạm Xuân Ẩn là một phần quan trọng trong hoạt động tình bảo của họ".
Phạm Xuân Ẩn có cách giải thích khác về lý do tại sao ông không tiếp tục làm việc cho Reuters. Mở đầu câu chuyện này, Phạm Xuân Ẩn nói: "Nick Turner chưa bao giờ nói với tôi một lời nào về việc nghi ngờ tôi là Việt Cộng. Tôi không cần ông ấy phải chia sẻ những thông tin nhạy cảm với tôi, bởi vì tôi có những nguồn tin còn tốt hơn ông ấy nhiều, tôi có thể cam đoan với giáo sư như vậy. Tôi rất lấy làm tiếc khi đọc được những điều mà ngày nay Nick Turner nói ra, bởi vì ông ấy biết rõ tôi đã bảo vệ ông ấy và Reuters để không bị rơi vào tình trạng cực kỳ bối rối. Ngày ấy, tôi là nguồn tin chính của ông ấy về tất cả mọi thứ. Nick Turner biết rất rõ điều này. Tôi rất tiếc phải nói rằng điều ông ấy nói là sai".
Phạm Xuân Ẩn nói với tôi rằng ông bỏ Reuters đúng vào ngày ông vừa đi lấy tin về vụ đảo chính hồi tháng 8/1964. Trong cuộc đảo chính này, thiếu tướng Nguyễn Khánh lật đổ thiếu tướng Dương Văn Minh để lên làm Quốc trưởng ở Nam Việt Nam. Nick Turner cần có thông tin này để viết bài, nhưng sự kiện tại phủ Tổng thống đã khiến Phạm Xuân Ẩn chậm trễ vài giờ. Khi vừa nhìn thấy Phạm Xuân Ẩn, Nick Turner quát: "Ẩn, mày vừa ở chỗ quái nào về thế, tao đang chờ mày đấy". Phạm Xuân Ẩn đáp lại: "Tôi vừa đi lấy tin về vụ đảo chính ở phủ Tổng thống".
Phạm Xuân Ẩn kể rằng khi cuộc lời qua tiếng lại giữa ông và Nick Turner trở nên nóng hơn, Turner yêu cầu ông phải chuyển con chim nhỏ "hót véo von" ông vẫn để trên bàn làm việc đi chỗ khác. "Tôi đã nói với ông ta rằng nếu chuyển con chim đó đi, thì tôi cũng đi luôn. Và ngay lúc đó, tôi đi thật. Thực sự tôi rất điên tiết nên ném các đồ bừa bãi trên bàn. Tôi xếp đồ đạc rồi đi thẳng không bao giờ trở lại với Reuters nữa. Nick Turner đã mất một nguồn tin quí giá và ông ta biết rõ điều đó", Phạm Xuân Ẩn nói.
Còn đây là giải thích của Nick Turner: "Liên quan đến việc Phạm Xuân Ẩn thôi làm việc ở Reuters, thực tế là thế này: Không phải ông Ẩn chỉ đi vắng vài giờ, mà là từ hai đến ba ngày và tôi biết rõ ông ấy không ra khỏi Sài Gòn. Khi ông ấy xuất hiện trở lại ở cơ quan có thể tôi đã nói một cách bỗ bã "Ẩn, mày vừa từ chỗ quái nào về thế?" Phạm Xuân Ẩn trả lời rằng ông ấy đang làm việc với cô Beverley Deepe về một số việc lớn. Nghe vậy, tôi liền chỉ ra cho ông ấy biết rằng ông được trả lương để làm việc cho Reuters. Phạm Xuân Ẩn đáp lại trả như thế chưa đủ. Phạm Xuân Ẩn nói như vậy là đúng. Tôi đã từng đề nghị Reuters nâng lương cho Phạm Xuân Ẩn vì những trợ lý người Việt Nam giỏi đang có nhu cầu rất nóng từ phía các phóng viên nước ngoài. Nhưng đề nghị của tôi đã bị từ chối. Tôi đành an ủi ông ấy bằng cách để cho các phóng viên đến thăm ngắn ngày ghé qua Văn phòng Reuters khai thác chất xám của ông ấy (về việc này tôi không hề phản đối), và một số trong các phóng viên này đã trả thù lao cho ông ấy theo nhiều cách khác nhau… Phạm Xuân Ẩn đã không chịu được lời khiển trách của tôi, nên ông ấy đóng gói đồ đạc rồi ra đi".
Sau khi thôi làm việc ở Reuters, Phạm Xuân Ẩn rơi vào tình trạng thất nghiệp không lâu. Lúc đầu, ông làm việc ít nhiều cho Beverly Deepe của tờ New York Herald Tribune. Phạm Xuân Ẩn đã gặp Deepe từ tháng 2/1962, ngay từ khi Deepe mới đến Sài Gòn với tư cách một phóng viên tự do, hai mươi lăm tuổi, luôn săn tìm thông tin để viết bài. Phóng viên ảnh Francois Sully vừa bị chính quyền Ngô Đình Diệm trục xuất vì bị qui cho là có quan điểm thân Việt cộng, nên Beverly Deepe được thay thế Francois Sully làm cộng tác viên cho tờ Tạp chí Mỹ Newsweek.
Sau này, bà Beverly Deepe viết: "Tôi đến Nam Việt Nam năm 1962, đúng 5 năm sau khi tốt nghiệp ngành báo chí và khoa học chính trị Trường đại học Nebraska, Hoa Kỳ. Mặc dù luôn mơ ước được làm một phóng viên thường trú ở nước ngoài, nhưng tôi vẫn rất ngạc nhiên khi chỉ trong một thời gian ngắn mà tôi trở thành một phóng viên như vậy, tại một nơi rất xa xôi mà đối với hầu hết người Mỹ, trong đó có tôi, chưa bao giờ được nghe tên. Không một cuốn giáo trình nào ở Mỹ, cho dù là giáo trình báo chí, lịch sử, khoa học chính trị, hay các vấn đề quân sự từng được viết dạy cho người ta cách đưa tin về cuộc chiến tranh như chiến tranh Việt Nam".
Phạm Xuân Ẩn thường nói với tôi rằng ông rất tự hào là đã góp phần giúp đỡ Beverly Deepe trở thành một phóng viên tốt hơn như thế nào. Hai người thoả thuận với nhau rằng Deepe giúp Ẩn về những câu ngữ pháp tiếng Anh, đổi lại Phạm Xuân Ẩn dạy cho Deepe cách mà ông vẫn "xào" các tin bài cho Reuters. Phạm Xuân Ẩn nói: "Tôi bày cho Deepe cách sử dụng các bức điện và những thông tin khác, tất cả ném vào khuấy đảo lên trong vòng một giờ đồng hồ là cho ra một bài về sự kiện nổi nhất trong ngày".
Phạm Xuân Ẩn với các đồng nghiệp ở Văn phòng Tạp chí Time (ảnh trong Bộ sưu tập cá nhân của Phạm Xuân Ẩn, cùng sự cho phép của Lê Minh và Ted Thái)
Được sinh ra dưới Sao nữ thần Virgo chiếu mệnh, Phạm Xuân Ẩn cảm thấy mình có trách nhiệm bảo vệ cho Deepe. Phạm Xuân Ẩn nói: "Cô ấy rất trẻ, rất bạo dạn, rất mạo hiểm, nên nhiều rủi ro". Phạm Xuân Ẩn dẫn ra một ví dụ, khi đoàn Phật tử biểu tình trước toà nhà Đại sứ quán Mỹ. Lực lượng chống bạo động Nam Việt Nam đã ra lệnh cho tất cả mọi người phải giải tán. Nhưng Deepe cứ nhất định trèo lên bằng được tường hàng rào điện để chụp ảnh và để xem điều gì đang diễn ra. Phạm Xuân Ẩn phải đến gặp Đại tá Bùi đang chỉ huy lực lượng chống bạo động hôm đó. Đại tá Bùi là một trong sáu chỉ huy lực lượng bộ binh nhẹ mà ông đã quen biết từ nhiều năm trước. Phạm Xuân Ẩn nói: "Tôi hỏi Đại tá Bùi để biết trước kế hoạch sẽ đàn áp những người biểu tình như thế nào, để tôi có thể lôi "sếp" của mình ra khỏi nơi nguy hiểm".
Deepe là phóng viên đưa tin thô bạo về cuộc chiến tranh, nên chẳng bao lâu, cô bị Đại sứ Mỹ Maxwell Taylor đích thân ra lệnh cấm cô tham dự các buổi thông báo tin tức chính thức của Đại sứ quán Mỹ. Bà Beverly Deepe nhớ lại: "Đại sứ quán Mỹ không thích tôi là vì tôi không nói những điều họ muốn. Họ buộc tội cho tôi là đưa những thông tin có lợi cho Việt Nam. Thực tế là tôi lắng nghe Đại sứ quán Mỹ nói, sau đó ra ngoài tự tìm thông tin kiểm chứng".
Ngày 8/1/1965, Tạp chí Time đăng một bài của Deepe phỏng vấn độc quyền với tướng Nguyễn Khánh. Bài báo kết luận, bằng sự quan sát mà phóng viên Deepe "đã phát triển các thông tin thu được từ các nguồn tin và quan hệ tiếp xúc, hầu hết là không cần đến thông tin của Đại sứ quán Mỹ cung cấp, thậm chí độc lập với cả các thông tin đồn đại trong các câu lạc bộ hay trong đội quân báo chí ở Sài Gòn. Chỉ có điều phóng viên Deepe không biết đó là cô chỉ có thể lấy thông tin từ hai trợ lý người Việt Nam của mình. Cả hai trợ lý này đều khôn ngoan, có khả năng phân tích đúng trong mớ bùng nhùng về chính trị của đất nước họ". Hai người trợ lý gồm Phạm Xuân Ẩn và Nguyễn Hùng Vương chính là hai người mà Lou Conein đã từng nói tới trước đây. Phạm Xuân Ẩn nói: "Deepe học được rất nhiều từ Vương và tôi. Không giống những người Mỹ khác, cô ấy sẵn sàng mở lòng ra để học về lịch sử và con người Việt Nam, do vậy mà cô ấy hiểu được cuộc chiến tranh".
Beverly Deepe là một trong số rất ít người bạn cũ của Phạm Xuân Ẩn cảm thấy mình bị phản bội sau khi biết ông là một nhà tình báo của Cộng sản. Deepe cho rằng Phạm Xuân Ẩn đã lừa dối mình. Bà đã cắt đứt mọi liên hệ với Phạm Xuân Ẩn và gia đình ông, gây ra cho gia đình ông biết bao khó khăn khi bị từ chối cung cấp tiền trợ giúp y tế cho các con ông. Ngoài ra, bà Deepe còn cắt việc cung cấp chỗ ở cho gia đình ông Phạm Xuân Ẩn tại nhà riêng của bà ở bang Virginia, sau khi gia đình ông chạy di tản khỏi Sài Gòn năm 1975. Phạm Xuân Ẩn nói: "Deepe là một thành viên ruột thịt của gia đình tôi. Lần đầu tiên trong đời, tôi được tổ chức lễ sinh nhật là do sáng kiến của Beverly Deepe và Charles Keever (người chồng sau này của bà). Tôi rất xúc động vì lòng tốt của họ". Trong suốt quá trình làm việc của tôi với Phạm Xuân Ẩn, ông thường hỏi liệu tôi có may mắn nào gặp được Deepe hay không? Tôi nói thật với ông rằng tôi đã liên hệ được với Deepe qua một địa chỉ email của bà tại khoa Thông tin đại chúng Trường đại học Hawaii. Bà Beverly Deepe đang giảng dạy ở đó.
Trong cuộc trao đổi qua email, bà Deepe không hề nói gì đến Phạm Xuân Ẩn. "Tôi rất yêu quí Deepe, các con tôi và cả vợ tôi vẫn còn rất yêu quí bà ấy. Tôi vẫn cứ hy vọng một ngày nào đó, trước khi tôi chết, chúng tôi tha thứ được cho nhau và sống hoà hợp được với nhau giống như đất nước tôi đã làm". Phạm Xuân Ẩn đã nói như vậy, tôi cảm nhận được rõ ràng một nỗi buồn vô hạn trong ánh mắt của ông.
Phạm Xuân Ẩn được nhà báo Bob Shaplen giới thiệu với Frank McCulloch của Tạp chí Time. McCulloch từng là một lính thuỷ đánh bộ, đưa tin về tất cả những trận đánh lớn từ năm 1964 đến 1965, dành hầu hết thời gian của ông để đi theo Lữ đoàn 9 Thuỷ quân lục chiến. Sau này, ông được tặng một bằng xác nhận ông là thành viên danh dự của Lữ đoàn. Thời kỳ đầu năm 1964, số lượng nhân viên của Tạp chí Time-Life ở Sài Gòn còn nhỏ bé giống như qui mô của cuộc chiến tranh. John Shaw là một cộng tác viên thường trú tại Sài Gòn, thường làm việc với McCulloch bên ngoài căn hộ của anh ở trên phố Công Lý, cũng như tại phòng của McCulloch ở khách sạn Caravelle. Khi đó, sự hiện diện của quân đội Mỹ mới có khoảng 16.000 quân. Chẳng bao lâu sau, phân xã Tạp chí Time được bổ sung Jim Wilde nên chuyển đến phòng số 6 Khách sạn Continental. Năm 1964, phân xã Sài Gòn tuyển nhân viên Việt Nam đầu tiên làm việc toàn thời gian là Nguyễn Thuỳ Đăng trong cương vị chánh văn phòng. Khi chiến tranh ngày càng lan rộng, Frank bảo Đăng đi tìm kiếm trụ sở mới để làm văn phòng. Sau đó, họ chuyển đến nhà số 7 phố Hàn Thuyên, chỉ cách khách sạn Continental bốn khối nhà về phía tây, ngay cạnh Nhà thờ Đức Bà và Bưu điện thành phố. Đến khi McCulloch rời Sài Gòn, thì phân xã Tạp chí Time -life đã có một biệt thự riêng, chưa kể năm phòng ở tại khách sạn Continental và sáu phòng khác làm văn phòng cho Tạp chí Life.
Vừa gặp, McCulloch đã lập tức có ấn tượng tốt đẹp ngay đối với Phạm Xuân Ẩn. McCulloch nói: "Phạm Xuân Ẩn có tất cả những phẩm chất mà tôi cần. Ông ấy có một kiến thức rộng về tình hình đất nước đang thay đổi. Sau khi đã nhìn nhận lại mọi chuyện, tôi có thể nói rằng ông là một tình báo viên không bao giờ làm méo mó nghề báo". Làm việc cho Tạp chí Time tạo cho Phạm Xuân Ẩn những lợi thế đặc biệt. McCulloch nói với tôi: "Tôi giao cho Phạm Xuân Ẩn nhiệm vụ phải lắng nghe các thông tin, chứ không phải là viết bài. Do đó, văn phòng Tạp chí Time đã cho Phạm Xuân Ẩn một vị trí nghe ngóng hoàn hảo để giúp cho nghề tình báo của ông, bởi vì các số liệu về quân sự và chính trị ngày đó được người ta thảo luận công khai". Robert Sam Anson quan sát một cách hài hước: "Còn vỏ bọc nào tốt hơn thế nữa đối với Phạm Xuân Ẩn, khi ông ấy đi lấy tin cho một cơ quan báo chí vốn rất cần tin tức về chiến tranh khiến cho chính MACV và Sứ quán Mỹ cũng muốn qua kênh này để mà xì thông tin ra ngoài. Điều chói lọi và tuyệt vời ở đây còn là tất cả những việc làm thu thập tin tức nói trên của Phạm Xuân Ẩn lại được cơ quan đế chế của Henry Luce - một người châu Á chống cộng sản khét tiếng, trả lương".
Jon Larsen là trưởng phân xã Tạp chí Time tại Sài Gòn từ cuối năm 1970 - 1971 thay cho Marsh Clark. Jon Larsen nhớ lại: "Phạm Xuân Ẩn là phóng viên của chúng tôi, là người phiên dịch của chúng tôi, và là người trợ lý đa năng của chúng tôi, muốn gì là ông ấy đáp ứng được ngay. Lúc nào anh cũng có thể được nghe ông ấy trình bày rất hay khi thông báo tin tức. Ông ấy là người môi giới, chắp nối thông tin của chúng tôi. Ông ấy không ngồi trong văn phòng. Muốn gặp ông ấy tốt nhất là hẹn hò, sau đó ông ấy sẽ đến, ngồi, và nói chuyện. Tôi chẳng bao giờ nghi ngờ gì Phạm Xuân Ẩn. Tôi biết Phạm Xuân Ẩn là người theo chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành. Có vẻ như ngay từ đầu, Phạm Xuân Ẩn đã bị ảnh hưởng nhiều bởi cuốn sách "Trao đi đổi lại của phóng viên" do hai tác giả Joseph và Stewart Alsop viết năm 1958. Đây là hai phóng viên được đánh giá cao ở Washington nổi tiếng về quan điểm bảo thủ và chống Cộng sản. Phạm Xuân Ẩn tự thấy mình giống như một phóng viên quốc phòng kiểu mới mô tả trong cuốn sách đó. Thỉnh thoảng, ông lại lôi cuốn sách đó từ trên giá sách gia đình ra bảo tôi: "Đọc đoạn này đi rồi chúng ta lại tiếp tục câu chuyện". Đoạn ông bảo tôi đọc đoạn viết: "Đưa tin về quốc phòng, nói tóm lại, là khác với việc đưa tin về chiến tranh. Việc đưa tin chiến tranh về cơ bản không có nhiều thay đổi kể từ khi có phóng viên đầu tiên ra chiến trường đưa tin về trận Sebastopol và Bull Run. Trong khi đó, phóng viên quốc phòng theo dõi các tài liệu các xuất bản phẩm khoa học chứ không phải là số lượng quân lính… Người phóng viên quốc phòng phải cố gắng đưa tin thời sự về những thay đổi to lớn trong tình hình chiến lược quốc gia đang liên tục diễn ra tại nơi không có kỹ thuật. Sự linh hoạt cực kỳ này về tình hình chiến lược của mỗi quốc gia, thậm chí tình hình của các siêu cường, tất cả đều là điều mới trên thế giới".
Phạm Xuân Ẩn đặc biệt thích chương "Một vài cuộc trao đổi những bí mật", trong đó định nghĩa rằng đưa tin báo chí là một nghề hay có thể gọi là một cuộc trao đổi trong chính bản thân nó đòi hỏi người phóng viên phải khoẻ, "hiểu biết tiếng Anh, có kiến thức về lịch sử". Phạm Xuân Ẩn nói với tôi rằng ông đã học được cái "qui tắc chân chạy" từ cuốn sách này. Qui tắc đó có nghĩa là một phóng viên giỏi cần phải luôn đi ra khỏi phòng làm việc của mình và ít nhất mỗi ngày cũng phải gặp được bốn quan chức. "Nếu đi ra ngoài và tự mình quan sát xem điều gì dang diễn ra, trao đổi với nhiều người có trách nhiệm liên quan đến vụ việc đó một người phóng viên như vậy thì không thể không làm tốt nhiệm vụ đưa tin được", sách của anh em nhà Alsop đã viết như vậy.
Rất ít khi Phạm Xuân Ẩn ký nặc danh dưới bài báo của mình. Thực tế dường như ông đang áp dụng cách làm việc giống hệt như ngày ông còn học ở Trường Đại học Orange Coast. Ngày đó, Phạm Xuân Ẩn muốn tên mình xuất hiện càng nhiều càng tốt với hy vọng điều đó sẽ giúp ông không bị nghi ngờ làm tình báo.
Trong một bài viết của mình đăng trên báo New Yorker năm 1972, Bob Shaplen nhắc đến Phạm Xuân Ẩn khi kể về việc đưa tin từ Việt Nam. Thách thức lớn nhất đối với một phóng viên Mỹ ở Nam Việt Nam là tiếp cận được nơi có những cỗ máy sản xuất tin đồn như là những quán cà phê, chợ, v.v. Ở Sài Gòn về điều này, Shaplen phải phụ thuộc vào người bạn thân của ông là Phạm Xuân Ẩn: "Ông ấy được một tạp chí Mỹ tuyển dụng và có lẽ ông ấy là người làm việc chăm chỉ nhất, đồng thời là nhà báo Việt Nam được nể trọng nhất ở Sài Gòn… Phạm Xuân Ẩn là một nhà báo làm việc cho Mỹ, nhưng cũng được phía Việt Nam tin cậy. Sáng nào ông cũng lượn một vòng qua từ ba đến năm trung tâm sản xuất tin đồn trước khi tạt vào tiệm cà phê Givral; sau bữa trưa, ông đi dự các cuộc thông báo tin tức chính thức của phía Mỹ hoặc phía Việt Nam rồi trở lại tiệm cà phê Givral".
Shaplen trích một câu nói của Phạm Xuân Ẩn về phẩm chất nào giúp cho một nhà báo ở Sài Gòn làm việc có hiệu quả: "Để xây dựng các nguồn tin, cần phải mất nhiều thời gian. Phải thẳng thắn và chân thành và phải biết bảo vệ nguồn tin của mình. Người phóng viên cũng phải biết làm tốt cho nguồn tin những điều mà họ muốn, chẳng hạn như nói cho họ biết những điều họ muốn nghe, mời họ đi ăn trưa, ăn tối, dịp Tết thì tặng quà cho họ. Người Sài Gòn hoạt động theo kiểu các ngành các giới xã hội chơi với nhau. Nếu anh không có đủ phẩm chất của một giới nhất định, thì thậm chí anh sẽ không được chấp nhận vào cả những tiệm ăn của giới đó. Nếu anh vào được, thì mọi người ở đó cũng không thèm đếm xỉa đến anh. Là nhà báo phải giỏi để có thể cung cấp những thông tin bổ ích nhất cho họ. Bởi vì họ đến những nơi đó là để được nghe các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau".
Cho đến lúc trước khi trút hơi thở cuối cùng, Phạm Xuân Ẩn vẫn quả quyết rằng nghề tình báo không hề ảnh hưởng đến nghề làm báo của ông. Phạm Xuân Ẩn nói: "Làm việc cho Tạp chí Time cần phải khách quan. Nhận thức này cũng giúp cho tôi rất nhiều khi thực thi nghĩa vụ đối với dân tộc của mình. Báo chí Mỹ khác biệt so với bất cứ báo chí của nước nào mà tôi từng biết. Một phóng viên giỏi phải đưa tin một cách chính xác điều anh ta tận mắt trông thấy và tin rằng đó là đúng. Nhà báo không được duy ý chí. Do đó khi viết báo cáo gửi cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng, tôi luôn tự hỏi liệu mình có khách quan không nhỉ? Tôi đã học được rất nhiều từ ngày làm phóng viên và tôi cũng đã học được rất nhiều từ nước Mỹ. Nó giúp tôi mở ra phương pháp tư duy".
Dường như để chứng minh cho sự thuỷ chung của mình đối với Tạp chí Time, Phạm Xuân Ẩn thường nói rằng chính ông đã "cứu" Tạp chí Time khỏi rơi vào một số bẫy được cài sẵn để làm bối rối các phóng viên.
Cựu điệp viên CIA Frank Snepp, người đã có hai nhiệm kỳ công tác tại Sài Gòn với tư cách là nhà phân tích tình báo và là một sĩ quan. phản gián, đã chọn Shaplen làm mục tiêu để xì ra những thông tin thất thiệt trong một chiến dịch gây nhiễu thông tin do CIA tiến hành. Chiến dịch gây nhiễu thông tin này chỉ nhằm mục đích duy nhất là tạo ra những sự xuyên tạc cho báo chí đưa tin về Việt Cộng.
Phạm Xuân Ẩn kể với tôi rằng ông nhận được một bài đã viết sẵn về một nhóm Việt Cộng do mâu thuẫn nội bộ, nên có âm mưu lật đổ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Một số nhà báo ở Sài Gòn liền ăn phải bả đó, vội vàng lên đường đi đến một khu vực thuộc tỉnh Long Khánh gặp một đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng để được nghe thông báo về một âm mưa đảo chính ở tỉnh Sông Bé. Sau đó, nhà báo Pháp Jean Claude Pomonti đã viết một bài dài đăng trên trang nhất tờ Le Monde với tựa đề Một cuộc đảo chính trong rừng. Bài báo của này đã được rất nhiều hãng thông tấn trích dẫn lại. Nhưng đây chỉ là một kế hoạch của CIA cung cấp thông tin sai lạc để làm mất uy tín của các nhà báo. Phạm Xuân Ẩn nói với tôi rằng sau đó, nhà báo Pháp Jean Claude Pomonti biết mình đã sai nên rất ngượng và uy tín nghề nghiệp của ông ta bị giảm sút".
Trong vụ này, trưởng phân xã Tạp chí Time là Stanley Cloud đã từng định cử một vài phóng viên đi Long Khánh đưa tin, nhưng Phạm Xuân Ẩn đã ngăn cản Stanley Cloud vì biết rõ đó là tin giả. Phạm Xuân Ẩn hỏi Stanley Cloud rằng nếu giả sử có vụ đảo chính thật trong rừng, tại sao không ai biết? Khi bài viết của Jean Claude Pomonti được đăng tải, Stanley Cloud gọi Phạm Xuân Ẩn vào văn phòng của ông ta rồi gầm lên: "Tại sao, tại sao, tại sao chúng ta không có bài viết như vậy để đăng trên Tạp chí Time? Tại sao anh không đưa tin sự kiện này?". Lúc đó, Phạm Xuân Ẩn chỉ còn biết nói với Stanley Cloud rằng: "Các nguồn tin của tôi cho tôi biết rằng đó chỉ là tin giả và sự thật không hề có một cuộc đảo chính nào xảy ra trong rừng. Hãy tin tôi đi, tôi đảm bảo nguồn tin của mình là đúng". Khi tôi mang chuyện này đến hỏi Stanley Cloud và McCulloch, cả hai đều nói rằng đã từng có một vài lần Phạm Xuân Ẩn giục Stanley Cloud và McCulloch tránh viết những thông tin giả dưới dạng được cung cấp sai lạc một cách bài bản hoặc chỉ đơn giản là dựa trên một thông tin tồi.
Phạm Xuân Ẩn cảm thấy rất buồn khi ông đã không thể ngăn cản được bạn mình là nhà báo Pháp Jean Claude Pomonti đi vào trong rừng. Vài tháng sau, Phạm Xuân Ẩn đã giúp cho Pomonti được tiếp xúc với một phát ngôn viên thứ thiệt của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bằng cách bày cho Pomonti cách tìm được một vùng giải phóng. Theo Pomonti, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, nhiều phóng viên muốn được đến thăm "vùng giải phóng" của Việt Cộng để viết bài về "phía bên kia". Vào một buổi chiều, Phạm Xuân Ẩn đến thăm Pomonti tại phòng riêng ở khách sạn Continental. Hai người tán gẫu một hồi, trước khi ra về, Phạm Xuân Ẩn nói một cách bỗ bã rằng nếu Pomonti muốn khám phá một vùng Việt Cộng thì hãy theo đường bộ đến thành phố Mỹ Tho (cách Sài Gòn khoảng sáu mươi kilômét về phía nam). Nhưng trước khi đến Mỹ Tho, phải đi qua phà Mỹ Thuận. Trước khi đi đến bến phà, có một làng gọi là làng Mỹ Quí. Phạm Xuân Ẩn nói: "Người ta bảo rằng từ đây có lối sang "vùng Cộng sản". Ngày hôm sau, Pomonti cho biết nhóm nhà báo của ông đã tới được "vùng giải phóng Việt Cộng". Pomonti được chào đón bằng một băng rôn với dòng chữ "Chào mừng các nhà báo quốc tế". Pomonti đã lưu lại tại "vùng giải phóng" trong hai ngày và còn được xem biểu diễn sân khấu nghệ thuật. Phạm Xuân Ẩn giải thích: "Tôi phải giúp đỡ Pomonti lần thứ hai là để đền bù cho lần thứ nhất tôi đã không nói gì để ngăn cản ông. Tôi đã cứu Tạp chí Time khỏi sự rắc rối, nhưng nếu tôi cũng làm như vậy với Pomonti và để rồi chẳng có ai đi Long Khánh viết bài về sự kiện giả mạo, thì vỏ bọc của tôi đi tong".
Phạm Xuân Ẩn nói với người viết hồi ký Việt Nam của ông là Nguyễn Thị Ngọc Hải: "Thông thường, người ta chỉ có một nghề, nhưng riêng tôi có hai. Đó là nghề theo cách mạng và nghề làm nhà báo. Hai nghề này cực kỳ đối nghịch nhau, nhưng cũng cực kỳ tương tự nhau. Nhà tình báo cũng liên quan đến thu thập thông tin, phân tích tin, rồi giữ nó trong bí mật, bảo vệ tin tức ấy không khác gì mèo mẹ bảo vệ mèo con. Mặc khác, nhà báo cũng thu tập tin tức, phân tích nó rồi đưa lên phương tiện thông tin đại chúng cho toàn thế giới biết".
Tất cả những kỹ năng và tài năng này tự nó đã thể hiện trong cuộc đời gần như là tâm thần phân liệt của Phạm Xuân Ẩn trong suốt thời kỳ Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Ông Tư Cang nói và sau này, Phạm Xuân Ẩn cũng kể lại với tôi đúng như thế này: "Chúng tôi xuống một chiếc xuồng máy, hết chạy ngược lại chạy xuôi dọc sông Sài Gòn để điều tra những vị trí trạm xăng và trạm gác an ninh. Làm như vậy khá là nguy hiểm, nguy hiểm đến mức không thực sự cần thiết". Hai người còn lái xe vòng quanh Sài Gòn trên chiếc xe Renault màu xanh lá cây của Phạm Xuân Ẩn để xác định những mục tiêu dễ tấn công nhất. Phải có Phạm Xuân Ẩn chỉ đường mới tránh được hệ thống an ninh theo dõi. Trong thời gian hai người đi với nhau như vậy, Tư Cang đã báo tin cho Phạm Xuân Ẩn biết rằng ông đã được nhận một Huân chương về trận Ấp Bắc. Phạm Xuân Ẩn trả lời: "Tôi không bao giờ dám đeo tấm Huân chương đó cho đến khi nào cuộc chơi kết thúc. Tôi sẽ chỉ vui lòng đeo tấm Huân chương ấy vào ngày miền Nam được giải phóng". Cuối cùng, tướng Trần Văn Trà quyết định chọn năm mục tiêu chính gồm Dinh Tổng thống, phi trường Tân Sơn Nhất, Tổng nha Cảnh sát quốc gia, Bộ Chỉ huy các lực lượng đặc biệt Sài Gòn, và Trụ sở cơ quan Bộ Tổng tham mưu ở Sài Gòn. Nhóm mục tiêu thứ hai bao gồm Đài phát thanh Sài Gòn, Bưu điện thành phố, Đại sứ quán Mỹ, Bộ Tư lệnh Hải quân Sài Gòn, cùng các bến cảng, nhà kho, bất điện, các cơ sở hậu cần và các cơ quan chính phủ khác. Hầu hết những mục tiêu này đã được ông Tư Cang duyệt. Ông Tư Cang là người đã tham gia trong trận tấn công vào Dinh Tổng thống.
Phạm Xuân Ẩn biết mình sẽ phải chờ đợi để đưa tin về cuộc Tổng tấn công "bất ngờ" cho Tạp chí Time và giúp cho các phóng viên hiểu được điều gì đang diễn ra. Phạm Xuân Ẩn nhớ lại: "Đó là thời điểm rất khó cho tôi. Tôi đã biết quá nhiều và còn lo cho sự an toàn của gia đình tôi, rồi liệu cuộc nổi dậy đồng loạt có thắng lợi hay không? Thậm chí tôi đã phải dàn xếp để cho gia đình tôi đến ở tại nhà của Marcus Huss nếu cần". Huss là sĩ quan liên lạc chính người Mỹ với Chính phủ Việt Nam Cộng hoà về bình định. "Tôi cũng biết rằng tôi cần có mặt để giúp cho các đồng nghiệp hiểu sự thật điều gì đang diễn ra, nhưng tôi cũng còn phải viết báo cáo về cuộc Tổng tấn công để gửi vào trong rừng".
Sáng sớm ngày 31/1/1968, khoảng 80.000 lính chính qui quân đội Bắc Việt Nam và các du kích đã đồng loạt tấn công vào hơn 100 thành phố và đô thị trên toàn miền Nam. Tết đã diễn ra các cuộc tấn công của đối phương vào 35 trong tổng số 44 tỉnh lị và 36 huyện lị cùng nhiều làng mạc, thôn, ấp. Bốn tuần trước khi diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, các lực lượng đối phương đã mặc thường phục thâm nhập Sài Gòn chuẩn bị cho một chiến dịch được lên kế hoạch kỹ lưỡng. Mục đích là để chứng tỏ rằng không chỉ ở nông thôn không thể bình định được, mà giờ đây ở các đô thị miền Nam, kể cả Sài Gòn, cũng không còn là nơi an toàn. Nhà báo William Tuohy, từng được nhận giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1968 vì đưa tin từ Việt Nam, đã cung cấp thông tin nóng hổi về trận đánh: "Một chiếc xe tải chất đầy cảnh sát Mỹ bị bắn gục chết ngay bên ngoài phi trường Tân Sơn Nhất. Khắp thành phố chỗ nào cũng thấy đổ nát. Một nhóm Việt Cộng đang khống chế lực lượng cảnh sát quốc gia tại một toà nhà chỉ cách Dinh Độc lập một tầm ném lựu đạn". Bên trong Sài Gòn, một số đơn vị của bên tấn công đã chiếm được Đài phát thanh trong nhiều giờ, đồng thời tấn công Đại sứ quán Mỹ, một phần của Dinh Độc lập, các cổng 4 và 5 của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Việt Nam Cộng hoà.
Trên trang nhất báo New York Times đăng tấm ảnh chụp toà nhà Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn đang bị tấn công. Các du kích đã mở được đường tiến vào bên trong toà Đại sứ quán Mỹ và chiếm giữ một phần trong khuôn viên toà Đại sứ quán trong suốt gần sáu giờ liền. Tất cả mười chín du kích đều bị thiệt mạng cùng với bốn lính cảnh sát quân sự, một lính thuỷ đánh bộ, một nhân viên người Nam Việt Nam làm việc trong Đại sứ quán. Trận tấn công vào Dinh Độc lập vốn được xây dựng vững chắc như một pháo đài do ông Tư Cang chỉ huy. Cựu phóng viên ngoại giao của tờ Washington Post là Don Oberdorfer viết: "Quân Việt Cộng rút vào cố thủ trong toà nhà căn hộ đang xây dựng chưa hoàn thiện nằm đối diện bên kia phố, chiếm giữ ở đó trong hơn mười lăm giờ, chiến đấu cho đến khi gần như tất cả đơn vị nhỏ đó bị tiêu diệt".
Ông Tư Cang là tay thiện xạ nổi tiếng. Phạm Xuân Ẩn kể: "Ông ấy có thể bắn súng K-54 bằng cả hai tay, mỗi giây một phát và không bao giờ trượt mục tiêu. Ông Tư Cang luôn bỏ vào trong túi áo một viên đạn để dành riêng cho mình nếu cần. Khi cuộc tấn công vào Dinh Độc lập bị đẩy lùi, Tư Cang nhận thấy mình đang ở trong một toà nhà đối diện với Dinh Độc lập. Ông kể: "Từ chỗ tôi đang ẩn náu, tôi nhìn thấy rõ bên toà nhà đối diện với toà nhà tôi đang ở anh em bộ đội đặc công của chúng tôi đang chống cự. Một nhóm sĩ quan Mỹ và nguỵ đang gào thét chỉ đạo binh lính của họ tấn công vào toà nhà đó. Tôi tự nhủ, nếu làm điều gì để gây gián đoạn cuộc triển khai quân của đối phương, chắc các anh em đặc công của chúng tôi có thể chạy thoát được. Tuy nhiên, tôi cũng biết rằng việc nổ súng đối với một sĩ quan tình báo là điều phải cân nhắc cực kỳ thận trọng. Bởi vì, nếu một tình báo viên bị lộ, rất có thể toàn bộ mạng lưới tình báo mà chúng tôi phải mất nhiều năm để xây dựng bỗng trở nên vô hiệu. Sau khi phân tích tình hình một cách thận trọng, tôi rút súng nhằm vào hai sĩ quan Mỹ bắn nhanh hai phát và sau đó rút vào nơi trú ẩn". Ông Tư Cang sau này được thưởng vì đã bắn chết hai sĩ quan Mỹ.
Ngày 1/2/1968 Walter Cronkite của Đài truyền hình Mỹ CBS đã dành thời lượng một phút để nói về trận chiến tại Dinh Tổng thống. Những khẩu súng ngắn mà ông Tư Cang dùng trong dịp Tết ngày nay đang được trưng bày bên cạnh chiếc xe Renault tại Bảo tàng Quân đội ở Hà Nội để ghi nhận công lao của hai người này trong thời kỳ Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Khi các lực lượng Cộng sản nhận được mệnh lệnh chung "Tiến lên giành thắng lợi cuối cùng", Việt Cộng đã bị thương vong nhiều trong Tết Mậu Thân. Về điều này ông Trần Văn Trà phải chịu một phần trách nhiệm. Tướng Trần Văn Trà viết: "Điểm yếu và thiếu sót của chúng ta là ở chỗ chúng ta không có khả năng tiêu diệt được nhiều lực lượng và các nhà lãnh đạo tối cao của đối phương. Các cuộc hành quân đã chưa đủ hiệu quả để làm đòn bẩy cho sự nổi dậy của quần chúng nhân dân… Tuy nhiên, các cuộc tấn công của chúng ta đã tác động đến hệ thống thần kinh trung ương của địch, làm mất ổn định các cơ sở kinh tế, chính trị và quân sự của địch trên toàn miền Nam Việt Nam". Don Oberdorfer cho rằng, trong trận Tổng tấn công này, phía Việt Cộng mất một nửa lực lượng tham chiến và có lẽ tương đương với một phần tư toàn lực lượng chính qui của họ. Chắc phải mất nhiều năm họ mới có thể phục hồi được như trước. Don Oberdorfer nói: "Việt Cộng đã mất một thế hệ quân kháng chiến, và sau Tết, miền Bắc Việt Nam đã phải đưa vào Nam số lượng quân tăng lên rất nhiều để bù đắp vào chỗ thiếu hụt. Cuộc chiến tranh ngày càng phát triển thành một cuộc chiến tranh thông thường và ít dần đi những cuộc nổi dậy". Tuy nhiên, cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân đã trở thành một trận đánh mang tính chất quyết định của cuộc chiến tranh, bởi vì nó đã tác động mạnh lên nền chính trị và thái độ của công chúng Mỹ đối với cuộc chiến tranh đó. Cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân còn mở đầu một chuỗi sự kiện đáng kể, bao gồm các cuộc thảo luận như có nên dùng vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Khe Sanh hay không? Vì tại Khe Sanh, các trận đánh vu hồi ác liệt vẫn thường diễn ra. Vào thời điểm đó, tướng Westmoreland đề nghị bổ sung 206.000 quân. Để đáp ứng được nhu cầu của ông ta, Mỹ phải cam kết đưa vào Việt Nam số quân lên tới 750.000 người, thế mà Sài Gòn vẫn chưa an toàn tránh khỏi các cuộc tấn công. Qui mô của cuộc chiến tranh và khả năng duy trì cuộc chiến tranh đó được kiểm soát không phải là do sự vượt trội về kỹ thuật của Mỹ, mà là do đối phương. Trong ý chí tiếp tục cuộc chiến tranh của đối phương không hề có một điểm dao động hay suy sụp mơ hồ nào. Ngay từ tối ngày 27/2, Walter Cronkite của Truyền hình CBS đã nói với khán giả Mỹ rằng, cuộc chiến tranh đang đi tới một sự kết thúc trong bế tắc. "Chúng ta đã từng quá nhiều lần bị thất vọng bởi sự lạc quan của các nhà lãnh đạo Mỹ cả ở Nam Việt Nam lẫn Washington, nên không còn tin rằng có thể tìm thấy cái may trong cái rủi tồi tệ nhất nữa. Giờ đây, tình hình càng trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết rằng cuộc thí nghiệm đẫm máu ở Nam Việt Nam sắp kết thúc trong bế tắc. Nói rằng chúng ta đã sa vào vũng bùn bế tắc, có lẽ đó mới là một kết luận thực tế, tuy chưa làm chúng ta hài lòng".
Về hậu quả của cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, Phạm Xuân Ẩn có rất nhiều việc phải làm với tư cách một nhà báo. Ông đã đưa Bob Shaplen đi khắp Sài Gòn, cung cấp các chi tiết về việc bằng cách nào Việt Cộng đã có thể thâm nhập thành phố với số lượng lớn mà không bị phát hiện. Trong bài viết của Shaplen đăng trên tờ New Yorker ngày 2/8/1968, về thực chất là sự chắt lọc cái nhìn bên trong của Phạm Xuân Ẩn. Nếu ai có thể giúp làm sáng tỏ những câu hỏi của Shaplen về sự thâm nhập của Việt Cộng, thì người đó chỉ có thể chính là nhân vật đã giúp phối hợp vạch kế hoạch tấn công mà thôi.
Shaplen viết về một đội gồm mười hai lính đặc công tấn công các chỉ huy sở hải quân dọc sông Sài Gòn. Đó chính là những cơ sở mục tiêu mà ông Tư Cang và Phạm Xuân Ẩn đã kiểm tra chỉ vài ngày trước khi diễn ra cuộc Tổng tấn công. Mô tả cuộc Tổng tấn công "là táo bạo nhất từ trước đến nay", Shaplen viết rằng cuộc tấn công đã được thiết kế nhằm chiếm các toà nhà tổng hành dinh, triển khai ba khẩu súng máy trên nóc nhà nhằm vô hiệu hoá những tàu thuyền hải quân, sau đó "cướp ngay những tàu thuyền này để dùng làm phương tiện vận chuyển hai tiểu đoàn Việt Cộng từ một vùng đất xa vào thành phố. Nếu kế hoạch này thành công, nó sẽ tác động khá mạnh lên toàn bộ tình hình ở Sài Gòn. Khi cuộc tấn công mới bắt đầu, các đặc công Cộng sản đã giết chết ba lính gác hải quân và phá thủng một lỗ bên toà nhà tổng hành dinh. Nhưng cuối cùng, tất cả mười hai lính đặc công đều bị giết hoặc bị bắt".
Ông Tư Cang nhớ lại: "Vâng, đó là một phần trong nhiệm vụ chúng tôi được giao. Chúng tôi đã kiểm tra từ trên sông, đã báo cáo về những loại tàu thuyền khác nhau và báo cáo đánh giá của chúng tôi về khả năng phòng vệ của các tàu thuyền đó".
Phần lớn công việc trong khi vạch kế hoạch cho các trận tấn công vào Dinh Độc lập và các cơ sở của hải quân là việc của Tiểu đoàn C.10. Khi tôi hỏi Phạm Xuân Ẩn về việc, bằng cách nào mà ông và ông Tư Cang lại có thể đi lại trên sông mà không hề gây ra sự nghi ngờ nào, Phạm Xuân Ẩn đáp: "Mọi người đều biết tôi, và chúng tôi đi giữa ban ngày, nếu có ai thấy chúng tôi, chắc họ sẽ nghĩ tôi đang đi viết bài. Nhưng vào thời điểm đó, có rất nhiều tình báo viên gửi báo cáo về không chi riêng tôi. Đó là điều rất nguy hiểm đối với chúng tôi lúc đó.
Phạm Xuân Ẩn và Tư Cang đều rất nhấn mạnh đến các phân tích của Phạm Xuân Ẩn về tình hình sau Tết Mậu Thân. Ông Tư Cang nói : "Sau giai đoạn đầu của của cuộc Tổng tấn công, từ Sài Gòn tôi đã gửi một báo cáo lên các cán bộ lãnh đạo cấp cao, nói rằng tình hình tương đối không thuận lợi. Nhưng sau khi được Hai Trung dẫn đi một vòng, tôi thay đổi ý kiến ngay".
Trên thực tế, Phạm Xuân Ẩn đã được dự tất cả những cuộc thông báo tin tức quân sự về tình hình an ninh ở Sài Gòn, diễn biến trận đánh, và phản ứng của Mỹ đối với các cuộc tấn công. "Tôi là người duy nhất viết báo cáo rằng chúng ta đã giành được thắng lợi về tâm lý, rằng chúng ta mất mát về người, nhưng chúng ta thắng. Tôi cần phải giải thích tại sao lại như vậy. Báo cáo của tôi có bi quan ở một đoạn tôi nói về việc quân ta không tràn được sang phía bên kia và rằng chúng ta đã mất rất nhiều quân. Tôi cũng báo cáo rằng các chỉ huy Lữ đoàn của ta đã thể hiện tốt vai trò của họ. Xét về mặt chiến thuật, chúng ta không thắng, nhưng về mặt chính trị, chúng ta thắng. Khi ông Tư Cang nghe được tất cả những điều này, ông ấy đã thay đổi ý kiến và sau đó cũng đưa tất cả những nội dung này vào các báo cáo".
Phạm Xuân Ẩn có được tư duy như vậy là do ông nắm bắt được tâm tư của người bạn ông, tướng Trần Văn Đôn của Quân đội Việt Nam Cộng hoà cùng một số người khác. Phạm Xuân Ẩn nhớ lại: "Tôi có thể nói rằng tinh thần của Quân đội Việt Nam Cộng hoà sau Tết Mậu Thân xuống rất thấp. Người ta bắt đầu đặt ra hàng loạt câu hỏi về việc liệu Mỹ có rời bỏ Nam Việt Nam hay không. Thật buồn cười, tôi nhớ rất rõ là sau Tết Mậu Thân, tướng Trần Văn Đôn trở nên lo sợ rằng người Mỹ sẽ phải sớm rút đi vì áp lực của dư luận ở Hoa Kỳ. Trần Văn Đôn đến gặp tôi và tôi đã làm cho ông ta yên lòng bằng những thông tin giống như tôi đã gửi vào trong rừng rằng: "Đừng lo, các ông đã giành được thắng lợi về mặt quân sự trong trận Tổng tấn công này. Rất nhiều người đã bị chết và sẽ không còn nổi dậy đồng loạt nữa. Người Mỹ sẽ không đi đâu. Tôi đảm bảo rằng họ sẽ ở lại trong nhiều năm, nhiều năm nữa". Tôi cũng đã báo cáo với cấp trên của tôi cùng nội dung như vậy. Chỉ có điều, trong báo cáo gửi cho cấp trên, tôi thêm phần đánh giá về yếu tố tâm lý, đồng thời bày tỏ tin tưởng rằng dư luận ở Mỹ sẽ giúp chúng ta về lâu dài".
Khi cuộc phỏng vấn của tôi với ông Tư Cang sắp kết thúc, ông Tư Cang nói với tôi rằng: "Phạm Xuân Ẩn đã thực sự đóng góp vào những sự thay đổi lớn lao bắt nguồn từ kết quả của cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Chẳng bao lâu sau, tướng Westmoreland bị thay thế, Tổng thống Lyndon Johnson phải về vườn và Hoa Kỳ phải bắt đầu các cuộc đàm phán hoà bình.
Tất cả những điều này đang thay đổi theo hướng có lợi cho phía chúng tôi. Phạm Xuân Ẩn đã góp phần vào việc lần ra manh mối về toàn bộ kế hoạch chiến tranh của Mỹ. Những báo cáo của Phạm Xuân Ẩn là một chìa khoá để hiểu việc Johnson phải đi tới Paris tìm kiếm hoà bình".
Làn sóng thứ hai về loạt tấn công có kế hoạch gần gũi với cuộc Tổng tấn công và nổi dậy bắt đầu từ ngày 4/5/1968 bằng hàng loạt cuộc tấn công vào 119 cơ sở, thị trấn, thị xã và thành phố miền Nam. Các đơn vị đặc công và trọng pháo hạng nặng đánh vào các mục tiêu như Dinh Tổng thống, nhà riêng của Đại sứ Mỹ, Văn phòng Đại sứ quán Mỹ. William Touhy viết: "Chính phủ đã có một thời kỳ rất khó khăn trong tháng năm mà không nhổ được hết rễ của Việt Cộng. Việt Cộng đã cắm được một lá cờ của họ trên cầu chữ Y. Sở dĩ gọi tên cầu như vậy là vì đoạn giữa cây cầu được tách ra làm đôi bắc qua một con kênh ranh giới phía nam của Chợ Lớn". Loạt tấn công này được gọi là Tết Mậu Thân lần thứ hai, cũng có đặc điểm là đột nhập thành công vào khu vực Chợ Lớn. Tại đây, trong ngày đầu tiên của trận đánh, bốn nhà báo của Reuters và Tạp chí Time bị Việt Cộng bắn chết. Một người bạn của Phạm Xuân Ẩn là phóng viên Tạp chí Time John Cantwell đã thiệt mạng cùng với Michael Birch của Hãng tin Australia AAP, Ronald Laramy của Reuters, và Bruce Pigott - trợ lý của Trưởng phân xã Reuters tại Sài Gòn. Nhóm phóng viên này đang ngồi trên xe Jeep thì nhìn thấy một cột khói từ phía Chợ Lớn bốc lên. Họ nhằm hướng cột khói để tiến lên thì gặp một dòng người đang chạy trốn Việt Cộng theo hướng ngược lại. Các phóng viên trong xe Jeep tiếp tục tiến lên, không thèm để ý gì đến những lời cảnh báo cho đến khi xe của họ tiến đến một giao lộ trống rỗng cũng là lúc đám nhà báo đối mặt với một đơn vị vũ trang Việt Cộng. Lúc đó, Cantwell đang cầm lái cố tìm cách cho chiếc Jeep quay đầu nhưng đã quá muộn. Một chỉ huy của Việt Cộng bước lại gần chiếc xe Jeep. Birch kêu to lên bằng tiếng Việt từ "Báo chí". Người chỉ huy Việt Cộng đáp lại hai từ "Báo chí" một cách hoài nghi, rồi nổ ba phát đạn 0.45 mm.
Khi tôi hỏi về những cái chết này, về vụ ông Tư Cang giết người Mỹ, về cái chết của những người Mỹ và người Nam Việt Nam trong các trận tấn công hồi Tết Mậu Thân, cũng như những lời mà đơn vị tình báo cụm H.63 của ông từng khoe đã giết chết được nhiều lính Mỹ, Phạm Xuân Ẩn quả quyết rằng chưa bao giờ có ai từng nhìn thấy ông làm đau một người nào. Khi tôi bảo với Phạm Xuân Ẩn rằng những chuyện này là có thật và người ta đã bị chết, ông đáp: đây là "những thương vong của chiến tranh". Tôi cố dồn ép tiếp thì Phạm Xuân Ẩn chọn cách gạt bỏ các câu hỏi của tôi, coi đó là quá đà và lạc đề. Ông nói hơn một lần rằng: "Đây là những người bạn của tôi, tôi không làm đau họ, nhưng trong chiến tranh những điều khủng khiếp đã xảy ra đối với nhiều người dân vô tội. Tôi đang bảo vệ đất nước tôi".
Sau đó, Phạm Xuân Ẩn bảo tôi đến hỏi Rufus Phillips về cái ngày họ cùng nhau đến thăm nơi tàn sát rất nhiều người vô tội trong vùng thuộc chương trình hợp tác "vành đai thép" của Westmoreland. Chương trình này được thiết kế năm 1964 là một phần trong các nỗ lực bình định của MACV. Westmoreland viết trong cuốn hồi ký của ông mang tựa đề Tường trình người lính như sau: "Chương trình hợp tác vành đai thép được thiết kế nhằm mở rộng an ninh, sự kiểm soát của chính phủ và dịch vụ - bình định - dần dần từ Sài Gòn sẽ mở rộng ra sáu tỉnh, tạo thành hình cổ ngựa gần thành phố. Khi các lực lượng lớn hơn của đối phương bị dần dần đẩy ra xa thành phố, các cuộc tuần tra và phục kích dầy đặc sẽ giúp tăng cường an ninh. Điều này tiếp tục cho đến khi nào nhiệm vụ này có thể được chuyển giao cho lực lượng dân phòng và một lực lượng cảnh sát mở rộng. Vì là những vùng an toàn, nên các cơ quan dân sự có thể được chuyển vào đây để được hường các dịch vụ và kiểm soát của chính phủ, mỗi cá nhân sẽ được cấp một thẻ căn cước, khu vực được cảnh sát canh gác cùng những dịch vụ khác như trường học, giếng khơi, trạm phát thuốc, chăm sóc y tế. Y tưởng này nhằm tạo ra một mức sống cao hơn nhiều so với khả năng cung cấp của Việt Cộng. Trên thực tế, ý tưởng này còn được gọi là khái niệm vết dầu loang".
Phạm Xuân Ẩn gặp may vì Westmoreland đã tạo ra một Hội đồng Hợp tác bao gồm sự phối hợp toàn diện của các cơ quan dân sự và quân sự. Nhiều tổ chức cử đại diện vào tham gia Hội đồng. Trong số những đại diện này có cả các mối quan hệ nguồn tin của Phạm Xuân Ẩn đang làm việc ở các cơ quan như Bộ Nội vụ, Cảnh sát Quốc gia, và cả Tổ chức Tình báo Trung ương miền Nam Việt Nam (CIO). Nhờ đó mà Phạm Xuân Ẩn có thể giúp Hà Nội cập nhật mọi thông tin liên quan đến các nỗ lực về bình định. Có lẽ đây chính là lý do mà ông Mai Chí Thọ xác định như là sự đóng góp to lớn nhất của Phạm Xuân Ẩn.
Phạm Xuân Ẩn đưa Phillips ra vùng ngoại ô Chợ Lớn, nơi đêm trước trong một cuộc phục kích, Việt Cộng đã tiêu diệt toàn bộ các lực lượng tự vệ. Phililips nhớ lại: "Khi chúng tôi tới đó, những người sống sót vẫn còn đang bị dồn vào trong cái pháo đài bé nhỏ này". Cuộc tấn công diễn ra bên trong Vành đai thép của Chương trình Hợp tác. Điều đó chứng tỏ rằng, trong khu vực này cũng chẳng có an ninh. Đó là một vùng đất hoang. Ngày hôm sau, chuẩn tướng Fritz Freund cùng với Phạm Xuân Ẩn và Phillips trở lại thăm lần nữa mới thấy rõ thực tế ở đây rất thiếu một sự phối hợp về mặt quân sự. Sau này, Phạm Xuân Ẩn nói với tôi rằng khu vực đó đã được Việt Cộng sử dụng như là nơi tập kết chung cho cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Chính Phạm Xuân Ẩn đã gợi ý cho việc sử dụng như vậy. "Còn có nhiều nơi nữa tôi có thể dẫn Rufus tới, nhưng đây là nơi rất buồn, bởi vì người dân vô tội cũng bị giết hại. Tôi chỉ điều này cho tướng Rufus vì ông ấy cần biết rằng người vô tội cũng bị giết hại và như vậy thì các chương trình này làm gì có chuyện đảm bảo an ninh", Phạm Xuân Ẩn nói.
Tôi cố trở lại vấn đề tôi muốn biết. Phạm Xuân Ẩn đã giúp đỡ ông Tư Cang vạch kế hoạch cho trận tấn công vào Dinh Tổng thống và ông Tư Cang, Chỉ huy trưởng Đơn vị Anh hùng H.63, từng được khen thưởng vì đã giết được người Mỹ hôm đó. Vậy ông Phạm Xuân Ẩn có cảm thấy mình phải chịu phần trách nhiệm nào không?
Phạm Xuân Ẩn trả lời: "Không, không có điều như ý của giáo sư đâu. Tôi đã chỉ cho ông Tư Cang những nơi dễ tấn công nhất. Đó là nhiệm vụ của tôi. Tôi không có vũ khí và mọi người đều biết tôi chẳng có thể bắn được ai".
Tôi không thể đi xa hơn vấn đề này nữa với Phạm Xuân Ẩn, vì tôi biết ông vẫn còn cảm thấy đau đớn bởi lá thư của một đồng nghiệp Tạp chí Time trước đây tên là Zalin Grant viết năm 2005 gửi cho tờ New Yorker. Trong lá thư này, Zalin Grant đã buộc tội Phạm Xuân Ẩn thế này: "Trong khi làm gián điệp cho Bắc Việt Nam, Phạm Xuân Ẩn đã biến các phóng viên của Tạp chí Time thành một mạng lưới tình báo không cố ý cho Hà Nội. Tạp chí Time có các nguồn tin cao cấp thường cung cấp những thông tin mật với điều kiện phải được giữ kín và chỉ được sử dụng để hiểu bối cảnh. Nội dung của các cuộc thông báo tin tức bí mật được lưu hành nội bộ trong một ấn phẩm gọi là sổ tay Tạp chí Time. Sổ tay này được coi là nhạy cảm đến mức, số lượng in cũng chỉ rất hạn chế. Sau khi các trưởng ban biên tập đọc xong phải gửi trả lại. Sổ tay Tạp chí Time đăng nhiều chuyện tầm phào vô dụng, nhưng đồng thời cũng có những thông tin giá trị như vàng. Đó là những báo cáo của người trong cuộc từ Nhà Trắng, từ Bộ Ngoại giao, và từ Lầu Năm Góc. Cuốn sổ tay này được lưu hành đến các phân xã của Tạp chí Time trên khắp thế giới cùng với những điều kiện thận trọng về bảo mật như ở tổng xã. Với tư cách phóng viên Tạp chí Time, Phạm Xuân Ẩn đã tiếp cận được tài liệu này. Tôi thường thấy Phạm Xuân Ẩn ghi chép từ các báo cáo mật của phân xã trưởng Tạp chí Time ở Sài Gòn. Những báo cáo này bao gồm cả nội dung các buổi thông báo tin tức của các tướng lĩnh như William Westmoreland và Creighton Abrams và các Đại sứ Henry Cabot Lodge và Ellsworth Bunker đề cập đến những cuộc hành quân bí mật và chiến lược dự kiến cho các tuần trong tương lai. Sau đó, Phạm Xuân Ẩn có thể đột nhiên biến mất không dặn lại một lời nào, rất có thể để thông báo cho các đồng chí của ông trong các địa đạo ở Củ Chi. Tôi đã thường hỏi các nhà báo Mỹ, những người vẫn khăng khăng cho rằng Phạm Xuân Ẩn vắng mặt là đi tìm sự lãng mạn. Việc chống chiến tranh Việt Nam là một chuyện - nhiều người trong chúng ta đều chống chiến tranh - nhưng bày tỏ sự khâm phục vô điều kiện đối với một người đã từng dành phần lớn cuộc đời mình giả vờ làm nhà báo để đi giúp cho việc giết người Mỹ thì lại là một chuyện khác".
Frank McCulloch rất thất vọng về những lời buộc tội nói trên đối với Phạm Xuân Ẩn đến mức ông phải viết một bài về quan điểm riêng của mình để gửi cho báo New Yorker. Bài của McCulloch không được toà báo cho đăng tải, nhưng tác giả đã gửi cho tôi một copy như sau: "Việc trước đây và hiện nay tôi vẫn tôn trọng Phạm Xuân Ẩn không có liên quan gì đến việc ông ấy là một người Cộng sản và tất cả những gì thuộc sự toàn vẹn của ông, nghề tình báo của ông và tình yêu nước cháy bỏng của ông… Nhất định là tôi không có lý do gì để nghi ngờ ông và không hề biết gì cho đến khi vai trò tình báo cộng sản của ông chấm dứt sau chiến tranh. Ngày đó, tôi đã cho qua và hiện nay tôi vẫn cho qua vì hai lý do: Một là, những bài viết của Phạm Xuân Ẩn chưa bao giờ gợn lên điều gì trùng hợp với quan điểm của cộng sản - và tôi tha thiết mong rằng những hồ sơ cũ được thanh tra để kiểm chứng điều đó. Hai là, bây giờ giả thiết ngược lại rằng không phải Mỹ đưa nửa triệu quân vào Việt Nam nữa, mà là hơn nửa triệu lính Việt Nam đổ dồn về một khu vực rộng bằng California - một bang của Mỹ có diện tích tương đương Việt Nam - và chúng ta không tin cái lý do họ đưa ra về sự có mặt của họ ở đó chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Đó là đất nước của ông ấy chứ không phải là đất nước của chúng ta, nhưng mỗi một sai lầm đều khiến chúng ta phải trả giá đắt. Trước đây tôi đã không, và hiện nay vẫn không tán thành hệ tư tưởng của ông Phạm Xuân Ẩn, nhưng tôi từ chối thay đổi niềm tin của mình rằng Phạm Xuân Ẩn có toàn quyền giữ hệ tư tưởng của ông".
Liên quan đến ấn phẩm sổ tay bí ẩn của Tạp chí Time, "đó chính là ấn phẩm thư Washington hàng tuần do phân xã Washington ấn hành để cung cấp thông tin, để hướng dẫn và làm tiêu khiển của các trưởng ban biên tập của Tạp chí Time. Tôi không nhớ rõ tại Sài Gòn chúng tôi đã nhận được bao nhiêu bản tài liệu đó nhưng nếu chúng tôi nhận được ít thì chẳng qua chỉ là tổng xã không có đủ số bản để cung cấp cho khắp nơi mà thôi. Khoảng 90% nội dung ấn phẩm này sau đó được in trong Tạp chí Time. Do vậy, nếu có chi tiết nào giá trị về cộng sản ở trong đó mà người ta muốn biết, thì người ta chỉ đơn giản là đặt mua ấn phẩm đó. Nói một cách hoàn toàn thẳng thắn và chân thực về điều này là sở dĩ chúng tôi phải thận trọng về mặt phát hành, chẳng qua chỉ là vì chúng tôi không muốn người của Newsweek trông thấy mà thôi".
Tiếp theo cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, Phạm Xuân Ẩn nói với tôi ông ấy bị CIA tiếp cận mời làm việc cai quản một trại chăn nuôi bò thịt và bò sữa ở Tây Ninh, giữa chiến khu B và vùng C vốn được biết đến như là một vùng thâm nhập của Việt Cộng. Nếu chấp nhận, Phạm Xuân Ẩn sẽ đóng vai một quí ông nông dân, trách nhiệm trong chăn nuôi bò của ông là trông coi công nhân và viết báo cáo. Phạm Xuân Ẩn rất lo về lời mời này, bởi vì nếu chấp nhận, ông sẽ phải rời bỏ Tạp chí Time và trở thành một điệp viên hai mang, một nghề mà ông không thích làm. Người ta nói là ông khước từ lời mời của CIA để trở về với chúng tôi. Điều này có nghĩa là Phạm Xuân Ẩn đã có lối thoát. Phạm Xuân Ẩn nói: "Tôi quyết định không xin ý kiến cấp trên của mình về việc có nên chấp nhận lời mời hay không, bởi vì tôi không thích làm việc như một điệp viên hai mang".
Nghĩ rằng có lẽ Phạm Xuân Ẩn không thích làm một ông chủ trang trại chăn nuôi bò, nên lại chính nhân viên CIA đã từng tiếp cận ông trước đây nay tiếp tục đưa ra gợi ý rằng Phạm Xuân Ẩn mở một nhà máy đồ hộp ở Nha Trang và Vũng Tàu, cũng giống như đề nghị lần trước, mục đích là để giám sát các hoạt động nếu có của Việt Cộng. Nếu chấp nhận thì công việc của ông chỉ là quan sát hoạt động trong đám ngư dân cập cảng để bán cá. Vì lúc đó CIA đang cố gắng xác định xem những thuyền nào bị sử dụng để chuyên chở vũ khí thâm nhập miền Nam. Phạm Xuân Ẩn cũng nhanh chóng khước từ lời mời này.
Một lời mời gây tò mò khác do CIO đưa ra với ông Phạm Xuân Ẩn ngay sau khi ký kết Hiệp định Paris năm 1973. Biết rằng phái đoàn của Chính phủ Cách mạng lâm thời (PRG) đang ở tại một khách sạn gần đó nay là Khách sạn Hyatt, CIO liền ấp ủ một kế hoạch đặt thiết bị điện tử nghe trộm tiệm cà phê Givral. CIO tin chắc sẽ thu được những thông tin quí giá từ các cuộc chuyện trò của các đại biểu của Chính phủ Cách mạng Lâm thời liên quan đến các kế hoạch thành lập "chính phủ liên hợp" của họ. Givral là tiệm cà phê của tư nhân, nên CIO muốn vợ ông Phạm Xuân Ẩn đứng ra mua lại tiệm cà phê Givral bằng tiền của CIO. Phạm Xuân Ẩn không muốn tham gia phần nào trong kế hoạch này, tuy nhiên việc đặt máy nghe trộm tiệm cà phê Givral vẫn được tiến hành. Theo đó, một phần của tiệm cà phê Givral sẽ được sửa chữa nâng cấp thành quầy kem và cà phê sữa nhằm che đậy mục đích thực sự là đặt thiết bị nghe trộm. Phạm Xuân Ẩn nói: "Đó là cách dễ bị bắt. Chẳng ai có thể bảo vệ cho anh, mà anh phải biết tự bảo vệ cho mình". Hầu hết các đồng nghiệp của tôi đều cho rằng, có những lúc này, lúc khác, Phạm Xuân Ẩn có thể cũng đã từng làm việc trong một số vai trò nào đó cho CIA.
Ông Richard Pyle, Trưởng phân xã Hãng tin AP tại Sài Gòn từ năm 1970-1973 nhớ lại rằng, hằng ngày từ chiếc bàn quen thuộc của Phạm Xuân Ẩn ở trong tiệm cà phê Givral, "Phạm Xuân Ẩn chia sẻ các mẩu tin, những phân tích về tình hình chính trị rối rắm của Sài Gòn, cũng như bộ máy tổ chức của Phủ Tổng thống cho các thính giả là những môn đệ của ông đang chú ý lắng nghe, nuốt lấy từng lời. các môn đệ này của Phạm Xuân Ẩn chẳng phải ai khác là những phóng viên người Việt Nam làm việc cho các toà báo và hãng thông tấn nước ngoài. Rời tiệm cà phê Givral, họ trở về trụ sở toà báo của mình với những tin tức mới nhất từ người trong cuộc do "các nguồn tin" của họ cung cấp. Chẳng có chút bí mật nào về việc các thông tin đến từ đâu, nên đội quân báo chí thường trực hay nói đùa rằng bất cứ ai có liên hệ với Phạm Xuân Ẩn chắc phải là người của CIA".
Việc CIA có ý định tuyển mộ Phạm Xuân Ẩn là rất logic. Ai cũng biết trong các tổ chức công đoàn lao động thân chính phủ có đầy người của Cộng sản. Các tổ chức công đoàn lao động này là cái thùng chứa những người thâm nhập. Một nhân viên CIA hỏi Phạm Xuân Ẩn rằng ông có muốn làm việc dưới vai trò nguỵ trang là chuyên trách đưa tin về công đoàn hay không? Nếu đồng ý, chỉ cần ông để mắt tới những hoạt động đáng nghi vấn của Việt Cộng là đủ. Đổi lại, CIA sẽ cung cấp cho Phạm Xuân Ẩn những thông tin giật gân gây chấn động nhằm tạo điều kiện cho ông nâng cao uy tín của mình tại Tạp chí Time. Phạm Xuân Ẩn nói với tôi rằng ông đã từ chối lời mời này của CIA, viện cớ rằng ông đã có những nguồn tin tốt rồi, nhưng thực tế là ông biết rõ làm công việc đó là quá nguy hiểm cho vỏ bọc của ông.
Phạm Xuân Ẩn hồi tưởng lại một quá trình dài ông tiếp xúc với các mối quan hệ CIA của mình. Bắt đầu là với Lansdale, sau đó lần lượt là với Conein, Phillips. Sau cuộc đảo chính bất thành năm 1960 nhằm lật đổ Ngô Đình Diệm, Trưởng đại diện CIA William Colby đã khuyến nghị với bác sĩ Trần Kim Tuyến tạo ra một cơ quan tình báo trung ương của Nam Việt Nam. Trần Kim Tuyến chỉ mời những người nào mà ông ta biết chắc là ông ta trông cậy được vào nhóm hoạch định. Tất nhiên, Phạm Xuân Ẩn được mời làm một thành viên trong nhóm này. Phạm Xuân Ẩn nói: "Mọi người trong CIO ai cũng nghĩ tôi là người của riêng họ. Nhưng họ thực sự là những nguồn tin tốt nhất của tôi". Nhóm hoạch định này làm việc gắn bó với CIA trong quá trình tạo ra một tổ chức tình báo của miền Nam Việt Nam.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Phạm Xuân Ẩn phải đối mặt với nhiều câu hỏi về việc liệu trên thực tế ông có làm việc như một điệp viên hai mang hay không. Phạm Xuân Ẩn nói: "Tôi rất may mắn, vì nếu tôi làm việc cho CIA, thì tôi sẽ gặp điều rắc rối rất lớn với các nhân viên an ninh. Tôi bị theo dõi rất chặt chẽ, vì tôi là người duy nhất trong suốt hai mươi ba năm không hề bị bắt lần nào và người ta muốn biết vì sao lại có thể như thế được? Người ta không thể kiểm tra được các mối quan hệ của tôi, vì tôi tự làm mọi việc cho mình. Tôi là một trường hợp đặc biệt, vì chẳng có ai ra lệnh cho tôi cả. Tôi chả có người chỉ đạo hàng ngày. Tôi chỉ viết báo cáo rồi gửi đi và cho đến ngày chiến tranh kết thúc, chẳng ai nói nửa lời về báo cáo của tôi, trừ trường hợp về trận Ấp Bắc. Sau chiến tranh, tôi đã viết tất cả mọi điều tôi đã làm trong một bản tường trình để được tuyên dương công trạng mà tôi sắp được nhận. Tôi đã viết như vậy, nhưng sau đó họ lại yêu cầu tôi viết thêm. Họ muốn biết tất cả mọi mối quan hệ của tôi. Họ muốn tôi nói rõ tên tuổi của các bạn bè của tôi, những người tôi đã cùng làm việc trong toàn bộ những năm tháng đó. Tôi đã từ chối. Tôi đã từng có quá nhiều bạn bè, những người luôn tin cậy tôi. Tôi cũng không bao giờ tiết lộ nguồn tin của mình. Sau đó họ nghĩ tôi có một người đỡ đầu, có thể là trong mạng lưới tình báo của Tưởng Giới Thạch giống như bạn tôi Francis Cow - Trưởng trung tâm tình báo ở Đông Nam Á - người thường đến thăm nhà tôi. Nghề của Francis Cow là nhổ tận rễ những người Cộng sản ở Chợ Lớn. Ông ta thường chia sẻ các thông tin với tôi và cũng muốn tôi làm việc cho ông".
Hai trường hợp điển hình nhất để chứng tỏ Phạm Xuân Ẩn khách quan rõ ràng đối với hai nghề song song của ông, đồng thời đánh bại mọi lời buộc tội về thông tin thất thiệt có thể thấy rõ nhất trong các cuộc tấn công mang bí danh Lam Sơn 719 và Phục sinh 1972.
Ngày 8/2/1971, 20.000 quân của quân đội Sài Gòn vượt biên giới sang vùng cán xoong của Lào để đánh phá đường mòn Hồ Chí Minh nhằm chặn đường tiếp tế vào miền Nam Việt Nam. Cuộc hành quân này mang bí danh "Lam Sơn 719". Lam Sơn là tên một làng quê nơi vua Lê Lợi được sinh ra. Hồi thế kỷ XV, vua Lê Lợi đã đánh bại sự xâm lược của nhà Minh. Mục tiêu trước mắt của cuộc hành quân Lam Sơn 719 là một thị trấn nhỏ của Lào mang tên Sêpôn, cách biên giới với Việt Nam khoảng 30 kilômét. Thị trấn này nằm kề Đường 9 và trên thực tế mọi nhánh của đường mòn Hồ Chí Minh đều đi qua vùng này.
Phạm Xuân Ẩn chuyển tiếp sự phân tích dự báo về hành động ở Lào là không nổi bật. Ông nói với tôi: "Ai cũng hiểu biết về Lào từ trước, trừ những người phụ trách. Các mối quan hệ quân sự của tôi bao gồm cả một đại tá Quân đội Việt Nam Cộng hoà, lính dù, lực lượng đặc biệt. Tôi còn nhớ một hôm tôi gặp viên đại tá đó vừa ra khỏi Sài Gòn ít ngày. Nhìn mặt ông ta đen cháy, tôi đoán ông này vừa đi đâu về, bèn hỏi: "Cậu vừa đi câu cá ở Nam Lào về hả". Ông ta không trả lời chỉ cười, nên tôi hiểu đó là sự xác nhận. Tôi cảm thấy lo ngại bởi vì tôi biết điều gì đang chờ đợi tất cả họ. Tôi bảo với ông ta phải cẩn thận, rồi nhìn vào tấm bản đồ về sự hoạt động của Cộng sản. Tôi không thể phá hỏng các kế hoạch của phía bên kia, nhưng tôi muốn những người bạn của tôi phải cẩn thận".
Doug Pike chụp bức ảnh này gồm Blanche Cao, Myrna Pike đang dùng bữa trưa với Phạm Xuân Ẩn tại Thủ Đức cách Sài Gòn 15 km (ảnh được đăng với sự cho phép của Bộ phận Lưu trữ Việt Nam, Trường Đại học Texas Tech)
Phạm Xuân Ẩn đang đi đến tiệm cà phê Givral, năm 1973 (ảnh trong Bộ sưu tập cá nhân của Phạm Xuân Ẩn)
Một trong những điều tôi còn tiếc là lúc đó, tôi đã không hỏi Phạm Xuân Ẩn làm rõ về trận đánh này hoặc những căng thẳng trong con người ông khi biết những người bạn của mình đang bước vào một cái bẫy khủng khiếp. Đó là chiếc bẫy mà ông và những người khác góp phần tạo ra, nhưng ông lại không thể làm được gì khác ngoài câu nói "phải cẩn thận đấy". Tôi cứ tự hỏi liệu ngày đó Phạm Xuân Ẩn có những đêm mất ngủ không? Có cảm thấy ám ảnh về tinh thần trong cuộc đời mình hay không?
Việc vạch kế hoạch cho cuộc hành quân Lam Sơn 719 được bắt đầu từ tháng 11/1970. Khoảng tháng 1/1971 nhìn thấy được có sự gia tăng về các hoạt động quân sự nhằm chuẩn bị cho một hành động nào đó. Phạm Xuân Ẩn nhận được thông tin từ một trong số những nguồn tin của ông trong Quân đội Việt Nam Cộng hoà về việc lên kế hoạch cho một trận tấn công sắp diễn ra qua biên giới. Theo kế hoạch, trận tấn công này sẽ phải được bắt đầu trước mùa mưa nhằm làm gián đoạn việc sử dụng đường mòn Hồ Chí Minh trong một thời gian dài hơn nhiều so với sự gián đoạn bình thường của mùa mưa. Rechard Pyle và Horst Faas của Hãng tin Mỹ AP sau này đã viết: "Điệp viên của miền Bắc có mặt ở khắp nơi tại miền Nam. Từ những cô gái làm nghề dọn bàn trong tiệm rượu sau khi lính Mỹ nhậu nhẹt, đến những sĩ quan cao cấp của Quân đội Việt Nam Cộng hoà. Họ có mặt cả trong giới báo chí Sài Gòn và, như sau này được biết, thậm chí ngay cả trong các sở chỉ huy tại Đà Nẵng của Quân đoàn Mắt thần - nơi vạch ra kế hoạch Lam Sơn 719 họ cũng có mặt".
Khi Phạm Xuân Ẩn đã chuẩn bị sẵn những báo cáo của mình để gửi đi, ông bước dọc một con phố đã hẹn trước trong lúc bà Nguyễn Thị Ba đang mang một khay đồ quần áo, trang sức. Bỗng bà đánh rơi, Phạm Xuân Ẩn dừng lại để giúp bà nhặt các đồ trang sức lên và chuyển cho bà tài liệu báo cáo. Cuối cùng, báo cáo này của Phạm Xuân Ẩn đã được chuyển tới Trung ương Cục Miền Nam. Lập tức, mọi công việc chuẩn bị đối phó với cuộc hành quân Lam Sơn 719 được tiến hành.
Những đánh giá riêng của Phạm Xuân Ẩn cho Shaplen về trận Lam Sơn được Shaplen đánh dấu chú giải bên lề phải tài liệu như sau: "Ẩn - cuộc xâm lược Lào được vạch ra từ trước… Cộng sản đã biết điều này có lẽ khoảng sáu tháng trước đó". Sau khi nêu "ba cuộc hành quân thăm dò, trong đó cuộc hành quân thăm dò cuối cùng diễn ra ngày 8/12, mất 200, phát bằng điện báo". Phạm Xuân Ẩn đã nói với Shaplen sự thực về việc tình báo Cộng sản đã biết trước. Trong cương vị của mình khi đánh giá về cuộc hành quân Lam Sơn 719, Đại tướng Cao Văn Viên và Trung tướng Đồng Văn Khuyên đã viết: "Đối phương đã không bất ngờ về trận Lam Sơn 719 và họ đã chuẩn bị đầy đủ để đối đầu với các lực lượng của chúng ta".
Trong trận này, quân đội Bắc Việt Nam mất hơn 20.000 quân, nhưng quân đội Sài Gòn trong lần ra quân lớn đầu tiên không có các cố vấn Mỹ và lính Mỹ, đã mất hơn một nửa lực lượng. Phía Mỹ mất 108 máy bay trực thăng cùng với 618 chiếc khác bị phá hỏng.
Phạm Xuân Ẩn lại có dịp để cung cấp đầy đủ thông tin nổi bật khác - phân tích về cuộc hành quân Lam Sơn 719 cho Shaplen, bắt đầu từ các chiến thuật của quân đội Sài Gòn và sự thất bại trong việc mở lối vào Đường 9. "Họ kết thúc bằng cách sử dụng chiến thuật nửa Pháp, nửa Mỹ, nhưng nghiêng về chiến thuật của Pháp hơn. Di chuyển quân từ từ bằng đường bộ tại lối ra. Lẽ ra, họ phải sử dụng xe tăng Abrams. Do đó, mà họ đã rơi vào giữa hai loại phương tiện". Phạm Xuân Ẩn đặc biệt phê phán lực lượng tình báo Quân đội Sài Gòn. Ông nói: "G-2 không tốt, chỉ phát hiện được xe tăng đối phương một giờ trước khi họ xuất hiện đông nghẹt". Shaplen đánh dấu và chú giải cho mình dễ nhớ như sau: "Ẩn tiếp tục nói rằng chúng ta sẽ sống sót bởi vì Đảng Cộng sản không dám tiêu diệt hết".
Cuộc hành quân Lam Sơn 719 là trận hoàn toàn do các lực lượng quân đội Việt Nam Cộng hoà thực hiện, không có các cố vấn Mỹ đi cùng để quan sát các đồng minh Nam Việt Nam. Phạm Xuân Ẩn rõ ràng là đã không thể không nói với Shaplen một sự thật khác nữa: "Chừng nào còn có các cố vấn Mỹ đi cùng, thì khó mà nói dối. Còn bây giờ nói dối là quá dễ".
Phạm Xuân Ẩn cũng khách quan một cách công bằng khi nói về đợt Tổng tấn công của Cộng sản vào mùa xuân 1972, chỉ vài tháng sau cuộc hành quân Lam Sơn. Đợt tấn công này mở đầu vào ngày chủ nhật 30/3/1972 nhằm ngày lễ Phục sinh. Đây là trận đánh lớn nhất trong suốt thời kỳ Chiến tranh Việt Nam do quân đội Bắc Việt Nam tiến hành, kéo dài sáu tháng. Trận tổng công kích này được thiết kế tấn công bằng các lực lượng quân sự thông thường do các lực lượng vũ trang Bắc Việt Nam tiến hành, nhằm giáng một đòn trí mạng vào các lực lượng Quân đội Việt Nam Cộng hoà. Đại tướng Võ Nguyên Giáp hy vọng sử dụng các làn sóng quân đội ào ạt tấn công chiếm giữ lãnh thổ, kể cả những thành phố lớn ở miền Nam Việt Nam như Huế, Đà Nẵng. Điều này giúp cho quân đội Bắc Việt Nam có nhiều lợi thế khi tấn công vào Sài Gòn.
Phạm Xuân Ẩn đã cưng cấp cho Shaplen đánh giá chính xác về chiến lược của Cộng sản: "Giờ đây không có quân Mỹ tham chiến cùng Quân đội Việt Nam Cộng hoà, tất nhiên là một sự thay đổi sống còn. Năm 1965, họ đã phải chuẩn bị để đánh nhau với 200.000 quân Mỹ và họ đã hình dung ra tình thế này, nhưng giờ đây… Tháng 5 và tháng 8/1968 được thiết kế để buộc chúng ta phải vào bàn đàm phán và ngừng ném bom. Thậm chí vì những lý do ngoại giao, họ đã phải chấp nhận hy sinh nhiều người, buộc chúng ta phải xuống thang. Về mặt chiến lược, họ thắng chúng ta, tuy nhiên, về sách lược họ thua, nhưng là thua xứng đáng… Mặt trận Tổ quốc đã phải tổ chức đánh giá lại. Đảng Cộng sản đã nhận ra rất nhanh. Mỹ đã tìm cách câu giờ cho Chính quyền Sài Gòn, nhưng chính việc thiếu sự lãnh đạo đã không cho phép Chính quyền Sài Gòn tận dựng được lợi thế của thời gian mang lại. Do đó, sự lãnh đạo chính trị, chứ không phải là các nhà lãnh đạo, vẫn còn là một vấn đề then chốt".
Nixon tin rằng Bắc Việt Nam đã tự cam kết với mình là mở chiến dịch "được ăn cả, ngã về không" trong năm 1972. Ngày 1/4, Richard Nixon ra lệnh ném bom miền Bắc Việt Nam trong phạm vi 40 km của khu phi quân sự. Ngày 14/4, Nixon ra lệnh đánh bom đến vĩ tuyến 20.
Hội nghị Paris bị ngừng. Tại một cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, Nixon nói: "Miền Bắc Việt Nam sắp phải bị ném bom với mức độ ác liệt chưa từng thấy". Điều diễn ra sau lời tuyên bố này của Richard Nixon là những trận tấn công bằng không quân thành công nhất trong thời gian chiến tranh, trong đó có một chiến dịch ném bom lớn nhất trong lịch sử thế giới mang tên "Cuộc hành quân Linebacker I". Mục tiêu không kích là các con đường, cầu cống, đường sắt, căn cứ đóng quân, nhà kho. Trong chiến dịch này, lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh không quân hiện đại, bom điều khiển độ chính xác bằng tia laser được đưa vào sử dụng. Các máy bay phản lực ném bom - chứ chưa phải là máy bay B-52 - không kích mở đường tạo sự hỗ trợ tầm gần cho bộ binh của quân đội Sài Gòn. Kết quả cuối cùng là quân đội Bắc Việt Nam bị mất 50.000 người và ước tính khoảng 225 xe tăng và trọng pháo bị phá huỷ.
Cuộc tổng tiến công lễ Phục sinh 1972, về mặt ngắn hạn, rõ ràng là một sự thất bại về quân sự của miền Bắc Việt Nam. Bằng việc dàn quân ra ba mặt trận và tấn công ào ạt trong nhiều đợt, quân đội miền Bắc Việt Nam bị căng ra quá mỏng. Thực tế đã chứng tỏ họ không có có đủ hoả lực để dội vào bất kỳ một điểm nào để giành được vùng lãnh thổ lớn. Vì nhịp độ nhanh của các cuộc tấn công thông thường, một số đơn vị của quân đội Bắc Việt Nam bị thương vong nhiều (một số tiểu đoàn bị rút quân số xuống còn 50 người). Điều này khiến cho họ chiến đấu kém hiệu quả trong thời gian gần hai năm. Tuy nhiên, các căn cứ địa phương quan trọng hơn của họ về mặt tiếp tế ở miền Nam Việt Nam vẫn còn tồn tại. Con số thương vong của Hà Nội trong các cuộc tấn công thông thường do họ tiến hành là đáng kể, mất hơn một nửa trong số 200.000 quân chiến đấu. Thực tế về những kết quả đáng thất vọng của cuộc tiến công mùa xuân đã buộc Hà Nội phải đi đến quyết định tìm kiếm một cách giải quyết thông qua thương lượng. Họ đã đánh giá sai Nixon và cho rằng giờ đây, dường như Richard Nixon đang tiến tới thắng lợi tái cử trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11.
Phạm Xuân Ẩn không cố gắng đi sâu vào vấn đề này với Shaplen: "Quân đội miền Bắc Việt Nam đã đánh giá thấp sự kháng cự của Chính quyền Sài Gòn và sự giúp đỡ của Mỹ. Đảng Cộng sản đã bị đau, nhưng chưa đến mức bị tê liệt. Mặc dù bị thất bại nặng nề trong hai tháng qua, nhưng quyết tâm của họ vẫn không nao núng. Chiến dịch này sẽ được tiếp nối bằng các chiến dịch khác Đảng Cộng sản giờ đây đã hoàn toàn hồi phục về phong độ, cùng những đơn vị hồi năm 1966 nay được bổ sung quân cho đủ biên chế. Trong khi đó, chúng ta - Mỹ - chưa hề lấy lại được phong độ và không thể… rút ra bài học tại cuộc hành quân Lam Sơn. Họ nhìn thấy cơ hội khách quan mới xuất hiện để mở một cuộc tấn công mới. Đó là việc Quân đội Việt Nam Cộng hoà đang bị Việt Nam hoá ngẫu nhiên trùng hợp với thời kỳ bầu cử tổng thống ở Mỹ, mà trong cuộc bầu cử này, tất cả không thể đoán trước được điều gì. Đó là lý do tại sao họ chấp nhận rủi ro mở đợt tấn công… Nixon dai dẳng không chịu thương lượng. Chúng ta đã thổi vấn đề lên quá nhiều, coi đó là một sự xâm lược, kêu gọi dư luận thế giới chống lại sự xâm lược của Cộng sản. Nhưng trên thực tế, tất cả những gì chúng ta làm chỉ khiến cho nhân dân Mỹ hoảng sợ và dồn Nixon đến chân tường mà thôi".
Khi Phạm Xuân Ẩn nói với Shaplen về các cuộc hành quân Lam Sơn và lễ Phục sinh cũng là lúc ông được tặng thưởng ba Huân chương Chiến công. Sự nổi tiếng của Phạm Xuân Ẩn với tư cách một nhà báo là vấn đề không cần bàn cãi. David De Voss nhớ lại: "Tôi gặp Phạm Xuân Ẩn lần đầu tiên vào năm 1972 khi tôi mới 24 tuổi, đến miền Nam Việt Nam với tư cách phóng viên chiến trường của Tạp chí Time. Ngày đó, ông Phạm Xuân Ẩn đã là người huyền thoại nổi tiếng với biệt danh "Tướng Givral" đặt theo tên của tiệm cà phê Givral, nơi ông vẫn thường ghé thăm. Mặc dù ngày ấy điều gì và người nào cũng đáng nghi ngờ, nhưng riêng với ông Phạm Xuân Ẩn thì mọi người lại rất tin cậy ông". Vỏ bọc của Phạm Xuân Ẩn là không thể nào đâm thủng được và trong suốt hơn một thập kỷ, mạng lưới tình báo cụm H.63 của Phạm Xuân Ẩn đã bảo vệ ông cùng những tài liệu của ông. Nhưng một sứ mạng cuối cùng của ông vẫn còn ở phía trước, đó là đánh bại chế độ Sài Gòn.