Bài học đầu tiên
Tác giả: Lê Huy Oanh
Tôi thong thả đi trên đại lộ, tay đút trong hai túi áo. Từng ngọn đèn đêm nằm thấp thoáng sau những chòm lá, đổ ánh sáng yếu ớt xuống mặt đường. Saigon những đêm mưa gió thường có cái dáng yên tĩnh, trầm mặc. Tôi dừng lại bên một gốc cây, xòe diêm châm thuốc lá. Vào những đêm mưa gió nhẹ tôi thường khó lòng ở nhà được. Con người ta hình như mỗi người có một cái đam mê kỳ quái. Sự đam mê của tôi là khoác áo mưa đi bộ hàng mấy giờ liền trong những đêm u ám mà hút thuốc lá vô hồi kỳ trận.
Trong những chòm cây thẫm đen, gió đêm vẫn xào xạc khiến những giọt nước đọng trên các nhành lá rơi không ngừng xuống người tôi. Tôi giơ tay lên vuốt tóc. Đầu tóc tôi đã ướt đẫm.
Đôi chân tôi vẫn chuyển dịch theo một động lực của bản năng. Sự suy tưởng trong tâm hồn tôi hoạt động không theo một hệ thống nao cả. Tôi nghĩ miên man hết chuyện nọ sang chuyện kia. Kể ra, nghĩ ngợi lăng nhăng như thế cũng là một cái thú. Đến ngã ba, tôi rẽ vào một con đường nhỏ. Từ một đại lộ rộng lớn bước vào con đường hẹp này, tôi đột nhiên có một cảm giác mới lạ, khung cảnh ở đây dường như có vẻ thân mật êm ái hơn. Tôi dừng lại một chút để bước chân khỏi khua động mặt đường, ngõ hầu có đủ tịch mịch để nghe ngóng sự thay đổi của cảm giác. Con đường nhỏ này không còn bờ hè mà chỉ có đường trải nhựa. Hai dãy nhà hai bên đến gần tôi hơn. Đường này không có cột điện nhưng cảnh vật không đến nỗi tối tăm nhờ những ánh đèn từ các cửa kính chiếu ra ngoài.
Một chiếc Vespa xuất hiện ở cuối đường tiến nhanh về phía tôi. Ánh đèn pha liếm xuống mặt đường. Chiếc xe lướt qua tôi thật nhanh nhưng tôi cũng kịp nhìn thấy trên xe có hai người, một gã đàn ông và một người đàn bà. Cả hai đều mặc áo mưa nhưng người đàn bà ngồi ở yên sau không quên ôm chặt lấy gã đàn ông. Họ là một đôi vợ chồng hay một cặp tình nhân? Tôi vẩn vơ nghĩ đến hai kẻ xa lạ đó. Không biết lúc này ngồi gần bên nhau họ có hạnh phúc không nhưng chắc chắn họ không cô độc như tôi. Tôi rít mạnh một hơi thuốc lá, phà khói vào lòng đêm, tiếp tục chuyển bước và nghe tiếng giày của mình giẫm lên mặt nhựa. Tiếng giày lúc này yếu ớt hẳn đi, có lẽ vì nhựa đường mềm hơn hè xi măng và vì đế giày tôi đã ngấm nhiều nước hơn trước.
Đi đến giữa phố tôi bỗng dừng lại một lần nữa. Lần này cảm giác của tôi vụt thay đổi một cách rõ rệt hơn vì trong gió nhẹ đưa tôi thoáng nghe thấy một điệu đàn vĩ cầm. Bảo là một điệu đàn e không đúng vì kẻ sử dụng đàn chỉ là một người mới tập. Mấy dây đàn tội nghiệp đang tức tối dưới chiếc archer. Những âm thanh phát ra không ngọt ngào một chút nào. Có thể nói là chúng đang gắt gỏng hậm hực với nhau. Tiếng đàn khiến tôi bật lên một tiếng cười khẽ vụt nhớ đến cô đào Audrey Hepburn trong phim Ariane. Lúc xem phim này tôi ưa nhất những dáng điệu của cô trong những "pha" cô ngồi tập kéo đại vĩ cầm. Do đấy những lúc này tôi cứ đinh ninh rằng kẻ đang tập kéo vĩ cầm kia là một tiểu thơ vừa đẹp vừa duyên dáng. Tôi đã đến bên hàng giậu trước nhà nàng nhưng tôi không nhìn thấy bóng dáng nàng. Tiếng đàn vang ra từ một cửa sổ đóng kín.
Cô bé có lẽ say mê cây đàn của mình lắm. Trong bài tập của cô, các nốt đàn xuống xuống lên lên hoài với đầy sức nhẫn nại. Chừng nửa năm nữa nếu còn có dịp qua đây chắc tôi sẽ có thể nghe nàng kéo đàn như một nhạc sĩ hẳn hoi. Tôi lại nhớ đến phim Ariane nhưng lần này tôi nghĩ tới mấy gã nhạc sĩ tzgiane nhiều hơn. Nếu tôi không quên được nét mặt của Audrey khi nàng ngồi tập kéo đại vĩ cầm thì tôi cũng không thể quên những lúc mấy gã tzgiane tấu đàn cho Gary Cooper tán gái. Tiếng vĩ cầm của bọn nghệ sĩ giang hồ đó quả là đầy sức truyền cảm dễ mê hoặc lòng người. Thế rồi trong óc tôi, giữa hình ảnh mấy nhạc sĩ tzgiane trong phim Ariane, bỗng hiện ra một hình ảnh khác của một nhân vật xa xưa mà tôi được biết từ lúc còn nhỏ tuổi. Nhân vật đó cũng là một ban nhạc ở khách sạn Coq d’or ở Hà Nội khi tôi hãy còn là một đứa bé con đang theo học lớp ê-lê-măng-te… Mỗi lần nghĩ đến gã tâm hồn tôi thường man mác một mối cảm hoài nhè nhẹ vì hình ảnh gã khiến tôi không thể nào không nghĩ đến cả một khoảng dĩ vãng xa xôi… Con đường vắng trước mặt tôi đêm nay vụt trở nên dài hun hút. Nhìn vào chiếc cửa sổ đóng kín trước mặt tôi thầm từ biệt người con gái kéo đàn để tiếp tục bước đi với hình bóng gã nhạc sĩ tiệm Coq d’or và cả một thời xa xưa trong tâm tưởng. Khi tôi biết gã, tôi mới chưa quá mười ba tuổi. Cuộc đời tôi trong quãng thời gian ấy có một kỷ niệm đặc biệt mà tôi không bao giờ có thể quên được. Vô tình trong đêm nay hình ảnh cũ của gã nhạc sĩ tiệm Coq d’or đã một lần nữa gợi ra cái kỷ niệm kỳ diệu ấy của một thời đã mất. Đó là kỷ niệm giữa tôi với bà phán K…, người đã dạy tôi bài học đầu tiên. Trong hoạt động của liên tưởng, người con gái tập kéo vĩ cầm đã gợi lại cho tôi Audrey và mấy gã tzgiane: Audrey và mấy gã đó gợi lại cho tôi anh chàng nhạc sĩ tiệm Coq d’or, và anh chàng này gợi về cho tôi bà phán K… ở giữa nhiều nhân vật khác.
Mẹ tôi chết từ khi tôi lên tám tuổi. Người qua đời trong một phòng bệnh ở nhà thương Phủ Doãn. Lúc người hấp hối, tôi và đứa em nhỏ đứng bên giường. Người lớn đưa chúng tôi đến đó. Thấy ai nấy sụt sịt khóc chúng tôi cũng sụt sịt khóc. Những giọt nước mắt trẻ con chảy ra một cách vu vơ. Chúng tôi nào đã biết thương tiếc là gì, nào đã hiểu rằng chết tức là từ biệt những người thân yêu mãi mãi để về với lòng đất mà làm mồi cho dòi bọ… Chúng tôi trở thành những đứa bé mồ côi mẹ. Đáng lẽ cha tôi phải đích thân coi sóc tôi nhưng vì người vốn phóng khoáng bừa bãi nên sự coi sóc đó gần như không có. Ban ngày cha tôi đến sở làm việc, nhưng tối tối ông đến nhà các bạn hữu đánh bài đến khuya. Có nhiều đêm ông không về nhà. Công việc gia đình gần như nằm trong tay một anh bếp.
Tôi vẫn còn nhớ hình dáng, điệu bộ và tính tình anh bếp này. Tên anh là Cẩm. Người anh to lớn, nước da ngăm đen. Ai gặp anh tất nhiên phải để ý ngay đến đôi tai anh, to và vểnh. Chiếc mũi anh trông cũng nghịch lạ. Nó hếch lên một cách rất ngạo đời kéo theo cả cái môi trên khiến cho hàm răng hô có cơ hội xuất hiện thường xuyên. Cả ngày anh không nói một câu, chỉ lầm lì làm việc, lầm lì ăn rồi ngủ. Cho đến bây giờ nhiều khi nghĩ đến anh tôi vẫn không thể hiểu được là sống ở trên đời này, anh ta cảm thấy mình sướng hay khổ. Con người ấy thoạt trông thì thấy chất phác quê mùa nhưng nhìn kỹ thì lại thấy có vẻ thâm trầm, bí mật. Dạo ấy tôi hay bướng bỉnh với anh nhưng vẫn hơi sờ sợ anh. Kể ra tôi sợ anh cũng phải vì tôi có tính ngủ hay gác mà đêm đêm phải ngủ chung giường với anh. Cái tính tệ hại đó thường tùy theo thái độ của tôi đối với anh ngày hôm ấy mà sinh ra kết quả xấu hay tốt. Nếu ban ngày tôi làm anh bất mãn thì nhất định là đêm hôm ấy khi tôi vừa đặt chân lên bụng anh, anh hất nó xuống liền. Có khi anh không ngần ngại dùng bàn tay hộ pháp đập xuống mông đít tôi. Nhiều bận anh đánh đau quá làm tôi choàng thức giấc, chết ê ẩm cả mông mà không dám kêu ca gì. Tôi biết tội tôi lắm. Trái lại, nếu hôm nào tôi tỏ ra ngoan ngoãn với anh thì đêm đó tôi sung sướng như ông hoàng nhỏ. Tha hồ gác, tha hồi giãy; anh bếp kia coi như không có ai nằm bên cạnh anh. Anh chịu đựng đến cái mức độ đôi khi tôi phải lấy làm lạ. Kể ra định sống hòa bình với anh ta không phải là chuyện khó khăn. Muốn làm anh vui lòng tôi chỉ cần tuân theo vài điều kiện: đừng nhảy lên giường trải nệm của cha tôi, đừng vứt giấy hoặc rác bẩn ra sàn đá hoa, đừng lôi trẻ con đến nhà, và nhất là đừng có sờ vào cái đàn bầu của anh treo dưới bếp. Anh bếp Cẩm của tôi biết gảy đàn bầy! Kể cũng lạ, có ai ngờ cái con người tai vểnh mũi hếch như vậy mà cũng dám học đòi nghề ti trúc. Thường thường cứ vài ngày anh lại lôi cây đàn xuống lau chùi cẩn thận. Cây đàn thật đơn giản: bầu đàn làm bằng một cái gáo dừa, thân đàn là một nửa ống nứa sơn xanh, còn cần đàn là một que tre vót nhẵn, vút lên như cái xe điếu ống, dây đàn mỏng tanh bóng loáng. Cả mấy tháng tôi mới thấy anh bật dăm ba tiếng tơ.
Những lúc ấy anh ngồi xếp chân vòng tròn trên phản gỗ, người hơi nghiêng nghiêng. Anh nheo mắt, hếch thêm chiếc mũi, một tay nắm cần đàn vừa uốn lên uốn xuống vừa rung rung theo nhịp que đóm ở tay kia bật phừng phừng vào sợi dây căng thẳng. Đôi khi cao hứng anh còn hát theo tiếng đàn. Giọng anh khô khan, ngắn ngủi. Anh biết có một bài ca độc nhất mà đến nay tôi chỉ còn nhớ được mấy câu đầu:
Trèo lên cây khế nửa ngày,
Ai làm chua xót lòng này, khế ơi!
Khế chết khế lại mọc chồi…
Việc anh bếp Cẩm can thiệp đến đời sống hàng ngày của tôi quanh đi quẩn lại chỉ liên hệ đến mấy điều kiện như tôi vừa kể. Ngoài ra anh sống theo lối sống của anh, tôi sống theo lối sống của tôi. Anh đi chợ, làm bếp, dọn dẹp nhà cửa còn tôi đi học. Trường tôi ở tận phố Hàng Điếu. Tôi không nhớ rõ ngày ngày ở trường tôi có chịu học hành gì không. Chỉ nhớ rằng tôi rất ưa trò xé giấy vở để gấp thuyền và làm tàu bay cũng như chiếm kỷ lục về chép bài phạt, vì ít khi tôi thuộc bài. Cái ông thầy giáo lớp tôi hình như nghiện nghe học trò đọc bài. Ngày nào cũng như ngày nào, thoạt vào đến lớp ông đã gọi một lũ lên trả bài. Hai bên bàn tôn sư, bầy học sinh trẻ ranh đứng thành hàng dài lố nhố như chờ phát chẩn. Mặt đứa nào cũng đăm chiêu lo lắng. Hàng mấy chục cái miệng lầm bầm ôn bài như niệm Phật. Ông thầy ngồi trên bục trước bàn viết, mặt luôn luôn tươi tỉnh, tay mân mê cái thước kẻ gỗ sơn đen. Ông vút học trò một cách rất tự nhiên, rất gọn gàng không một chút ngượng ngập. Việc trả bài được xếp đặt ăn khớp với việc trừng phạt một cách khoa học. Ông thầy này quả thật là thực tế và giàu kinh nghiệm nên không cho phép học trò được khoanh tay khi trả bài. Bất cứ đứa nào, con trai cũng như con gái, mỗi khi trả bài phải đứng sát hẳn vào bàn và đặt một bàn tay úp lên mặt gỗ. Mười đứa trả bài thì đến năm, sáu đứa ăn đòn. Số thước kẻ giáng xuống hình như được định theo một quy lệ bất biến: đọc ngập ngừng, một phát; không thuộc hết bài, hai phát; không thuộc một tí nào, ba phát kèm thêm hai bài chép phạt. Có điều thật kỳ dị là thầy giáo của chúng tôi dữ đòn như vậy mà không bao giờ ông gắt gỏng. Ông vừa đánh vừa nói ngọt như đường phèn:
"Con không thuộc bài hả con? Thầy đánh cho con nhớ nhé!"
"Bài dễ thế mà con ngập ngừng à? Lần sau con chịu khó học kỹ hơn nhé, con!"
"Thế nào, con quên hả? Quên vậy thầy thật buồn lòng. Con không xem thằng Quân đó, bài nào nó cũng đọc trơn làu làu…"
Ông vừa nói vừa cười rất thân mật để lộ ra chiếc răng vàng lóng lánh. Lời của ông thật nhân từ, thật hiền dịu mà ngọn thước của ông không êm ái chút nào. Ông vút khá mạnh và có nghệ thuật. Thước kẻ lúc nào bay xuống cũng hơi nghiêng nghiêng khiến cho cạnh gỗ bập vào tay nạn nhân như một lưỡi dao cùn. Sử dụng thước gỗ như thế thật tài tình, tinh vi hết chỗ nói.
Là thằng học trò chiếm kỷ lục về chép bài phạt dĩ nhiên tôi cũng chiếm kỷ lục về ăn đòn. Hai mu bàn tay bé nhỏ tội nghiệp của tôi đôi lúc sưng lên. Ông giáo khôn lắm, những trường hợp đó ông vẫn đánh tôi một cách bình thản tự nhiên nhưng bắt tôi ngửa tay lên.
Dĩ nhiên tôi không thể nào mến thầy được. Đối với trẻ con, không mến có nghĩa là ghét. Ấy thế mà cái số tôi rõ thật long đong: tôi phải học ông hai năm liền vì năm thứ nhứt tôi rớt kỳ thi Sơ học yếu lược.
Vô tình, tôi trở thành một đứa bé cô độc. Mẹ tôi không còn. Cha tôi vắng nhà luôn. Anh bếp Cẩm với tôi không hợp tính. Em gái tôi còn bé bỏng quá. Chỉ có những thằng học trò cũng lười biếng như tôi là ưa thích tôi. Nhưng tình bạn, nhất là bạn bè trẻ con thì chỉ có thể có tình thân chứ không có tình thương. Tôi cô độc không phải vì thiếu bạn mà vì thiếu tình thương mến đó. Có một dạo ít khi tôi ở nhà. Mỗi khi rời lớp học, tôi đi rong các ngõ ngách để đánh đáo. Tôi chuyên về môn đáo lỗ. không hiểu sao lúc bấy giờ tôi chọi và đục lỗ mả đến như thế. Thật không kém gì xừ Nghiêu Tử bắn cung hoặc cái ông lão trứ danh rót dầu qua lỗ đồng tiền, trong sách cổ. Chúng tôi đánh ăn xèng, tức là những nút chai bằng kim khí đập nhẹp ra, cứ hai mươi xèng đáng giá một xu. Tuy kiếm chác khá giả trong nghề đáo lỗ nhưng có nhiều tối tôi vẫn đến chực tại các quán rượu lớn, đặc biệt là quán Coq d’or ở phố Tràng Tiền để chờ nhặt những nút chai loại hiếm. Tại Coq d’or tôi quen với anh chàng nhạc sĩ kéo vĩ cầm mà tôi đã nói đến ngay ở đầu truyện. Nói là quen cho có vẻ đấy thôi chứ chúng tôi không hề nói chuyện với nhau, bởi lẽ gã nhạc sĩ đâu có thèm để ý tới tôi. Gã còn mải kéo đàn cho Tây, đầm, ôm nhau nhún nhảy. Trái lại, tôi rất để ý tới gã; công việc nhặt nút chai thật nhàn hạ nên tôi có nhiều thì giờ nhận xét về gã. Mặt gã nhỏ bé trắng trẻo, tóc để theo lối "phi lô dốp" dài và bóng mượt, thân thể mảnh khảnh lồng trong bộ tây màu hạt dẻ vào những lúc lạnh trời hoặc một bộ trắng vào những lúc oi bức. Có khi gã mặt sơ mi trần nhưng chẳng bao giờ quên đeo cà vạt. Gã ít nói. Mặt gã lúc nào cũng đượm vẻ buồn buồn. Những khi kéo đàn gã thường đứng dậy, ngoẹo cổ về một bên kẹp cây đàn vào vai một tay nắn phím còn một tay sử dụng archer. Gã thường được thính giả vỗ tay khi độc tấu những bài buồn thảm.
Tuy nghịch ngợm nhưng vốn đa cảm nên tôi cũng thấy lòng rung động mỗi khi nghe tiếng vĩ cầm của gã nỉ non than thở. Có nhiều lúc tôi quen cả nhặt nút chai để ngắm gã kéo đàn. Trông gã đáng yêu biết bao. Nhiều lần tôi tự nhủ khi nào lớn lên tôi cũng sẽ đi học đàn để có thể vào các quán rượu mà kéo những bài sầu thảm như gã… Lúc đã buồn ngủ phải từ biệt vỉa hè quán rượu ra về tôi vẫn còn cảm thấy tiếng đàn ma quái đuổi theo tôi và ám ảnh tôi hoài. Có những đêm tôi nằm mơ thấy mình được đứng trước lũ bạn trong lớp học mà kéo vĩ cầm. Cả ông thầy giáo răng vàng cũng ngồi nghe tôi đờn. Tôi kéo liền một lúc mấy bài. Tiếng đàn của tôi vừa hay vừa buồn khiến cho mấy thằng bạn khóc nức nở. Cả thầy giáo tôi cũng khóc. Ông ôm lấy tôi khen ngợi rồi tỏ ý hối hận vì từ trước đến giờ ông ta đã xử tệ với tôi…
Giữa cái thời kỳ tôi bơ vơ, cô độc, chỉ biết tìm chút an ủi trong thú đánh đáo và thú nghe đàn ấy thì bà phán K… xuất hiện.
Tôi cần nói rõ một chút.
Gia đình tôi dạo ấy trú ngụ trong một căn nhà hai tầng ở ngõ Hội Vũ gần chợ Hàng Da. Thấy chúng tôi ít người mà nhà cửa quá rộng, bạn bè của cha tôi đã giới thiệu hai vợ chồng ông phán K… đến mướn căn gác. Cha tôi bằng lòng.
Ông phán K… đã đứng tuổi. Thân thể ông vừa lùn vừa mập. Mặt tròn trĩnh đầy đặn. Đôi mắt lúc nào cũng lờ đờ như buồn ngủ. Người bà cân đối. Khuôn mặt bầu bầu hơi trái xoan. Đôi mắt tuy long lanh nhưng trông bà vẫn có vẻ dịu dàng trầm tĩnh. Bà ít khi cười nhưng mỗi khi cười, đôi môi xinh xắn lại hé mở để lộ hai hàm răng đều đặn, trắng muốt. Thường những khi tư lự bà ngồi trước bàn nghiêng đầu về một bên, những ngón tay trái thon dài đỡ lấy gò má mịn màng. Đặc biệt nhất là tiếng nói của bà, một thứ giọng nói thong thả, rành rẽ và ấm áp. Dáng đi của bà thật khoan thai, nhẹ nhàng. Hai ông bà phán K… quả là hai sự khác biệt. Bà thanh tao bao nhiêu thì ông bục bịch bấy nhiêu. Vì ông phán đi làm ngày hai buổi nên bà phán thường ở một mình trên gác. Công việc nội trợ đã có một cô sen cáng đáng. Tôi nhận thấy gia đình bà rất ít khách. Trong suốt mấy tháng trời họ ở nhà tôi chỉ một vài lần có người đến thăm nhưng họ đến không được mấy chốc đã cáo biệt ra về. Vì thế, đời sống của bà phán K… rất yên ổn nhàn hạ.
Sau tuần lễ đầu, tôi đã quen thân với bà phán, được bà gọi lên gác luôn để cho bánh kẹo. Tôi khám phá ra một điều đáng chú ý hơn cả là bà phán rất ưa đọc tiểu thuyết. Bà có thể đọc mải mê suốt buổi mà không mệt. Thường thường khi đọc sách bà nằm dài trên chiếc ghế xô-pha trải nệm hoa, đầu kê lên chiếc gối bông thật dày. Một hôm bà gọi tôi lên cho tôi năm xu rồi sai tôi đến hiệu sách ở hàng Bông thuê truyện cho bà. Hai hôm sau bà nhờ tôi đem đổi lấy cuốn khác. Dần dần tôi trở thành tay chuyên đi thuê tiểu thuyết cho bà phán. Bất cứ bà muốn đọc cuốn gì tôi đều đi tìm cho được. Tôi ưa công việc này lắm vì nó cho tôi cơ hội để có thể lên phòng bà luôn luôn. Quen với bà phán rất có lợi. Phòng bà có nhiều bách bích quy nên tôi được ăn luôn; lại nữa bà thường cho tôi tiền, khi ba xu, khi năm xu để đền lại công lao khó nhọc của tôi trong những lúc chạy ngược chạy xuôi tới các nhà sách để tìm thuê sách cho bà. Nhưng những lợi ấy đối với tôi không đáng kể bằng những thú vui tinh thần. Tôi sung sướng được đi thuê sách cho bà vì tôi rất quý mến bà. Tôi rất tự hào mỗi khi tìm thấy một quyển sách khó tìm. Nhìn bà phán thích thú đọc những quyển sách chính tay tôi đi thuê về tôi cũng thích thú lây. Bà ham đọc sách còn tôi rất vui vẻ khi thấy bà ham đọc sách. Chỉ ít lâu sau, tôi gần như trở thành người nhà bà phán, và tôi được bà mặc nhiên cho phép lên phòng bà bất cứ lúc nào. Tuy vậy, không bao giờ tôi lên gác những lúc ông phán K… có nhà. Tôi không ưa ông vì ông không có cảm tình gì với tôi. Ông lớn, tôi nhỏ và người lớn như ông đâu có thèm để ý đến thằng bé con này. Trong thời gian đầu, khi ông mới tới ở nhà tôi, có đôi ba lần tôi lễ phép cúi đầu chào ông nhưng ông chỉ trả lời bằng một cái gật đầu đầy vẻ hững hờ. Hình như ông không ưa những đứa trẻ nghịch ngợm, lười lĩnh, nhem nhuốc như tôi. Do đấy, về sau này, mỗi khi gặp ông tôi không chào nữa, chỉ lảng sang một bên cho ông qua.
Năm tháng sau, đột nhiên ông phán được lệnh nhà nước đổi đi làm việc ở tỉnh khác. Đến ngày lên đường, ông đi trước một mình để bà ở lại Hà Nội. Theo lời cha tôi thì ông phán đi trước như vậy cốt để thu xếp nơi ăn chốn ở tại nơi ông đổi đến, công việc này xong ông sẽ trở về Hà Nội đón vợ đi. Chỉ vì chiều quý vợ nên ông không muốn bà phải lo nghĩ, vất vả trong bất cứ việc gì. Bao nhiêu trách nhiệm gia đình ông tự đảm đương hết.
Mỗi buổi trưa Chủ nhật, cha tôi đi đánh bài từ sáng, chị sen đi đâu tôi không biết, anh bếp Cẩm đang ngủ và ông phán K… chưa thấy về. Từ hôm ông đi tới nay có lẽ đã được ba, bốn hôm. Lúc ấy khoảng hai giờ rưỡi, tôi ngủ trưa vừa dậy. Trời hơi oi bức nên tôi phải vào phòng tắm, dội lên người vài gáo nước cho mát mẻ. Sau đấy vì sắp đi đánh đáo nên tôi chạy lên buồng bà phán để hỏi xem bà có muốn nhờ tôi trả sách cũ thuê sách mới hay không. Vì ngỡ bà còn ngủ nên tôi bước lên thang nhẹ nhàng định bụng trước hết ngó qua lỗ khóa xem bà đã dậy chưa. Nếu bà dậy rồi tôi mới có thể gõ cửa được. Cầu thang trải một tấm thảm dài bằng cói, tôi đi chân đất, tôi lại lên thang rất nhẹ, thành thử nếu bà phán có thức cũng không nghe thấy bước chân tôi. Tôi ghé mắt nhòm qua lỗ khóa thấy bà phán nằm nghiêng trên chiếc xô-pha. Tóc bà xõa tung lòe xòe trên mặt vải. Ngực bà hơi ép xuống nệm. Một chân bà duỗi dài còn một chân co lên chiếc gối bông. Tay phải bà rơi thõng từ trên xô-pha xuống đất. Mắt bà đăm đăm nhìn về đằng trước. Vì lỗ khóa quá bé nhỏ, tôi không thể trông thấy tất cả gian phòng nhưng tôi đoán bà đang nhìn ra phía cửa sổ. Hơi thở bà nhẹ nhàng. Người bà khẽ nhịp lên nhịp xuống trên chiếc nệm hoa. Có điều đặc biệt là hôm nay bà phán mặc một chiếc áo màu xanh nhạt không có ống tay. Lần đầu tiên tôi thấy bà mặc loại áo khoác kiểu như vậy. Trước kia bà luôn luôn mặc một thứ áo cánh dài tay bằng lụa trắng hoặc ngà ngà vàng. Tôi định đẩy cửa bước vào phòng nhưng chợt nhớ là mình vừa nhìn trộm qua lỗ khóa. Mọi khi thì không sao nhưng hôm nay bỗng nhiên tôi có cảm tưởng mơ hồ rằng nhìn trộm như thế có thể bà phán không bằng lòng. Tôi lại rón rén lần xuống thang khi đến giữa sân tôi quay lại, giả vờ hát lên mấy câu làm ra vẻ mình vừa ở trong nhà bước ra. Tôi mạnh dạn lên thang, càng hát lớn thêm để báo tin cho bà phán biết tôi đến. Vừa gõ cửa đã nghe tiếng bà nói: "Cứ vào đi em". Quả đấm sứ trong tay tôi xoay một vòng. Cửa phòng hé mở, tôi lách vào. Bà phán vẫn nằm yên trên xô-pha. Chiếc gối lúc nãy đùi bà gác lên bây giờ được bà ôm vào ngực. Mớ tóc cũng đã được vơ gọn lại hơn chứ không lòa xòa như trước.
Bà phán hỏi:
"Em vừa đi đâu về mà vui vẻ thế?"
Tôi hơi ấp úng:
"Cháu đã đi đâu đâu… Cháu vừa tắm đấy chứ".
"Mát không".
"Dạ mát".
Bà phán không nói gì nữa. Bà nằm im trên xô-pha, hơi thở nhẹ nhàng. Thấy bà im lặng, tôi bước về phía cửa sổ nhìn ra ngoài. Đột nhiên bà gọi tôi:
"Này em!"
Tôi quay lại:
"Dạ".
"Em đứng làm gì ở đấy?"
"Cháu đứng đây… hóng mát".
Bà phán im lặng một lát rồi tiếp: "Chiều nay nóng lắm nhỉ?"
"Dạ, hơi nóng.
Bây giờ tôi mới nhận thấy nét mặt bà phán hôm nay có một cái gì hơi khác lạ. Trông bà có vẻ bâng khuâng thế nào. Cả giọng nói của bà cũng khác. Bà nói mà hình như không chú ý vào lời nói lắm thì phải. Bà hướng mặt về phía tôi nhưng mắt không nhìn vào tôi. Đôi mắt đó long lanh hơn mọi ngày nhưg lại đượm một vẻ rất xa xôi, huyền ảo. Bà bảo tôi:
"Em mang hộp bích quy ở bàn kia lại đây cho chị đi".
Tôi mang hộp bánh đến đưa cho bà, nhưng bà nằm im không giơ tay đỡ hộp. Bà chỉ nói:
"Em mở ra lấy bánh mà ăn. Chị cho phép em tha hồ ăn. Ngồi xuống đây".
Bà phán vừa nói vừa nằm nhích vào, dành chỗ xô-pha cho tôi. Tôi hơi ngần ngại không dám ngồi. Từ trước đến giờ tôi vẫn thân với bà phán song chưa bao giờ được ngồi gần bên bà. Tôi cũng biết là bà yêu quý tôi nhưng sự yêu quý đó chưa bao giờ được thể hiện một cách đặc biệt như hôm nay. Tôi còn đang phân vân thì bà phán đã nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi, kéo tôi ngồi xuống bên bà, đồng thời nhắc lại câu nói trước:
"Em mở ra mà ăn. Chị cho phép em tha hồ ăn đấy".
Hơi bẽn lẽn, tôi mở nắp hộp. Trước khi lấy bánh cho tôi, tôi giơ hộp mời bà. Bà khẽ mỉm cười ngồi dậy:
"Ừ, thì chị ăn với em".
Tôi đặt hộp bánh ở đầu ghế. Bà phán nhìn vào hộp rồi khẽ dùng hai ngón tay kẹp lấy một cái bánh đưa cho tôi. Sau đấy bà nhón một cái khác đưa lên miệng. Tôi nhìn theo cái bánh bị gãy một phần ba giữa đôi hàm răng đều đặn. Chúng tôi cùng ăn.
Lát sau, bà nhoài người ra chiếc bàn con bên cạnh để lấy một cuốn sách mỏng. Bà vừa ăn vừa phe phẩy quạt cho bà và cho cả tôi. Bà lại hỏi:
"Bánh có ngon không?"
"Ngon".
"Bích quy bơ đấy. Ăn nữa đi. Chị còn nhiều, hai ba hộp nữa trong tủ".
Đến đây bà phán quàng luôn một cánh tay qua cổ tôi. Không hiểu sao, đột nhiên tôi nóng mặt. Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy hơi bẽn lẽn ngượng ngập đối với bà. Nhưng tôi vẫn ngồi im. Cánh tay trần của bà động vào cổ tôi. Tôi bối rối nhưng bà phán hình như không để ý. Bà nhắc lại câu nói đã cũ:
"Bánh ngon đấy nhỉ".
"Bà mới có ăn một cái".
Bà phán nhích đến gần tôi hơn:
"Ừ, chị ăn nữa chứ. Nhưng em phải ngồi sát vào chị thì ăn mới vui".
Rồi bà phán khẽ ghì tay kéo luôn đầu tôi ngã vào ngực bà. Xấu hổ, tôi khẽ kéo đầu ra nhưng không được vì cánh tay bà vẫn ghì chặt. Không những thế thỉnh thoảng bà còn đu đưa cánh tay cho cái đầu tôi khẽ nhún nhảy. Một lần nữa tôi khẽ kéo đầu ra. Tuy nhiên tôi không dám cử động mạnh sợ bà giận. Giá lúc này bà buông tôi ra thì chắc chắn tôi sẽ đứng dậy và lảng đi chổ khác. Nhưng bà không buông, và rốt cuộc tôi đành ngồi im. Lúc này mớ tóc đen mềm của bà phán, thơm mùi bồ kết, lại hơi xổ ra, rũ lòa xòa xuống vai tôi. Hơi thở bà lan khắp cổ tôi. Hàng khuy áo bà đã buột ra lúc nào tôi không hay. Và lúc này đột nhiên một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm tôi. (Từ lúc tôi còn bé cho đến năm tôi lên năm, sáu tuổi tôi vẫn thường được ngủ chung với mẹ và thường áp mặt vào ngực người. Những khi đó tôi vẫn cảm thấy một nỗi sung sướng tràn trề của tình mẫu tử. Nhưng bây giờ bị ép mặt vào bộ ngực trắng nõn của bà phán K… tôi lại cảm thấy sung sướng một cách bối rối và hốt hoảng khác hẳn với những lúc tôi áp mặt vào ngực mẹ khi xưa). Ngồi bên bà phán, người tôi bỗng xao xuyến vì một cảm giác chưa từng có. Lần đầu tiên tôi đã khám phá ra một quyền lực kỳ dị ở thân thể người đàn bà. Da thịt bà phán đã mặc khải cho tôi một cái thế giới rất mới mẻ của cảm giác. Cái quyền lực của nó có lẽ còn mạnh hơn quyền lực của một tiếng cười ưng chịu rúc lên từ chiếc cổ nõn của một cô gái mười tám tuổi mà tôi đã gặp năm năm về sau, cái tiếng cười đã khiến tôi phải loay hoay với cây bút trong suốt ba ngày để gò gẫm bài thơ đầu tiên.
Lại thêm cái vẻ kỳ ảo, xa xôi, quái đản trong đôi mắt bà phán lúc đó. Đôi mắt bâng khuâng, mơ màng và đột nhiên trở thành ngây dại đó đã dạy cho tôi hiểu rằng mắt không phải chỉ để nhìn những vật hữu hình nhưng còn để nhìn cả những vật vô hình. Phải, mắt bà đang nhìn những cái vô hình và chính tôi hình như cũng cảm thấy một cách rất mơ hồ cái vô hình đó, một cái gì rất thấp thoáng, rất mong manh, rất huyền diệu mà cho đến sáu, bảy năm sau tôi mới có thể tạm đặt tên cho nó là dục vọng.
Tôi không nhớ rõ tôi đã được bà phán ôm ấp, vuốt ve bao lâu. Mười phút? Mười lăm phút? Tôi vừa mừng vừa tiếc nuối khi bà buông tôi ra để vấn lại mớ tóc. Giọng bà trở lại bình thường:
"Chiều nay em có đi chơi đâu không?"
"Dạ, em sắp đi đây, bà có cần đổi sách không?"
Bà không trả lời, thong thả bước vào giường ngủ sau tấm ri đô ở góc phòng, lấy ra cuốn sách kèm theo một đồng hào ván mới đưa cho tôi:
"Em đưa đổi cho chị cuốn này lấy cuốn Quả dưa đỏ nhé. Còn đây một hào chị cho em".
Mọi khi được bà phán cho tiền tôi mừng rơn, nhưng lúc này không hiểu sao tôi lại hơi mắc cỡ, không muốn nhận đồng hào ấy. Tuy nhiên, sau mấy giây đắn đo tôi thong thả bỏ nó vào túi, cám ơn lí nhí mấy câu rồi cầm cuốn sách xuống nhà. Tôi không muốn nhận đồng hào nhưng vẫn phải nhận vì nếu từ chối, tôi sợ mất lòng bà phán.
Hai hôm sau, ông phán K… trở lại Hà Nội. Ông về rất sớm trong lúc tôi còn đang ngủ. Khi tỉnh dậy tôi đã nghe tiếng ông nói trên gác. Hình như ông đang truyền lệnh cho con sen thu dọn đồ đạc. Đột nhiên tôi thấy nôn nao trong dạ. Bà phán sắp từ giã Hà Nội, từ giã gia đình tôi, từ giã tôi để đi với chồng! Thế là hết. Từ nay trở đi, tôi lại sống cô độc như cũ, không còn ai để thương mến nữa. Bà phán ra đi, tôi sẽ hết được ăn bánh bích quy của bà, hết được chạy đi thuê sách cho bà để thỉnh thoảng bà trả công cho vài xu, và nhất là hết hy vọng được bà ôm ấp như lần vừa rồi. Lần đầu tiên tôi cảm thấy một nỗi buồn bã. Bà phán sắp đi, bà sắp ra đi. Tiếng ông phán vẫn léo nhéo trên gác. Mỗi lời của ông như kích thích thêm sự nôn nao trong lòng tôi. Tôi chui ra khỏi màn, uể oải bước ra sân. Gặp con sen tôi khẽ hỏi:
"Chị sắp đi đấy à?"
"Trưa hôm nay đi. Đi tàu một giờ".
Tuy biết mình nói thừa nhưng tôi vẫn hỏi thêm:
"Thế bà phán cũng đi hôm nay à?"
"Đi chứ".
Tôi lặng lẽ múc nước rửa mặt, con sen quay xuống bếp nói với ra:
"Ở đây đang vui quá cậu nhỉ. Phải xa Hà Nội buồn buồn là".
Tôi không nói gì nữa. Trưa hôm ấy khi gia đình tôi vừa ăn cơm xong, đã thấy ông bà phán K… ăn mặc chỉnh tề bước xuống. Họ gặp cha tôi để ngỏ lời từ biệt. Hành lý của họ gồm mấy chiếc va-li, hai cái giường, một bộ bàn ghế và những thứ lặt vặt khác đã được con sen thuê xe bò chở ra ga trước rồi. Ông bà phán cũng sắp sửa lên đường. Một giờ tàu chạy mà. Tôi liếc nhìn đồng hồ trên tường: mười hai giờ mười lăm. Dạ tôi lúc này bồn chồn hơn bao giờ hết. Cả buổi sáng nay tôi nghĩ hoài đến bà phán và đinh ninh rằng bà cũng buồn như tôi vì phải xa tôi. Ai ngờ trưa hôm đó trông bà chẳng buồn một tí nào. Trái lại, bà còn tươi cười vui vẻ hơn mọi ngày. Cái vẻ ủ ê của bà trong thời gian ông phán xa nhà đã biến mất. Bà đi kề bên chồng. Người họ sát vào nhau.
Tuy nhiên, tôi biết thế nào bà phán cũng từ biệt tôi. Bà ngỏ lời từ biệt tôi thật. Nhưng trái với dự đoán của tôi, giọng bà chẳng có gì tha thiết quyến luyến cả. Bà chỉ nói: "Cậu ở lại mạnh giỏi nhé!" Vẻ mặt bà rất thản nhiên, vô tình khi nói câu đó. Tôi lí nhí trả lời một câu nhưng vì quá xúc động nên chẳng nói ra lời.
Anh bếp Cẩm đã gọi được một chiếc xe tay. Cha tôi tiễn đưa ông bà phán ra tận ngoài đường. Tôi cũng ra theo. Họ chào chúng tôi một lần nữa rồi bước lên xe. Anh xa phu nâng cao càng xe lên, khẽ ngả người về đằng trước, lấy đà. Chiếc xe chuyển bánh tiến nhanh dần về phía cuối đường. Tôi đứng ngẩn ngơ nhìn theo, hy vọng bà phán sẽ quay lại nhìn tôi.
Nhưng bà không hề quay lại nữa. Ngồi bên chồng bà, có lẽ bà chẳng còn nhớ đến tôi. Hình như chạm phải một hòn đá nhỏ, chiếc xe khẽ nghiêng sang một bên khiến đầu bà phán càng sát vào đầu chồng.
Chiếc xe khuất ở đầu giường. Cha tôi đã vào nhà tự lúc nào, nhưng tôi vẫn ngơ ngác trước cửa. Đôi mắt tôi hơi cồm cộm, không hiểu vì tôi đã quá chăm chú nhìn theo kẻ ra đi, hay vì tôi muốn khóc.
1965