Chuyện nhà sư khất thực thứ ba
Tác giả: Nghìn lẻ một đêm
- Tôi tên là A-dip - Anh ta nói - Và tôi là con một nhà vua tên là Cát-xíp. Sau khi cha tôi qua đời, vì thích đi du lịch, tôi cho đóng một đội tàu hạ thuỷ lên bờ biển đảo của chúng tôi để đi thăm hỏi những người dưới quyền. Những chuyến đi trước đã cho tôi một vài kinh nghiệm về nghề hàng hải nên nay tôi có ý định đi khám phá những vùng ngoài đảo của mình. Sau khi đóng xong mười con tàu chúng tôi ra đi.
Chuyến đi của chúng tôi bình an vô sự trong bốn chục ngày; nhưng tới đêm ngày thứ bốn mươi mốt, bão táp nổi lên dữ dội khiến mười con tàu tách rời nhau, mỗi tàu đi một ngả. Con tàu của tôi bị sóng dữ nhấn chìm xuống biển sâu. Mọi người đều bị chết đuối; nhưng khi thượng đế đã thương hại tôi, tôi bám vào được một mảnh ván, gió đưa tôi vào một hòn đảo nhiều cây. Quá mệt nhọc, tôi nằm lăn ra ngủ bên bờ biển.
Hôm sau tôi lùng sục trên đảo nhưng không thấy dấu vết nào là có người ở đây. Tôi tìm nơi thuận tiện để ở lại và hy vọng thấy được một cánh buồm ở nơi chân trời.
Tôi sống trong tình cảnh buồn thảm ấy trong một tháng ròng. Thời gian ấy tôi thấy nước biển ngày càng hạ dần xuống, hòn đảo ngày càng lớn lên. Cuối cùng tôi thấy hòn đảo của tôi nối với đất liền bằng một con sông nhỏ. Tôi lội qua sông, nước chỉ lên tới đầu gối. Tôi đi rất lâu trên cát và đã thấm mệt. Cuối cùng tôi tới được một nơi cao ráo, đã rất xa biển, thì bất chợt tôi thấy từ xa một mảng trời đỏ rực như đang có một đám cháy lớn. Tôi tiến lại phía đó, khi tới gần tôi thấy mình đã nhầm. Cái mà tôi cho là lửa thì đó là một lâu đài bằng đồng hồ đỏ, ánh sáng mặt trời chiếu làm ta có cảm giác như nó đang bốc cháy.
Tôi dừng bước trước lâu đài, đang ngồi để ngắm kiểu kiến trúc của nó, thì thấy mười người con trai đang đi dạo. Họ ăn vận chỉnh tề, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là họ đều chột mắt bên phải cả. Đi theo họ là một ông già đạo mạo vóc người coa lớn.
Tôi rất lấy làm lạ vì tại sao lại một lúc gặp nhiều người chột mắt đến như vậy, mà đều chột mắt bên phải cả. Trong khi tôi đang cố gắng suy nghĩ về hiện tượng lạ lùng này thì họ đến bên tôi chào hỏi vui vẻ. Sau đó họ hỏi tôi lý do nào khiên tôi tới đây. Tôi kể chuyện đắm tàu, chuyện mình đã sống đơn độc quá lâu khiến họ vô cùng thương cảm. Sau đó, những vị lãnh chúa trẻ ấy mời tôi vào lâu đài của họ. Tôi nhận lời mời, chúng tôi đi qua một dãy hành lang của nhiều phòng lớn và phóng xép, cuối cùng vào một phòng lớn có mười chiếc ghế sô-pha bọc vải xanh xếp thành vòng tròn, ở giữa vòng tròn có một chiếc ghế cùng màu nhưng lớn hơn dành cho ông già mười chàng trai ngồi trên những chiếc ghế kia.
- Anh bạn - Một người trong số họ bảo tôi - Anh hãy ngồi trên tấm thảm ở giữa nhà, và đừgn hỏi những gì không liên quan đến anh, cả việc tại sao chúng tôi đều chột ở mắt phải. Không nên tò mò, nếu không sự tàn tật ấy cũng xảy ra với anh.
Ông già không ngồi lâu, ông đứng lên và đi ra, nhưng sau đó lạu trở vài mang cháo chia cho mười người. Ông già đưa suất ăn cho tôi như những người khác; cuối bữa, ông già tiếp chúng tôi mỗi người một cốc rượu vang.
Đến khuya, trong lúc chúng tôi đang ngồi yên lặng thì ông già đi vào phòng bên, khi đi ra đội trên đầuu một mâm phủ vải xanh, trên đó có mười cái bát. Ông đặt trước mặt mỗi người một cái bát trong đó có tro than, bột màu đen trộn lẫn vào nhau. Mỗi người cầm lấy chiếc bát của mình và bôi tro lên mặt, trông sợ đến phát khiếp. Sau khi làm nhem nhuốc mặt mày họ bắt đầu khóc lóc, than vãn, đám tay vào đầu, vào ngực, miệng nhắc đi nhắc lại : "Đây là kết quả của sự lười biếng và thói ăn chơi của chúng tôi!"
Họ làm việc này hầu như suốt đêm. Khi kết thúc, ông già mang nước ra cho họ rửa tay, rửa mặt, họ thay áo quần cũng bị bôi bẩn bằng bộ sạch sẽ, như là họ chưa tứng làm cái việc lạ lùng mà tôi vừa là khán giả.
Cảnh ấy diễn ra vào đêm hôm sau và những đêm tiếp theo đó, tới mức tôi không thể cưỡng lại tính tò mò của mình, tôi hỏi họ hoặc họ cho tôi biết rõ câu chuyện, hoặc là chỉ đường cho tôi về vương quốc của mình. Tôi nói là tôi không thể sống mãi với họ mà mỗi đêm lại xảy ra cái cảnh ấy trong khi tôi chẳng biết lý do của nó.
Một trong các vị lãnh chúa ấy nói thay mọi người:
- Nếu các anh muốn bị bất hạnh như chúng tôi thì anh chỉ cần nói, chúng tôi sẽ thoả mãn cái mà anh yêu cầu. Nhưng chúng tôi khuyên anh nên tò mò ít thôi, nếu không anh sẽ bị chột như chúng tôi.
- Mặc kệ! - Tôi trả lời - Tôi xin tuyên bố rằng, nếu tai họa ấy đến với tôi, tôi không coi các anh là thủ phạm, tôi tự chịu trách nhiệm.
Anh ta còn bảo tôi, nếu khi tôi bị hỏng mắt, thì tôi không hy vọng gì ở lại đây với họ bởi số người của họ đã đủ rồi, không thể tăng thêm nữa. Tôi vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình. Mười người con trai thấy không lay chuyển được nguyện vọng của tôi, họ đi chọc tiết một con cừu, lột da nó, đưa cho tôi một con dao và nói:
- Cầm lấy con dao này, chúng tôi sẽ cho anh biết anh sẽ dùng nó để làm gì. Chúng tôi sẽ cho anh vào tấm da cừu và khâu lại, sau đó chúng tôi sẽ đặt anh ở trước lâu đài và ra về. Một con chim rất lớn, người ta gọi là chim thần, sẽ bay tới và sẽ quắp anh bay lên tận mây xanh. Nhưng không nên sợ hãi. Nó sẽ hạ cánh đặt anh lên một đỉnh núi cao. Tới nơi, anh lấy dao rạch tấm da cừu và thoát ra. Chim thần sẽ bay đi thấy người và để anh được tự do. Từ đấy anh sẽ đến một lâu đài rất lớn, có gắn vàng, kim cương và đá quý. Anh tới trước cửa, cửa để ngỏ, và đi vào. Mọi người chúng tôi đã tới lâu đài ấy, nhưng chúng tôi sẽ không nói với anh những gì chúng tôi đã nhìn thấy, anh tự tìm hiểu lấy. Cái mà chúng tôi có thể nói là tại đấy chúng tôi đã mất con mắt bên phải và hình phạt mà anh đã chứng kiến cũng từ đấy mà ra.
Tôi chui vào tấm da cừu, các anh khâu giúp lại, mang tôi ra trước lâu đài, đặt xuống, sau đó rút lui. Chim thần nhanh chóng bay tới, lao xuống quắp lấy tấm da cừu bằng những móng sắc và mang tôi tới một đỉnh núi cao.
Khi được đặt xuống đất, tôi đã kịp thời sử dụng con dao, rạch tấm da cừu và chui ra, chim thần bay mất khi nhìn thấy tôi. vì sốt ruột muốn tới ngay lâu đài, tôi bước nhanh nhưng cũng mất nửa ngày trời mới tới được. Cửa để mở. Tôi bước vào thấy một cái sân rất rộng, xung quanh có chín mươi chín cây cột bằng gỗ trầm hương và một cây cột bằng vàng đúc, không kể những cầu thang rất đẹp dẫn lên các lâu phía trên. Một trăm lối đi dẫn ra những khu vườn hoa, nhưng kho tàng đầy của quý.
Tôi đi qua một cửa để ngỏ gần đấy vào trong một phòng lớn, có bốn chục cô gái rất xinh đẹp mà trí tưởng tượng của tôi không thể đạt được đến điểm ấy, đang ngồi. Họ ăn vận kiều diễm. Tất cả đều đứng lên khi thấy tôi, không đợi những lời ngợi khen của tôi, họ tỏ ra rất vui mừng:
- Thưa đức ông, hãy là vị khách nồng hậu! Đã từ lâu chúng em trông đợi một hiệp sĩ như chàng. Phong cách của chàng lộ rõ những đức tính chúng em hằng mong muốn. Chúng em hy vọng rằng chàng không thấy chúng em là không xứng đáng với chàng.
Tôi kể cho họ nghe câu chuyện về tôi cho tới chiều tối. Thế là những cô gái này mang tới rất nhiều nến làm sáng rực những bức tường căn phòng; trong khi các cô khác dọn bàn ăn, đặt lên đó những quả khô, mứt kẹo và những thức ăn ngon; các cô khác nữa thì chơi âm nhạc. Tất cả đã sẵn sàng để mời tôi ngồi vào bàn. Các cô cùng ngồi với tôi, và chúng tôi ăn uống rất lâu. Sau đó các cô chơi nhạc và cất tiếng hát thành một dàn hợp xướng êm ái. Các cô khác bắt đầu khiêu vũ, từng đôi một, hết người này đến người khác nhảy một điệu nhảy đẹp nhất thế gian.
Đã quá nửa đêm, tất cả những cuộc vui ấy chấm dứt, một nàng quay sang phía tôi và nói:
- Chàng đã mệt vì đi đường hôm nay, đã đến lúc chàng đi nghỉ. Phòng ngủ của chàng đã được chuẩn bị và chúng em mong rằng chàng có một giấc ngủ ngon lành.
Đúng là tôi đã có một giấc ngủ ngon. Tôi chỉ thức dậy vào lúc mặt trời mọc hôm sau. Khi tôi vừa ăn vận xong thì bồn chục cô gái tràn vào phòng tôi, đầm đìa nước mắt thay vì sự vui vẻ như tối hôm qua. Các cô lần lượt tới ôm hôn tôi hết người này đến người khác.
- Tạm biệt hoàng tử thân yêu, tạm biệt! Chúng em phải đi.
Nước mắt của họ làm tôi đau đớn. Tôi yêu cầu các cô cho tôi biết rõ nguyên nhân của sự buồn rầu của họ.
- Thế này- Một người trong các cô nói - Để chàng thoả mãn em phải nói ngay rằng chúgn em là những công chúa, con gái các nhà vua. Chúng em sống ở đây như chàng đã thấy; nhưng mỗi năm chúng em phải vắng nơi này bốn chục ngày vì những bổn phận cần thiết mà không thể tiết lộ được. Sau đo chúng em lại trở về lâu đài. Hôm qua là hết hạn một năm và hôm nay chúng em phải tạm biệt chàng; mà chàng vừa mới tới, đây là lý do sự buồn rầu của chúng em. Trước khi đi, chúng em để lại cho chàng tất cả những chùm chìa khoá của một trăm cánh cửa để chàng có thể đi thăm, làm dịu nỗi buồn đơn độc khi chúng em không có mặt ở đây. Nhưng vì sự an toàn và lợi ích của chàng, chúng em dặn chàng là không nên mở cánh cửa bằng vàng. Nếu chàng mở nó thì chúng ta không bao giờ gặp mặt nhau nữa và sự sợ hãi làm chúng em càng thêm đau đớn. Hy vọng chàng nhớ kỹ lời dặn của chúng em. Nó sẽ cho chúng ta sự nghỉ ngơi thanh thản và hạnh phúc trong cuộc đời của chúng ta. Chúng em mong chàng đừng phạm sai lầm, để chúng em có được sự an ủi sau bốn chục ngày. Chúng em có thể mang chiếc chìa khoá cánh cửa bằng vàng đi, nhưng điều đó sợ làm phật ý một hoàng tử như chàng, tỏ ra không tin vào sự thận trọng và tư cách của chàng.
Lời nói của nàng công chúa xinh đẹp đã gây cho tôi một sự đau buồn thực sự Tôi nói với các nàng là sự vắng mặt của họ gây ra cho tôi nhiều phiền muộn. Tôi cảm ơn sự chăm sóc của họ với tô, những lời họ dặn dò tôi. Cuộc chia tay của chúng tôi diễn ra rất cảm động, tôi ôm hôn từng cô, cô này đến cô khác; sau đó họ ra đi, một mình tôi ở lại lâu đài.
Tôi hứa với mình là không được quên lời dặn dò quan trọng mà các nàng đã nói: không bao giờ được mở cánh cửa bằng vàng. Tôi cầm chìa khoá mở các cánh cửa vào thăm các phòng có rất nhiều vật quý, hiếm của lâu đài. Nhưng vì ham biết rõ nên tôi đã mở chín mươi chín cánh cửa trong ba mươi chín ngày. Chỉ còn một cánh cửa bị cấm. Đến ngày thứ bốn mươi kể từ lúc các nàng công chúa kiều diễm ra đi. Ngày mai họ sẽ về và sự thích thú gặp lại họ không át nổi tính tò mò của tôi. Nhưng sự yếu hèn ấy đã làm tôi ân hận suốt đời, tôi đã làm theo ý định của mình.
Tôi mở cánh cửa định mệnh ấy. Tôi thấy bên trong là một phòng rộng, mái vòm cuốn, trên sàn là những cây nghệ. Rất nhiều cây cắm nến bằng vàng đúc trên có những ngọn nến đang cháy tỏa ra một hương thơm hổ phách, soi sáng rực gian phòng. ánh sáng còn được tăng thêm bởi các ngọn đèn thắp bằng dầu thơm. Trong tất cả những vật quý ở đây, cái làm tôi chú ý là một con ngựa đen tuyệt đẹp, con vật quý ấy mà người ta chưa từng thấy trên đời này. Tôi lại gần nó để ngắm kỹ, tôi thấy nó đã được đóng đủ yên cương bằng vàng, một máng cỏ bằng vàng đựng lúa mạch và hạt vừng một bên, bên kia là chậu nước thơm mùi hoa hồng. Tôi nắm lấy dây cương, mang con ngựa ra khỏi phòng để nhìn kỹ hơn. Tôi nhảy lên lưng ngựa, thú nó đi nhưng vì ngựa không động đậy, tôi lấy que đập ruồi nhặt được ở trong phòng vụt nó.
Khi vừa chạm vào người, ngựa hý vang, dang cánh, đôi cánh mà tôi không chú ý, bay tít lên mây xanh. Tôi phải bám chặt lấy cổ con ngựa để giữ cho được thăng bằng. Ngựa bay xuống đất rồi đậu trên nóc một lâu đài, tại đây không đợi tôi kịp nhảy xuống, nó rùng mình hất tôi ngã xuống đất, lông đuôi của nó đập làm vỡ con mắt bên phải của tôi.
Đó là lý do tại sao tôi bị chột mắt. Tôi nhớ rất rõ những lời các chàng trai nói trước đây. Con ngựa lại bay đi. Tôi buồn bã đứng lên, ân hận về tai hoạ mà mình tự chuốc lấy. Tôi đi xuống sân, tay ôm lấy con mắt đang rất đau. Vào gian phòng lớn, thấy mười chàng trai đang ngồi trên những chiếc ghế thấp, điều làm tôi hiểu đây là lâu đài- nơi tôi đã bị chim thần quắp đi.
- Mười chàng trai chột mắt tới gặp tôi. Họ không ngạc nhiên khi thấy tôi trở về cũng như thấy tôi bị hỏng mắt.
- Tôi sẽ sai lầm nếu tố cáo bạn về bất hạnh của mình - Tôi bảo họ - Tôi đã tự gây ra và tự mình phải chịu trách nhiệm.
- Những gì đã xảy ra với anh thì cũng đã xảy đến với chúng tôi. Chúng ta sẽ rất hạnh phúc, cả cuộc đời của chúng ta sẽ được bảo đảm, nếu chúng ta không mở cánh cửa vàng ấy trong khi các công chúa vắng mặt. Anh cũng không khôn ngoan hơn chúng tôi bởi vậy anh cũng phải chịu sự trừng phạt như chúng tôi. Chúng tôi rất muốn nhận anh vào nhóm chúng tôi để ăn chay, sám hối như chúng tôi đang làm mà chúng tôi cũng không biết thời hạn của nó là bao lâu. Nhưng chúng tôi cũng tuyên bố cái lý do không nhận anh được. Do đó, anh phải đi thôi, hãy tới gặp nhà vua ở Bát-đa, người sẽ quyết định số phận của anh.
Họ chỉ đường cho tôi và tôi chia tay họ. Trên đường đi, toi đã cạo râu tóc và khoác ao nhà sư khất thực. Tôi đã đi rất lâu. Cuối cùng thì tôi tới thành phố này chiều nay. Tôi đã gặp hai nhà sư anh em, cả hai cũng là những người mới tới đây. Chúng tôi cũng rất ngạc nhiên khi thấy ai cũng hỏng mắt bên phải cả. Nhưng không có thời gian để hỏi han nhau chuyện này, cái quan trọng là đi tìm chỗ nghỉ và ba đã là người hào hiệp cho chúng tôi được tạm trú.
Nhà sư khất thực thứ ba đã kể xong chuyện của mình, Zô-bê-ít lên tiếng:
- Được - Nàng nói - Cả ba được tự do, các người đi đâu thì đi.
- Thưa phu nhân - Một người trong số họ nói - Xin bà cho chúng tôi ngồi lại và tha lỗi về sự tò mò của chúng tôi, cho chúng tôi được nghe chuyện của các vị đây chưa nói.
Zô-bê-ít quay sang nhìn nhà vua, quan thủ hiến và viên tổng quản.
Quan thủ hiển Gia-pha nói thay những người cùng đi.
- Thưa phu nhân, như đã nói thay bà trước đây, chúng tôi là những lái buôn ở Mu-xun, chúng tôi tới Bát-đa để mua hàng và trú tại một nơi tạm trú của khách thương. Chúng tôi tới ăn chiều tại nhà của một người bạn hàng ở Bát-đa, sau khi ăn uống no say ông ta cho mời những người khiêu vũ và ca sĩ tới. Vì làm ồn ào nên quân lính đã tới bắt đi một số. May mắn chúng tôi thoát được, nhưng vì đã khuya, chúng tôi bị lạc đường và chúng tôi không biết đêm nay nghỉ ở đâu. Sự may mắn run rủi cho chúng tôi thấy nhà của phu nhân đang đàn hát và cuối cùng chúng tôi đã gõ cửa.
- Được rồi - Zô-bê-ít bảo họ - Ta tha cho các người, nhưng với điều kiện tất cả các người phải đi khỏi đây ngay lập tức, và các người đi đâu là tuỳ ý các người.
Nhà vua, quan thủ hiến, viên tổng quản, ba nhà sư khất thực và anh phu khuân vác đều không dám nói gì bởi còn bảy tên nô lệ có vũ khí buộc họ phải thận trọng. Khi họ đã ra khỏi nhà, cánh cửa đã khép lại sau lưng họ, nhà vua nói với ba nhà sư khất thực mà vẫn giữ bí mật bản thân mình:
- Còn các ngài, các ngài là người lạ, mới tới thành phố, các ngài định đi đâu trong đêm nay?
- Thưa ngài - Họ trả lời - Đó là cái đang làm chúng tôi băn khoăn nhất.
- Các ngài hãy đi theo chúng tôi, chúng tôi sẽ giúp các ngài lúc cơ nhỡ này.
Rồi nhà vua nói nhỏ với quan thủ hiến:
- Mang họ về nhà ông. Và sáng mai ông mang họ tới gặp ta. Ta muôn viết tập truyện phiêu lưu, những câu chuyện của họ xứng đáng có chỗ trong biên niên sử của triều đại ta.
Quan thủ hiến dẫn ba nhà sư khất thưc đi theo ông ta, viên tổng quản Mét-rua đưa nhà vua về lâu đài, con anh phu khuân vác về nhà mình. Đêm ấy nhà vua không thể nào ngủ được, tâm trí ngài vẫn bị khuyâý động về những chuyện tai nghe mắt thấy tối nay.
Sáng hôm sau nhà vua cho gọi quan thủ hiến tới:
- Những việc mà chúng ta cần giải quyết hôm nay thì không nhiều lắm. Ngài nói - Đó là chuyện ba người phụ nữ và hai con chó cái đen là đủ. Đầu óc ta không thể thanh thản khi có nhữn chuyện không hiểu được ấy. Cho gọi các phu nhân ấy tới, cũng đưa cả ba nhà sư khất thực vào đây nữa.
Một khắc đồng hồ sau tất cả đã đứng cúi chào trước mặt nhà vua. Họ không ngờ đây lại là người lái buôn ở Mu-xun mà mình ngồi kề bên tối hôm qua. Trước tiên nhà vua quay sang các phu nhân:
- Các phu nhân cao quý - Ngài bảo họ - Có thể là ta đã làm các người ngạc nhiên khi cải trang thành người lái buôn để tới nhà các vị tối qua. Không nên e sợ là ta đã bực mình, chi rằng ta gọi các người tới đây để tỏ sự giận hờn. Các người yên tâm, hãy tin rằng ta đã quên chuyện quá khứ và ta rất hài lòng về tư cách của các người. Ta muốn rằng tất cả các phu nhân ở thành Bát-đa này có được sự khôn ngoan của các người mà ta đã chứng kiến. Ta nhớ mãi sự bình tĩnh trước hành vi bất lịch sự mà ta đã phạm phải. Hôm qua ta là lái buôn ở Mu-xun, lúc này ta là vua Ha-run-an Rat-xít, nhà vua thứ năm của nhà Ap-ba, người giữ vị trí nhà tiên tri vĩ đại của chúng ta. Ta chỉ yêu cầu các người cho ta biết các người là ai, tại sao một con trong các người sau khi đã hành hạ hai con đen lại khóc với chúng, tại sao trên vai của một trong các người lại đầy vết sẹo như vậy.
- Tôi tên là A-dip - Anh ta nói - Và tôi là con một nhà vua tên là Cát-xíp. Sau khi cha tôi qua đời, vì thích đi du lịch, tôi cho đóng một đội tàu hạ thuỷ lên bờ biển đảo của chúng tôi để đi thăm hỏi những người dưới quyền. Những chuyến đi trước đã cho tôi một vài kinh nghiệm về nghề hàng hải nên nay tôi có ý định đi khám phá những vùng ngoài đảo của mình. Sau khi đóng xong mười con tàu chúng tôi ra đi.
Chuyến đi của chúng tôi bình an vô sự trong bốn chục ngày; nhưng tới đêm ngày thứ bốn mươi mốt, bão táp nổi lên dữ dội khiến mười con tàu tách rời nhau, mỗi tàu đi một ngả. Con tàu của tôi bị sóng dữ nhấn chìm xuống biển sâu. Mọi người đều bị chết đuối; nhưng khi thượng đế đã thương hại tôi, tôi bám vào được một mảnh ván, gió đưa tôi vào một hòn đảo nhiều cây. Quá mệt nhọc, tôi nằm lăn ra ngủ bên bờ biển.
Hôm sau tôi lùng sục trên đảo nhưng không thấy dấu vết nào là có người ở đây. Tôi tìm nơi thuận tiện để ở lại và hy vọng thấy được một cánh buồm ở nơi chân trời.
Tôi sống trong tình cảnh buồn thảm ấy trong một tháng ròng. Thời gian ấy tôi thấy nước biển ngày càng hạ dần xuống, hòn đảo ngày càng lớn lên. Cuối cùng tôi thấy hòn đảo của tôi nối với đất liền bằng một con sông nhỏ. Tôi lội qua sông, nước chỉ lên tới đầu gối. Tôi đi rất lâu trên cát và đã thấm mệt. Cuối cùng tôi tới được một nơi cao ráo, đã rất xa biển, thì bất chợt tôi thấy từ xa một mảng trời đỏ rực như đang có một đám cháy lớn. Tôi tiến lại phía đó, khi tới gần tôi thấy mình đã nhầm. Cái mà tôi cho là lửa thì đó là một lâu đài bằng đồng hồ đỏ, ánh sáng mặt trời chiếu làm ta có cảm giác như nó đang bốc cháy.
Tôi dừng bước trước lâu đài, đang ngồi để ngắm kiểu kiến trúc của nó, thì thấy mười người con trai đang đi dạo. Họ ăn vận chỉnh tề, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là họ đều chột mắt bên phải cả. Đi theo họ là một ông già đạo mạo vóc người coa lớn.
Tôi rất lấy làm lạ vì tại sao lại một lúc gặp nhiều người chột mắt đến như vậy, mà đều chột mắt bên phải cả. Trong khi tôi đang cố gắng suy nghĩ về hiện tượng lạ lùng này thì họ đến bên tôi chào hỏi vui vẻ. Sau đó họ hỏi tôi lý do nào khiên tôi tới đây. Tôi kể chuyện đắm tàu, chuyện mình đã sống đơn độc quá lâu khiến họ vô cùng thương cảm. Sau đó, những vị lãnh chúa trẻ ấy mời tôi vào lâu đài của họ. Tôi nhận lời mời, chúng tôi đi qua một dãy hành lang của nhiều phòng lớn và phóng xép, cuối cùng vào một phòng lớn có mười chiếc ghế sô-pha bọc vải xanh xếp thành vòng tròn, ở giữa vòng tròn có một chiếc ghế cùng màu nhưng lớn hơn dành cho ông già mười chàng trai ngồi trên những chiếc ghế kia.
- Anh bạn - Một người trong số họ bảo tôi - Anh hãy ngồi trên tấm thảm ở giữa nhà, và đừgn hỏi những gì không liên quan đến anh, cả việc tại sao chúng tôi đều chột ở mắt phải. Không nên tò mò, nếu không sự tàn tật ấy cũng xảy ra với anh.
Ông già không ngồi lâu, ông đứng lên và đi ra, nhưng sau đó lạu trở vài mang cháo chia cho mười người. Ông già đưa suất ăn cho tôi như những người khác; cuối bữa, ông già tiếp chúng tôi mỗi người một cốc rượu vang.
Đến khuya, trong lúc chúng tôi đang ngồi yên lặng thì ông già đi vào phòng bên, khi đi ra đội trên đầuu một mâm phủ vải xanh, trên đó có mười cái bát. Ông đặt trước mặt mỗi người một cái bát trong đó có tro than, bột màu đen trộn lẫn vào nhau. Mỗi người cầm lấy chiếc bát của mình và bôi tro lên mặt, trông sợ đến phát khiếp. Sau khi làm nhem nhuốc mặt mày họ bắt đầu khóc lóc, than vãn, đám tay vào đầu, vào ngực, miệng nhắc đi nhắc lại : "Đây là kết quả của sự lười biếng và thói ăn chơi của chúng tôi!"
Họ làm việc này hầu như suốt đêm. Khi kết thúc, ông già mang nước ra cho họ rửa tay, rửa mặt, họ thay áo quần cũng bị bôi bẩn bằng bộ sạch sẽ, như là họ chưa tứng làm cái việc lạ lùng mà tôi vừa là khán giả.
Cảnh ấy diễn ra vào đêm hôm sau và những đêm tiếp theo đó, tới mức tôi không thể cưỡng lại tính tò mò của mình, tôi hỏi họ hoặc họ cho tôi biết rõ câu chuyện, hoặc là chỉ đường cho tôi về vương quốc của mình. Tôi nói là tôi không thể sống mãi với họ mà mỗi đêm lại xảy ra cái cảnh ấy trong khi tôi chẳng biết lý do của nó.
Một trong các vị lãnh chúa ấy nói thay mọi người:
- Nếu các anh muốn bị bất hạnh như chúng tôi thì anh chỉ cần nói, chúng tôi sẽ thoả mãn cái mà anh yêu cầu. Nhưng chúng tôi khuyên anh nên tò mò ít thôi, nếu không anh sẽ bị chột như chúng tôi.
- Mặc kệ! - Tôi trả lời - Tôi xin tuyên bố rằng, nếu tai họa ấy đến với tôi, tôi không coi các anh là thủ phạm, tôi tự chịu trách nhiệm.
Anh ta còn bảo tôi, nếu khi tôi bị hỏng mắt, thì tôi không hy vọng gì ở lại đây với họ bởi số người của họ đã đủ rồi, không thể tăng thêm nữa. Tôi vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình. Mười người con trai thấy không lay chuyển được nguyện vọng của tôi, họ đi chọc tiết một con cừu, lột da nó, đưa cho tôi một con dao và nói:
- Cầm lấy con dao này, chúng tôi sẽ cho anh biết anh sẽ dùng nó để làm gì. Chúng tôi sẽ cho anh vào tấm da cừu và khâu lại, sau đó chúng tôi sẽ đặt anh ở trước lâu đài và ra về. Một con chim rất lớn, người ta gọi là chim thần, sẽ bay tới và sẽ quắp anh bay lên tận mây xanh. Nhưng không nên sợ hãi. Nó sẽ hạ cánh đặt anh lên một đỉnh núi cao. Tới nơi, anh lấy dao rạch tấm da cừu và thoát ra. Chim thần sẽ bay đi thấy người và để anh được tự do. Từ đấy anh sẽ đến một lâu đài rất lớn, có gắn vàng, kim cương và đá quý. Anh tới trước cửa, cửa để ngỏ, và đi vào. Mọi người chúng tôi đã tới lâu đài ấy, nhưng chúng tôi sẽ không nói với anh những gì chúng tôi đã nhìn thấy, anh tự tìm hiểu lấy. Cái mà chúng tôi có thể nói là tại đấy chúng tôi đã mất con mắt bên phải và hình phạt mà anh đã chứng kiến cũng từ đấy mà ra.
Tôi chui vào tấm da cừu, các anh khâu giúp lại, mang tôi ra trước lâu đài, đặt xuống, sau đó rút lui. Chim thần nhanh chóng bay tới, lao xuống quắp lấy tấm da cừu bằng những móng sắc và mang tôi tới một đỉnh núi cao.
Khi được đặt xuống đất, tôi đã kịp thời sử dụng con dao, rạch tấm da cừu và chui ra, chim thần bay mất khi nhìn thấy tôi. vì sốt ruột muốn tới ngay lâu đài, tôi bước nhanh nhưng cũng mất nửa ngày trời mới tới được. Cửa để mở. Tôi bước vào thấy một cái sân rất rộng, xung quanh có chín mươi chín cây cột bằng gỗ trầm hương và một cây cột bằng vàng đúc, không kể những cầu thang rất đẹp dẫn lên các lâu phía trên. Một trăm lối đi dẫn ra những khu vườn hoa, nhưng kho tàng đầy của quý.
Tôi đi qua một cửa để ngỏ gần đấy vào trong một phòng lớn, có bốn chục cô gái rất xinh đẹp mà trí tưởng tượng của tôi không thể đạt được đến điểm ấy, đang ngồi. Họ ăn vận kiều diễm. Tất cả đều đứng lên khi thấy tôi, không đợi những lời ngợi khen của tôi, họ tỏ ra rất vui mừng:
- Thưa đức ông, hãy là vị khách nồng hậu! Đã từ lâu chúng em trông đợi một hiệp sĩ như chàng. Phong cách của chàng lộ rõ những đức tính chúng em hằng mong muốn. Chúng em hy vọng rằng chàng không thấy chúng em là không xứng đáng với chàng.
Tôi kể cho họ nghe câu chuyện về tôi cho tới chiều tối. Thế là những cô gái này mang tới rất nhiều nến làm sáng rực những bức tường căn phòng; trong khi các cô khác dọn bàn ăn, đặt lên đó những quả khô, mứt kẹo và những thức ăn ngon; các cô khác nữa thì chơi âm nhạc. Tất cả đã sẵn sàng để mời tôi ngồi vào bàn. Các cô cùng ngồi với tôi, và chúng tôi ăn uống rất lâu. Sau đó các cô chơi nhạc và cất tiếng hát thành một dàn hợp xướng êm ái. Các cô khác bắt đầu khiêu vũ, từng đôi một, hết người này đến người khác nhảy một điệu nhảy đẹp nhất thế gian.
Đã quá nửa đêm, tất cả những cuộc vui ấy chấm dứt, một nàng quay sang phía tôi và nói:
- Chàng đã mệt vì đi đường hôm nay, đã đến lúc chàng đi nghỉ. Phòng ngủ của chàng đã được chuẩn bị và chúng em mong rằng chàng có một giấc ngủ ngon lành.
Đúng là tôi đã có một giấc ngủ ngon. Tôi chỉ thức dậy vào lúc mặt trời mọc hôm sau. Khi tôi vừa ăn vận xong thì bồn chục cô gái tràn vào phòng tôi, đầm đìa nước mắt thay vì sự vui vẻ như tối hôm qua. Các cô lần lượt tới ôm hôn tôi hết người này đến người khác.
- Tạm biệt hoàng tử thân yêu, tạm biệt! Chúng em phải đi.
Nước mắt của họ làm tôi đau đớn. Tôi yêu cầu các cô cho tôi biết rõ nguyên nhân của sự buồn rầu của họ.
- Thế này- Một người trong các cô nói - Để chàng thoả mãn em phải nói ngay rằng chúgn em là những công chúa, con gái các nhà vua. Chúng em sống ở đây như chàng đã thấy; nhưng mỗi năm chúng em phải vắng nơi này bốn chục ngày vì những bổn phận cần thiết mà không thể tiết lộ được. Sau đo chúng em lại trở về lâu đài. Hôm qua là hết hạn một năm và hôm nay chúng em phải tạm biệt chàng; mà chàng vừa mới tới, đây là lý do sự buồn rầu của chúng em. Trước khi đi, chúng em để lại cho chàng tất cả những chùm chìa khoá của một trăm cánh cửa để chàng có thể đi thăm, làm dịu nỗi buồn đơn độc khi chúng em không có mặt ở đây. Nhưng vì sự an toàn và lợi ích của chàng, chúng em dặn chàng là không nên mở cánh cửa bằng vàng. Nếu chàng mở nó thì chúng ta không bao giờ gặp mặt nhau nữa và sự sợ hãi làm chúng em càng thêm đau đớn. Hy vọng chàng nhớ kỹ lời dặn của chúng em. Nó sẽ cho chúng ta sự nghỉ ngơi thanh thản và hạnh phúc trong cuộc đời của chúng ta. Chúng em mong chàng đừng phạm sai lầm, để chúng em có được sự an ủi sau bốn chục ngày. Chúng em có thể mang chiếc chìa khoá cánh cửa bằng vàng đi, nhưng điều đó sợ làm phật ý một hoàng tử như chàng, tỏ ra không tin vào sự thận trọng và tư cách của chàng.
Lời nói của nàng công chúa xinh đẹp đã gây cho tôi một sự đau buồn thực sự Tôi nói với các nàng là sự vắng mặt của họ gây ra cho tôi nhiều phiền muộn. Tôi cảm ơn sự chăm sóc của họ với tô, những lời họ dặn dò tôi. Cuộc chia tay của chúng tôi diễn ra rất cảm động, tôi ôm hôn từng cô, cô này đến cô khác; sau đó họ ra đi, một mình tôi ở lại lâu đài.
Tôi hứa với mình là không được quên lời dặn dò quan trọng mà các nàng đã nói: không bao giờ được mở cánh cửa bằng vàng. Tôi cầm chìa khoá mở các cánh cửa vào thăm các phòng có rất nhiều vật quý, hiếm của lâu đài. Nhưng vì ham biết rõ nên tôi đã mở chín mươi chín cánh cửa trong ba mươi chín ngày. Chỉ còn một cánh cửa bị cấm. Đến ngày thứ bốn mươi kể từ lúc các nàng công chúa kiều diễm ra đi. Ngày mai họ sẽ về và sự thích thú gặp lại họ không át nổi tính tò mò của tôi. Nhưng sự yếu hèn ấy đã làm tôi ân hận suốt đời, tôi đã làm theo ý định của mình.
Tôi mở cánh cửa định mệnh ấy. Tôi thấy bên trong là một phòng rộng, mái vòm cuốn, trên sàn là những cây nghệ. Rất nhiều cây cắm nến bằng vàng đúc trên có những ngọn nến đang cháy tỏa ra một hương thơm hổ phách, soi sáng rực gian phòng. ánh sáng còn được tăng thêm bởi các ngọn đèn thắp bằng dầu thơm. Trong tất cả những vật quý ở đây, cái làm tôi chú ý là một con ngựa đen tuyệt đẹp, con vật quý ấy mà người ta chưa từng thấy trên đời này. Tôi lại gần nó để ngắm kỹ, tôi thấy nó đã được đóng đủ yên cương bằng vàng, một máng cỏ bằng vàng đựng lúa mạch và hạt vừng một bên, bên kia là chậu nước thơm mùi hoa hồng. Tôi nắm lấy dây cương, mang con ngựa ra khỏi phòng để nhìn kỹ hơn. Tôi nhảy lên lưng ngựa, thú nó đi nhưng vì ngựa không động đậy, tôi lấy que đập ruồi nhặt được ở trong phòng vụt nó.
Khi vừa chạm vào người, ngựa hý vang, dang cánh, đôi cánh mà tôi không chú ý, bay tít lên mây xanh. Tôi phải bám chặt lấy cổ con ngựa để giữ cho được thăng bằng. Ngựa bay xuống đất rồi đậu trên nóc một lâu đài, tại đây không đợi tôi kịp nhảy xuống, nó rùng mình hất tôi ngã xuống đất, lông đuôi của nó đập làm vỡ con mắt bên phải của tôi.
Đó là lý do tại sao tôi bị chột mắt. Tôi nhớ rất rõ những lời các chàng trai nói trước đây. Con ngựa lại bay đi. Tôi buồn bã đứng lên, ân hận về tai hoạ mà mình tự chuốc lấy. Tôi đi xuống sân, tay ôm lấy con mắt đang rất đau. Vào gian phòng lớn, thấy mười chàng trai đang ngồi trên những chiếc ghế thấp, điều làm tôi hiểu đây là lâu đài- nơi tôi đã bị chim thần quắp đi.
- Mười chàng trai chột mắt tới gặp tôi. Họ không ngạc nhiên khi thấy tôi trở về cũng như thấy tôi bị hỏng mắt.
- Tôi sẽ sai lầm nếu tố cáo bạn về bất hạnh của mình - Tôi bảo họ - Tôi đã tự gây ra và tự mình phải chịu trách nhiệm.
- Những gì đã xảy ra với anh thì cũng đã xảy đến với chúng tôi. Chúng ta sẽ rất hạnh phúc, cả cuộc đời của chúng ta sẽ được bảo đảm, nếu chúng ta không mở cánh cửa vàng ấy trong khi các công chúa vắng mặt. Anh cũng không khôn ngoan hơn chúng tôi bởi vậy anh cũng phải chịu sự trừng phạt như chúng tôi. Chúng tôi rất muốn nhận anh vào nhóm chúng tôi để ăn chay, sám hối như chúng tôi đang làm mà chúng tôi cũng không biết thời hạn của nó là bao lâu. Nhưng chúng tôi cũng tuyên bố cái lý do không nhận anh được. Do đó, anh phải đi thôi, hãy tới gặp nhà vua ở Bát-đa, người sẽ quyết định số phận của anh.
Họ chỉ đường cho tôi và tôi chia tay họ. Trên đường đi, toi đã cạo râu tóc và khoác ao nhà sư khất thực. Tôi đã đi rất lâu. Cuối cùng thì tôi tới thành phố này chiều nay. Tôi đã gặp hai nhà sư anh em, cả hai cũng là những người mới tới đây. Chúng tôi cũng rất ngạc nhiên khi thấy ai cũng hỏng mắt bên phải cả. Nhưng không có thời gian để hỏi han nhau chuyện này, cái quan trọng là đi tìm chỗ nghỉ và ba đã là người hào hiệp cho chúng tôi được tạm trú.
Nhà sư khất thực thứ ba đã kể xong chuyện của mình, Zô-bê-ít lên tiếng:
- Được - Nàng nói - Cả ba được tự do, các người đi đâu thì đi.
- Thưa phu nhân - Một người trong số họ nói - Xin bà cho chúng tôi ngồi lại và tha lỗi về sự tò mò của chúng tôi, cho chúng tôi được nghe chuyện của các vị đây chưa nói.
Zô-bê-ít quay sang nhìn nhà vua, quan thủ hiến và viên tổng quản.
Quan thủ hiển Gia-pha nói thay những người cùng đi.
- Thưa phu nhân, như đã nói thay bà trước đây, chúng tôi là những lái buôn ở Mu-xun, chúng tôi tới Bát-đa để mua hàng và trú tại một nơi tạm trú của khách thương. Chúng tôi tới ăn chiều tại nhà của một người bạn hàng ở Bát-đa, sau khi ăn uống no say ông ta cho mời những người khiêu vũ và ca sĩ tới. Vì làm ồn ào nên quân lính đã tới bắt đi một số. May mắn chúng tôi thoát được, nhưng vì đã khuya, chúng tôi bị lạc đường và chúng tôi không biết đêm nay nghỉ ở đâu. Sự may mắn run rủi cho chúng tôi thấy nhà của phu nhân đang đàn hát và cuối cùng chúng tôi đã gõ cửa.
- Được rồi - Zô-bê-ít bảo họ - Ta tha cho các người, nhưng với điều kiện tất cả các người phải đi khỏi đây ngay lập tức, và các người đi đâu là tuỳ ý các người.
Nhà vua, quan thủ hiến, viên tổng quản, ba nhà sư khất thực và anh phu khuân vác đều không dám nói gì bởi còn bảy tên nô lệ có vũ khí buộc họ phải thận trọng. Khi họ đã ra khỏi nhà, cánh cửa đã khép lại sau lưng họ, nhà vua nói với ba nhà sư khất thực mà vẫn giữ bí mật bản thân mình:
- Còn các ngài, các ngài là người lạ, mới tới thành phố, các ngài định đi đâu trong đêm nay?
- Thưa ngài - Họ trả lời - Đó là cái đang làm chúng tôi băn khoăn nhất.
- Các ngài hãy đi theo chúng tôi, chúng tôi sẽ giúp các ngài lúc cơ nhỡ này.
Rồi nhà vua nói nhỏ với quan thủ hiến:
- Mang họ về nhà ông. Và sáng mai ông mang họ tới gặp ta. Ta muôn viết tập truyện phiêu lưu, những câu chuyện của họ xứng đáng có chỗ trong biên niên sử của triều đại ta.
Quan thủ hiến dẫn ba nhà sư khất thưc đi theo ông ta, viên tổng quản Mét-rua đưa nhà vua về lâu đài, con anh phu khuân vác về nhà mình. Đêm ấy nhà vua không thể nào ngủ được, tâm trí ngài vẫn bị khuyâý động về những chuyện tai nghe mắt thấy tối nay.
Sáng hôm sau nhà vua cho gọi quan thủ hiến tới:
- Những việc mà chúng ta cần giải quyết hôm nay thì không nhiều lắm. Ngài nói - Đó là chuyện ba người phụ nữ và hai con chó cái đen là đủ. Đầu óc ta không thể thanh thản khi có nhữn chuyện không hiểu được ấy. Cho gọi các phu nhân ấy tới, cũng đưa cả ba nhà sư khất thực vào đây nữa.
Một khắc đồng hồ sau tất cả đã đứng cúi chào trước mặt nhà vua. Họ không ngờ đây lại là người lái buôn ở Mu-xun mà mình ngồi kề bên tối hôm qua. Trước tiên nhà vua quay sang các phu nhân:
- Các phu nhân cao quý - Ngài bảo họ - Có thể là ta đã làm các người ngạc nhiên khi cải trang thành người lái buôn để tới nhà các vị tối qua. Không nên e sợ là ta đã bực mình, chi rằng ta gọi các người tới đây để tỏ sự giận hờn. Các người yên tâm, hãy tin rằng ta đã quên chuyện quá khứ và ta rất hài lòng về tư cách của các người. Ta muốn rằng tất cả các phu nhân ở thành Bát-đa này có được sự khôn ngoan của các người mà ta đã chứng kiến. Ta nhớ mãi sự bình tĩnh trước hành vi bất lịch sự mà ta đã phạm phải. Hôm qua ta là lái buôn ở Mu-xun, lúc này ta là vua Ha-run-an Rat-xít, nhà vua thứ năm của nhà Ap-ba, người giữ vị trí nhà tiên tri vĩ đại của chúng ta. Ta chỉ yêu cầu các người cho ta biết các người là ai, tại sao một con trong các người sau khi đã hành hạ hai con đen lại khóc với chúng, tại sao trên vai của một trong các người lại đầy vết sẹo như vậy.