watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Ngư Tiều Y thuật Vấn Đáp-Trang 6 - tác giả Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu

Trang 6

Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu

Ngư rằng : Bệnh nhiễm hơi tà,
Sao là ngoại cảm, sao là nội thương ?
1805- Chứng kiêm ngoại cảm nội thương,
Phép thầy trị liệu theo đường nào ôi ?

Môn rằng : Sách có biện rồi,
Nội thương, ngoại cảm, hai hồi phân minh.
Nội thương đều bởi thất tình,
1810- Đau từ năm tạng trong mình gây ra.
Ngoại thương đều bởi xông pha,
Khiến nên sáu phủ chịu tà lục dâm.
Hợp coi mạch lý dương âm,
Mạch Phù ngoại cảm, mạch Trầm nội thương.
1815- Bệnh nào ăn uống nội thương,
Tay hữu Khí khẩu mạch cường nhảy to,
Bệnh nào cảm mạo ngoại lo,
Nhân nghênh tay tả mạch to nhảy về.
Nội thương nóng lạnh chẳng tề,
1820- Thoạt nóng, thoạt mát, rề rề nào kham,
Ngoại thương nóng lạnh đều làm,
Buổi không xen hở, nằm dầm rên than.
Ngoại thương chứng thật ố hàn,
Dù gần bếp lửa chẳng tan hơi hàn.
1825- Nội thương chứng cũng ố hàn,
Đăng mền nệm ấm bèn tan lạnh lùng,
Ngoại thương chứng cũng ố phong,
Ghét luồng gió lớn thổi giông đùng đùng.
Nội thương chứng cũng ố phong,
1830- Ghét hơi gió nhỏ lòn trong cửa nhà.
Ngoại thương rõ ở mũi va,
Mũi hơi nghẹt cứng, hoặc ra nước bồi.
Nội thương rõ ở miệng môi,
Miệng không biết vị, trong ngôi chẳng hoà.
1835- Lại coi trên bàn tay va,
Lưng bàn tay nóng, ấy là ngoại thương.
Khác thay mấy chứng nội thương,
Lòng bàn tay nóng, phép thường chẳng sai,
Ngoại thương thường nhức đầu hoài,
1840- Bao giờ truyền lý mới phai nhức đầu.
Nội thương cũng có nhức đầu,
Thoạt êm thoạt nhức, mau lâu không chừng.
Ngoại thương tiếng nói lẫy lừng,
Lời ra trước nhẹ, sau ngừng nặng hơi.
1845- Nội thương tiếng dức ra lời,
Trước nặng sau nhẹ, ít hơi đã đành.
Đến như mấy chứng truyền kinh,
Trong ngoài đều có bệnh tình đua nhau.
Hợp coi lời biện trước sau,
1850- Phép làm hoãn, cấp, theo đau trị điều.
Bằng tay chứng ngoại cảm nhiều,
Chứng nội thương ít, kíp theo ngoại điều.
Bằng tay chứng nội thương nhiều,
Chứng ngoại cảm ít, kíp theo trong điều.
!855- Ấy rằng trị bản, trị tiêu,
Hoặc chầy, hoặc kíp, phép điều ở ta.
Trị tiêu thời phát tán ra,
Gọi rằng ngoại cảm, thật là hữu dư.
Trị bản thời chuyên bổ hư,
1860- Gọi rằng bất túc, gốc từ trong đau.
Dù cho nội ngoại đều đau,
Bản, tiêu kiêm trị, có màu thuốc phân.
Ngoài nhiều trong ít chẳng cần,
Sáu phần trị ngoại, bốn phần trị trong.
1865- Ngoài chầy trong kíp chẳng đồng,
Trị ngoài phần ít, trị trong phần nhiều,
Cho hay thương, cảm chẳng đều,
Xưa nay trị luận sách nêu nhiều bài.
Tục công học thuốc sơ sài,
1870- Lấy trong bất túc làm ngoài hữu dư,
Chẳng thông hai chữ thực, hư,
Phép dùng hãn, hạ rối như tơ vò.

Tiều rằng: Sông biển dễ dò,
Bệnh tình chân giả ít mò đặng ra.
1875- Phép y thổ, hãn, hạ, hoà.
Làm sao nhằm bệnh, dạy ta khỏi lầm?

Môn rằng : Nóng lạnh hầm hầm,
Giả hàn, giả nhiệt, dễ lầm dung y.
Giả hàn ngoài lạnh tứ chi,
1880- Họng khô, khát nước, đái đi vàng già.
Giả nhiệt nóng ở ngoài da,
Trùm không khát nước, đái ra trong ngần,
Lạnh giả thời nóng ắt chân,
Nóng giả thời lạnh, thật phân cho tường.
1885- Như chứng cách âm đới dương,
Ngoài rờ giống hực, trong thường lạnh hâm.
Lại như mấy chứng tự âm,
Ngoài rờ nóng lạnh, trong hầm nóng ran.
Phép y trị nhiệt, trị hàn,
1890- "Ôn lương" hai chữ khuyên chàng chớ quên.
Muốn chia chân giả hai bên,
Vọng, văn, vấn, thiết, phép trên hợp lường.
Cho hay là khí nhiều đường,
Vốn không định vóc, biến dường trở tay.
1895- Phép y thổ, hãn, hạ hay,
Quả như thực chứng, dùng dày mới nên.
Thổ vì tà thực ở trên,
Thượng tiêu tức nghẹn, đóng bền hơi ngăn,
Hãn vì biểu thực tà giăng,
!900- Buồn hôi chẳng rịn, nằm lăn vật mình.
Hạ vì tà nhóm âm kinh,
Gấp đau bụng dạ thực tình bởi trong,
Tà như xen nửa ngoài trong,
Hợp làm hoà giải mới ròng nghề hay.
1905- Biểu hư phép hãn chớ bày,
Hợp làm thanh giải cho tày kinh dương.
Lý hư phép hạ bất lương,
Hợp làm tiêu bổ, gìn đường kinh âm.
Cho hay mấy bệnh u thâm,
1910- Hạ lầm âm thoát, hãn lầm vong dương,
Hỡi ôi sách thuốc lắm phương,
Bổ hòa, công, tán, vẽ đường sẵn cho.
Tổ sư lời dạy bo bo,
Chứng soi hư thực, mạch dò ngoài trong.
1915- Học sau sách thuốc chẳng thông,
Đáng bổ làm tả, đáng công làm hoà.
Khiến nên mở cửa dắt tà,
Chứng khinh hoá trọng, học ra khuấy đời.

Ngư rằng : Nhiệm bấy cơ trời,
1920- Coi vào sách thuốc nhiều nơi mịt mù.
Trong Kinh có luận một câu :
"Cang hại thừa chế" ở sau khí vần.
Vốn chưa rõ đặng máy thần,
"Cang hại" hai chữ xin phân cho rành.

1925- Môn rằng : Khí bẩm trong mình.
Gốc nơi thái cực sinh thành người ra,
Âm dương nam tạng bình hoà,
Tiên thiên phối ngẫu đôi đà xứng nhau,
Quân hoả có âm tinh theo,
1930- Tướng hoả có thủy khí theo rằng thừa.
Thủy xuống có thổ khí thừa,
Thổ xuống có mộc khí thừa vần theo.
Mộc xuống có kim khí theo,
Kim xuống có hoả khí theo vốn hoà,
1935- Âm, dương, đã sánh đôi nhà,
Năm hành mếch thắng mới ra tai nàn.
Hơi dâm thái quá là cang,
Hơi theo chờ trả thù oan là thừa.
Khí cang thời có khí thừa.
1940- Lẽ trời báo ứng nào chừa đâu đâu.
Trong Kinh luận ấy một câu,
Nghĩa con vì mẹ trả thù mới an.
Trên dầu cậy thế lăng loàn,
Chờ thời dưới cũng thầm toan việc mình.
1945- Loại như quân hỏa chẳng bình,
Động cang thời hại, âm tình phế kim.
Thận thủy là con phế kim,
Theo bèn chế hoả dằn kìm hơi cang.
Lấy đôi thủy, hỏa làm dàng,
1950- Còn kim, mộc, thổ, cũng bàn như đây.
Ấy bèn tạo vật máy xây,
Âm dương sinh sát lẽ này rất công.
Cho hay chỗ diệu hóa công,
Trong động có tĩnh, hết cùng lại thông.
1955- Suy ra lẽ ấy cả đồng,
Vật tột thời phản, vốn không tột hoài.
Lẽ đâu cang hại đặng dai,
Đến khi cang cực, nghiêng vai chịu cầm.
Chữ rằng : mộc cực tự câm (kim),
1960- Kim cực tự hỏa, nóng xâm sắt ruồng,
Hỏa cực tự thuỷ, đổ buồn,
Thủy cực tự thổ, đọng duồng cáu doanh.
Thổ cực tự mộc, động mình.
Ấy là tạo hoá máy linh lố màu.
1965- Thử xem phong mộc làm đau,
Giãy vùng tột sức, rồi sau nghiêng mình.
Mộc cực tự kim đã đành,
Động qua phải tĩnh, hết tình thời thôi.
Thấp thổ làm bệnh cực rồi,
1970- Gân run thịt động giựt rồi tay chân,
Thổ cực tự mộc đã ưng,
Tĩnh lâu phải động, theo chừng mới xong.
Lấy hai chứng ấy ghi lòng,
Dù muôn bệnh cũng tới trong xét lường.
1975- Chỗ rằng "Âm chứng tự dương,
Dương tự âm ấy" y phương dễ lầm,
Dù không xét máy dương âm,
Biện câu "cang hại" ít làm giết người.
Lại như tạp chứng đau người,
1980- Lạng qua nóng lại, khuyên ngươi thám tình.
Đau sau buổi trọng buổi khinh,
Hoặc chờ ngày đến truyền kinh rồi lành.
Xưa rằng "chẳng thuốc mà lành",
Gẫm câu "thừa chế", bệnh tình khá trông.
1985- Dịch rằng "Tạo hóa linh thông",
Máy xây chẳng đến chung cùng lại lâu.
Bệnh chờ thời vận đến đầu,
Nhớ hơi thừa chế, đau đâu cũng lành.
Hỡi ôi thầy thuốc tài lành.
1990- Thể theo ý ấy cứu sinh cho người.
Trị bệnh hợp xét thời trời,
Khí cang làm hại, trách nơi khí thừa.
Cớ sao cang hại trách thừa ?
Bởi thừa chẳng đủ sức ngừa hơi cang.
1995- Thiên này nhiều tiếng ngọc vàng,
Chớ nề lời tục phụ phàng nôm na.

Ngư rằng : Tạng phủ khác xa,
Âm chứng, dương chứng sao mà giống nhau.
Âm dương máy hiểm vả sâu,
2000- Thị phi muốn biện theo đâu khỏi lầm ?

Môn rằng : Dương chứng tự âm,
Ngoài da lạnh ngắt, trong hầm nóng ran.
Trừng ra con mắt đỏ vàng
Miệng môi khô khát, hai đàng tiện nan.
2005- Mạch Sác ỉa bón, đái vàng,
Thực là dương thịnh giả hàn hơi xen.
Dù cho lạnh đắp run en,
Hợp cùng thuốc mát, trị bèn đăng an.
Tự âm vốn chẳng phải hàn,
2010- Thừa khi, Giải độc, các thang nên đầu,
Lạnh lâu thời nóng cũng lâu,
Trong khi nói ấy một câu nghĩa tường.
Lại như âm chứng tự dương,
Ngoài da nóng rực, trong thường lạnh tanh.
2015- Trừng ra nước dãi trong thanh,
Dộp môi, nhớt miệng, mục thanh, mạch Trì.
Nằm co trùm đắp bố vi,
Ít đòi uống nước, ỉa đi bã hèm.
Ví dù nói quấy nói sàm,
2020- Muốn bôn nê thủy cũng làm tự dương,
Thuốc ôn trị chứng tự dương,
Lý trung, Tứ nghịch các phương hợp dùng.
Hỡi ôi đời lắm tục công,
Lẽ âm dương tột, chẳng thông ắt lầm.
2025- Âm phản dương, dương phản âm,
Cang cực thời biến, cổ câm (kim) lẽ thường
Muốn cho rộng chước y phương,
Đọc lời ca quyết, thấy đường chẳng xa,



LXV.- (Từ: LXXVIL. Âm chứng tự dương bệnh ca)
(Bài ca về bệnh âm chứng tự dương)
Dịch nghĩa :
Âm chứng tựa dương nên nhận rõ,
Buồn bực, bứt rứt, mặt đỏ, mình hơi nóng. Đó là âm lạnh phát buồn bực, nên dùng thuốc ôn (ấm).
Bệnh ấy bộ Xích và Thốn mạch đi Vi và Trầm, nói cho anh biết.

LXVI.- (Từ: LXXVIII.- Dương chứng tự âm bệnh ca)
(Bài ca về bệnh dương chứng tựa âm )
Dịch nghĩa :
Dương chứng tựa âm, lấy gì mà lường biết,
Chân tay lạnh giá, tiểu tiện đỏ,
Đại tiện thì hoặc bón, hoặc đen,
Bệnh ấy mạch đi Trầm, Hoạt, anh nên rõ.

Ngư rằng : Vận khí vốn hoà,
2030- Bệnh không thuốc uống, thời qua cũng lành.
Cang cực thừa chế đã đành,
Bệnh người nặng nhẹ, tử sinh có trời.
Chuyên theo vận khí ở trời,
Còn làm thầy thuốc ở đời làm chi ?

2035- Môn rằng : Hợp lấy lẽ suy,
Bằng cầm một mạch, biết chi giúp đời ?
Tượng người tùy ứng tượng trời,
Chỉn người vật dục lắm hơi chẳng đồng,
Hoặc vì tửu sắc đắm lung,
2040- Hoặc vì đói lạnh, sức nông nhọc làm.
Mình gầy đau ốm đã cam,
Trách trời, trời biết xuống làm sao cho ?
Vậy nên tạo vật sớm lo,
Mở rừng dược phẩm, nhen lò tế sinh,
2045- Nấy cho các bậc thánh minh,
Dựng phương pháp trị trong mình người ta.
Sách nho rằng "trí trung hòa".
"Tham thiên tán hóa" ấy là lương y.
Chỗ rằng "bất dược trúng y",
2050- Ấy là nhân bệnh thiên thì ứng nhau.
Hơi trời vay phất làm đau,
Chớ khi thừa chế theo sau bèn lành.
Đến như nhân dục hại mình,
Đau không uống thuốc sao bình máu hơi.
2055- Nên rằng vận khí ở trời,
Cũng có vận khí ở nơi mình người.
Thời trời hơn ấy theo trời,
Bệnh người hơn ấy theo người xét tra.
Lấy trong hai ấy chia ra,
2060- Đâu là y biến, đâu là y nguyên.
Hỡi ôi ai biết y nguyên,
Trọn nơi vận khí, ấy chuyên theo trời.
Mới hay y biến theo người,
Luống cầm phương sẵn lầm đời sao nên ?
2065- Muốn cho rõ lẽ dưới trên,
Lời thơ Trương tử chớ quên mà lầm.



LXXIX.- Trương Tử Hòa thi
(Bài thơ của Trương Tử Hoà)
Dịch nghĩa :
Bệnh nếu không hợp với vận khí trong năm,
Thì xem nó hợp với vận khí năm nào.
Cứ theo năm ấy mà châm chước cách chữa,
Mới biết là đều trong vòng chí lý.

Tiều rằng: Ba bộ mạch thường,
Thốn, Quan, Xích đủ âm dương ra vào.
Chia nam, bắc chính cớ sao ?
2070. Thiên hoà bất ứng, năm nào bộ chi ?

Môn rằng : Vận khí xây đi,
Nam chính, bắc chính, định vì chúa, tôi,
Sáu hơi quân hoả cao ngòi,
Chẳng dùng làm việc, một ngồi rảnh rang.
2075.- Năm vận thấp thổ quyền sang,
Dùng nên số ở giữa bàn trung ương,
Cho hay vận thổ làm vương,
Mặt nam ra lệnh bốn phương đến chầu.
Mộc, kim, thủy, hoả ứng hầu,
2080.- Đều tôi mặt bắc, cúi đầu xưng phan (phiên).
Chia ngôi nam, bắc rõ ràng,
Lấy trong mười chữ thiên can hóa vời.
Nam chinh ấy nói đạo trời,
Bắc chính đạo đất thật lời sách biên.
2085.- Thử xem Giáp, Kỷ hai niên,
Hóa ra phận thổ, thật quyền nam quân.
Tám năm bắc chính đều thần,
Đinh, Nhâm, Canh, Ất, Bính, Tân, Quí, Mồ (Mậu).
Lấy hai ngôi chính phân đồ,
2090.- Theo niên bàn mạch nói phô mới rành.
Thiên hoà mạch ấy vốn binh,
Mạch trầm chỉn luận tình hình tam âm.
Thái âm, Thiếu âm, Quyết âm.
Giữ trời, giữ đất, xét tầm theo niên.
2095.- Nam chinh Thái âm tư thiên,
Bộ thốn tay hữu mạch chuyên đi chìm,
Nam chinh Thái âm tại tuyền,
Bộ Xích tay hữu mạch chuyên đi chìm,
Nam chinh Quyết âm tư thiên,
2100.- Bộ Thốn tay tả mạch chuyên đi chìm.
Nam chinh Quyết âm tại tuyền,
Bộ Xích tay tả mạch chuyên đi chìm.
Nam chinh Thiếu âm tư thiên,
Bộ Thốn, tả, hữu đều chuyên đi chìm.
2105.- Nam chinh Thiếu âm tại tuyền,
Bộ Xích tả, hữu đều chuyên đi chìm.
Bắc chính Thái âm tư thiên,
Tay hữu, bộ Xích, mạch riêng đi chìm.
Bắc chinh Thái âm tại tuyền,
2110.- Tay hữu, bộ Xích, mạch riêng đi chìm.
Bắc chinh Quyết âm tư thiên,
Tay tả bộ Xích mạch riêng đi chìm.
Bắc chinh Quyết âm tại tuyền,
Tay tả bộ Thốn mạch riêng đi chìm.
2115.- Bắc chinh Thiếu âm tư thiên,
Tả, hữu bộ Xích đều riêng đi chìm.
Bắc chinh Thiếu âm tại tuyền,
Tả, hữu bộ Thốn đều riêng đi trầm.
Ấy là mạch lý tam âm,
2120.- Gọi rằng bất ứng đều trầm trong tay.
Cam châu sách lại tỏ bày,
Coi ngôi quân hoả năm nay bộ nào.
Ở nơi Xích Thốn bộ nào.
Mạch rằng chẳng ứng chìm vào lột xương.
Cho hay phép mạch ấy thường,
Bốn mùa bệnh biến nhiều đường chẳng câu.
Kinh rằng trời đất máy sâu,
Khí làm thắng phục mạch đâu thấy hình.
Xem hơi thắng phục cho tinh,
2130.- Chữ thời,chữ bệnh, mặc tình trị theo.
Đạo y lắm chỗ cheo leo,
Chẳng nên chấp nhất làm nghèo người ta.
Dón thay một mạch thiên hoà,
Tổ xưa sẵn đặt bài ca dạy đời :



LXXX.- Ca viết
(Ca rằng)
Dịch nghĩa :
Nói về mạch Thiên hòa chỉ bàn đến ba khí âm,
Nam chính tư thiên thì bắc chính tại tuyền.
Thái âm chuyên chủ bộ Thốn và Xích tay phải,
Quyết âm chuyên chủ bộ Thốn và Xích tay trái,
Thiếu âm thì Xích và Thốn cả hai bên đều không ứng.
Nếu giao hay phản là sắp chết.

2135- Ngư rằng : Gẫm lẽ dưới trời,
Đã sinh dược phẩm cứu đời nhân gian.
Cớ sao lắm kẻ ngỗ ngang,
Đau thời cầu phép dị đoan độ mình.
Hoặc cầu thầy sãi tụng kinh,
2140- Hoặc cầu thầy pháp rập rình chữa chuyên,
Hoặc cầu thần quỷ cho thuyên,
Hoặc cầu đồng bóng chúc nguyền chư linh ?
Thấy làm những việc bất kinh,
Bùa đeo, thuốc giải, bệnh tình cũng thuyên.
2145- Chẳng hay đạo thuốc xưa truyền,
Phương nào trị đặng thói xiên nhân tình ?

Môn rằng : Trong cuộc u, minh,
Người cùng thần quỷ yêu tinh khác đường,
Bởi người ăn ở không thường,
2150- Hơi tà duồng gió vấn vương tai nàn.
Như nay miễu sập chùa hoang,
Thần nghèo, quỷ đói mượn đàn làm ôn.
Như nay hồ mị hớp hồn,
Vực giao bắn bóng, đều phồn yêu tinh.
2155- Có nơi quỷ mị hiện hình,
Làm cho bệnh nhiễm trong mình người si.
Sách rằng "trúng ác truyền thi ",
Ấy là tật quấy, bệnh kỳ xiết bao.
Tổ xưa làm thuốc ấy cao,
2160- Có phương lại có phép màu nhiều môn
Ông thời lấy thuốc đuổi ôn,
Lấy trâm trừ quỷ, tiếng đồn đã vang,
Ông thời ếm huyệt Cao hoang,
Chích hang Quỷ nhãn, giải nàn cứu tai.
2165- Ông thời mũ áo trắng trai,
Phá hình cày gái trừ loài yêu ma.
Đao ta lắm chước trừ tà,
Yêu tinh, quỷ quái khó qua thánh hiền.
Vậy nên trong sách thuốc biên,
2170- Chữ rằng hoạt pháp rộng truyền nhiệm thay !
Thầy nay chấp nhất chẳng hay,
Gặp cơn tà thắng khoanh tay, lắc đầu.
Khiến bầy thuật sĩ theo sau,
Ra làm phép bậy đua nhau dối đời.
2175- Dân ngu chẳng tỏ lẽ trời,
Đau thời sợ chết, khắp vời chư sư.
Lòng tà gây bởi chư sư,
Dân phong lần nhiễm ngày hư thói đời.
Dù người đau tỏ lẽ trời,
2180- Y còn phép bí, ai vời dị đoan ?
Muốn cho dẹp lũ dị đoan
Dò theo phép tổ, rỡ ràng đạo ta.
Người đau có chính có tà,
Nhà y phép trị có khoa biến thuờng.
2185- Bệnh chính thời dụng thuốc thường,
Bệnh tà thời dụng biến phương phép ngoài
Trời sinh muôn vật đều tài,
Học cho tột lẽ, trừ loài yêu tinh,
Loại như vật uế trừ tinh,
2190- Vật hương trừ quái, quỷ kinh A ngùy .
Hồ tinh sợ chó săn đi,
Xà yêu sợ tỏi , lại nghi Hùng hoàng ,
Lấy vài vật ấy suy bàn,
Biết trong tạo hóa nhiều đàng thuốc tinh,
2195- Vật đều có chỗ hợp sinh,
Khác nhau thời ắt có hình chế nhau.
Cho hay vật có chế nhau,
Khắp xem Bản thảo trước sau chẳng đồng.
Sách nêu tinh dược nhiều ông,
2200- Nếm mùi chẳng một Thần Nông xưa truyền.



LXXXI.- Bản thảo dẫn (Lôi công soán tiệp kinh)
(Lời dẫn về bản thảo . Tóm tắt sách Lôi công bào chế )
Dịch nghĩa :
Bản thảo truyền trong nghề thuốc ; còn lưu cho tới ngày nay.
Vua thánh tôi hiền lịch đại, ai cũng lưu tâm ;
Người nhân, con hiếu từ xưa, thảy đều chú ý.
Sinh làm người trong khoảng hai nghi ; Đúc nên xác nhờ công bốn chất,
Phong hàn, thử, thấp, nấu nung; Mừng, giận, nghĩ lo, uất kết,
Héo tươi, khổ, sướng, tất tổn đến tinh thần;
Nhọc, rỗi, đói, no, đều hại cho khí huyết.
Đã có sống khó mà trốn khỏi;
Đã có thân ai cũng thế thôi.
Bẩm thụ người hư thực chẳng đồng, phải giữ mực thường mới được;
Cây cỏ chất độc lành đều khác, chưa rõ tính nó chớ dùng.
Thuốc nào mà chẳng hiệu; Dùng đúng thì hay.
Thử ngậm ô mai, răng ê ngay mà nước dãi chảy;
Vừa thổi Bồ kết, hắt hơi liền mà lỗ mũi thông.
Ăn cải cay mà lệ vòng quanh; Nhai Hoa tiêu mà hơi bế tắc.
Âm giao dò biết nhọt trong ở đâu;
Tiêu mạt chữa chứng đầu đau tưởng chết !
Đái vặt, dái săn, đêm sắc Tỳ giải; Mình lạnh, bụng lớn, nhờ cả Lô từ.
Nước đái rùa chữa được cấm khẩu;
Xương xảu chuột làm cho mọc răng.
Từ thạch bắt được mũi kim;
Hổ phách nhặt được hạt cải.
Mật rái rẽ được nước, Keo loan nối được xương;
Cho ngó sen mà tiết không đông;
Bỏ xác cua mà sơn tan rữa.
Nhựa có thể nấu tan quế ra nước;
Mỡ cóc có thể làm mềm ngọc như bùn.
Tạm kể ít điều để làm chứng nghiệm rõ ràng;
Cho rõ hết thảy đều có công dụng riêng biệt
Thường khi dùng một, khí thuần nhất thì công hiệu càng nhanh.
Hoặc lúc kiêm nhiều, vị phức tạp mà kết quả hơi chậm.
Tá, sứ biết để tâm kén kỹ, giúp đỡ thêm thì chóng thu công;
Uý, ố lầm những vị trái nhau, ganh ghét lộn sẽ thành rắc độc.
Mừng, lo trông cả ở bệnh lui hay tiến;
Chết sống quan hệ bởi phương dở hay hay.
Phải tinh tường theo sách định bài;
Chớ quấy quá gặp chăng hay chớ !
Đối chứng lập phương, phải lọc lấy sở trường trong các sách;
Tùy nghi dùng thuốc, họa là mong công hiệu được vạn toàn.

Tiều rằng: Hỏi phụ nhân khoa,
Xin nghe các chứng đàn bà có thai.
Coi trong kinh lạc mười hai,
Chia theo mười tháng nuôi thai xưa bàn
2205- Dưỡng thai một tháng kinh can,
Hai tháng kinh đảm, ba sang tâm bào,
Bốn tháng kinh tiểu trường trao,
Năm tháng tỳ dưỡng, sáu vào vị hương,
Bẩy tháng kinh phế nuôi thường
2210- Bước qua tám tháng đại trường thay phiên
Chín tháng kinh thận nối liền,
Trọn phần mười tháng về miền bàng quang.
Mười kinh, mười tháng chia đàng,
Âm dương thủ túc nuôi bàng Xung Nhâm
2215- Cớ sao kinh Thiếu Tâm,
Cùng Tam Tiêu phủ chẳng cầm nuôi thai ?

Môn rằng : Một việc dưỡng thai,
Có lời Sào thị để bài sách biên.
Tâm làm mẫu tạng chủ chuyên.
2220- Tam tiêu phủ ấy làm truyền tống quan,
Gốc thai lấy máu làm sang,
Máu nhờ tâm chủ tóm đàng mạch kinh.
Cho hay mạch máu các kinh,
Nhóm nuôi chửa nghén nên hình bởi tâm.
Phải nhường kinh Thủ Thiếu âm,
Chẳng chia phiên thứ mối cầm chủ trương,
Gẫm trong kinh lạc âm dương,
Năm hành đắp đổi lẽ thường sinh nhau,
Có ông Phùng thị nối sau,
2230- Gốc theo Kinh chỉ, lời mầu luận cao,
Kinh rằng "tâm với tâm bào",
Tuy chia hai mạch thực vào một nơi.
Mười hai kinh lạc máu hơi,
Ngày nào chẳng khắp vần nơi trong mình,
2235- Có thai rồi lại bế kinh
Vầy hơi nhóm máu, đồng tình nuôi thai.
Lấy lời Sào thị luận thai,
So lời Phùng thị vắn dài khác nhau,
Học thời sáng lẽ làm đầu,
2240- Lời nào xác lý phải cầu xét coi,

Tiều rằng: Thai đã đặng nuôi,
Có thai thời đẻ xong xuôi vuông tròn.
Cớ sao lắm kẻ chửa non,
Hoặc năm ba tháng, rồi con chẳng thành,

2245- Môn rằng : Một việc thai sinh,
Nên hư trách ở trong mình phụ nhân.
Thuần Khôn là người phụ nhân,
Máu hơi đầy đủ trong thân tốt lành.
Có thai đủ tháng thời sinh,
2250- Ấy là trời đất thường tình xưa nay.
Bởi người khí huyết chẳng đầy
Mạch Xung Nhâm yếu giống gầy sao nên,
Thai nguyên gốc đã chẳng bền
Lại thêm bệnh hoạn dưới trên nhộn nhàng,
2255- Trách chi chửa nghén chẳng an,
Tiểu sản, bán sản, liền mang nơi mình.
Ví như trái trổ trên nhành,
Gốc cây chẳng vững, trái đành rụng non,
2260- Máu hơi mỏng yếu đẻ con ra gì.
Thêm lòng dâm dục lỗi nghi,
Ăn chơi chẳng kể vật chi dữ lành.
Thêm thầy hốt thuốc bất kinh,
Lầm đem vị độc hại tinh huyết người.
2265- Muốn cho xen giúp thợ trời,
Trị thai phải dụng coi lời cấm xưa.



LXXXII.- Nhâm thần cấm phục ca
(Bài ca về các vị thuốc cấm dùng cho đàn bà có thai)
Dịch nghĩa :
Nguyên trùng, ban miêu, đỉa và manh trùng
Ô đầu, Phụ tử và Thiên hùng
Dã cát,Thủy ngân cùng Ba đậu,
Ngưu tất, ý dĩ và Ngô công (con rết),
Tam lăng, Nguyên hoa, Đại giả thạch, Xạ hương,
Đại kích, Xà thuế (Xác rắn), Thư hoàng, Hùng hoàng,
Nha tiêu, Mang tiêu, Mẫu đơn, Quế,
Hòe hoa, Khiên ngưu, Tạo giác (bồ kết),
Bán hạ, Nam tinh, Thông thảo,
Cồ mạch, Can khương cùng Đào nhân,
Chu sa, Can tất, Giải trảo giáp (mai cua),
Địa đảm, Mao căn (gốc cỏ tranh) đều không được dùng.

Tiều rằng: Phép trị trước thai,
Bao nhiêu chứng nhiệt, dùng bài thuốc lương.
Đến như chứng lạnh không thường,
2270- Cấm dùng thuốc nóng, còn phương pháp gì ?

Môn rằng : Muốn rộng chước y,
Bệnh thường, bệnh biến, phải suy cho tường.
Thai tiền hợp dụng thuốc lương,
Ấy là chỗ luận bệnh thường phép y.
2275- Đến như bệnh biến chứng kỳ,
Quen theo thường trị, lấy gì làm công ?
Như đau lạnh thấu tử cung,
Can khương, Quế, Phụ chẳng dùng sao an ?
Như đau máu chứa bàng quang,
2280- Phương nào khỏi hốt Đại hoàng, Đào nhân ?
Bệnh thời bệnh chịu đã ưng,
Chỗ đau có cớ, nào từng phạm thai?
Xưa rằng y biến thật tài,
Ứng theo máy trị, nhiều loài, nhiều phương.
2285- Coi thiên "thai dựng biến thường"
Việc người chữa nghén lắm đường bất kinh.
Có người gọi chứng "ám kinh",
Tháng không nhơ uế mà mình nên thai.
Có người gọi chứng "cấu thai",
2290- Nghén rồi, kinh nguyệt xầy xầy máu ra.
Máu ra mà nghén chẳng sa,
Gọi rằng "thai lậu", thật là huyết dư.
Có người nghén một năm dư,
Hoặc mười bảy tám tháng chừ mới sinh.
2295- Gọi "thai bất trưởng" là danh,
Bởi người khí huyết trong mình chẳng sung.
Gặp thai mấy chứng lạ lùng,
Khuyên người chẩn mạch cho ròng, khỏi sai.
Lại còn chứng gọi "quỷ thai",
2300- "Trưng hà", "bĩ khối", cũng loài bụng to,
Nhớt nhau hơi hết, giả đò giống thai.
Máu hư chứa đọng ngày dài,
Gọi rằng "súc huyết", giống thai một dường.
2305- Hỡi ôi bệnh biến khôn lường,
Dị thường trong lại dị thường biết bao,
Kinh rằng bảy bảy tuổi cao,
Dứt đường thiên quý, lẽ nào có thai.
Vợ người Tịnh Phổ là ai,
2310- Mình đà sáu chục tuổi ngoài, còn mang.
Kinh rằng hai bảy tuổi nàng,
Thông thường thiên quý mới toan gả chồng.
Tô Khanh có gái má hồng,
Mới mười hai tuổi lấy chồng liền thai.
2315- Coi hai dấu sử biên ngoài,
Nghiệm vào sách thuốc, khá nài sao ôi!
Học thời thông biến mà thôi,
Biến không chừng hiện, nào rồi liệu lương.
Luận người gặp biến cứ thường,
2320- Bệnh người gặp biến cứ thường sao xong.
Muốn cho lớn mật, nhỏ lòng,
Gặp cơn y biến nên công mới tài.

Tiều rằng: Chẩn mạch trước thai,
Chia tay hữu gái, tả trai đã đành.
2325- Tả di hoạt tật trai sinh,
Hữu di hoạt tật gái sinh phải rồi.
Còn e người nghén thai đôi,
Hai tay sáu bộ, chủ coi mạch gì?

Môn rằng : Ba bộ mạch đi,
2330- Âm dương hai chữ, thịnh suy khác hình.
Gốc trong tạng phủ, năm hành,
Sánh duyên chồng vợ, tỏ tình mẹ con.
An ngôi chồng vợ, mẹ con,
"Tung, hoành, thuận, nghịch" xây còn trong tay.
2335- Bộ âm mà mạch dương vầy,
Chồng thừa ngôi vợ, lẽ này rằng "tung"
Lại như vợ đến ngôi chồng,
Bộ dương mà mạch âm thông, rằng "hoành".
Con thừa ngôi mẹ nghịch danh,
2340- Mẹ thừa con ấy thuận tình ở nhau.
Lặng lòng theo mạch xét cầu,
Máy âm dương nhóm, biết đầu gái trai.
Ba dương mạch thịnh, con trai,
Ba âm mạch thịnh, gái thai hẳn hòi.
2345- Tả đới tung, ấy trai đôi,
Hữu đới hoành ấy gái đôi hơi hòa.
Tả dương mạch nghịch, trai ba,
Hữu âm mạch thuận, gái ba nên hình.
Muốn coi tạo hóa máy linh,
2350- Đọc lời bí quyết Mạch kinh truyền lòng.



LXXXIII.- Chẩn nhâm thần mạch quyết
(Bí quyết xem mạch người có thai)
Dịch nghĩa :
Can chủ huyết chừ, phế chủ khí.
Huyết là vinh chừ, khí là vệ,
Âm dương đôi lứa chẳng so le,
Hai tạng thông hoà cùng một lệ,
Huyết suy, khí vượng quyết không thai.
Huyết vượng, khí suy chắc có thai,
Thốn Vi, Quan Hoạt, Xích hơi Sác,
Đi lại trơn tru, hoặc tước trác :
Ấy mạch con trẻ hiện hình rồi,
Mới vài tháng nên chưa biết thôi !
Tả mau là trai, hữu là gái,
Trơn tru thông nhau, mau đi, lại
Quan bộ hai tay Hoạt cùng Đại,
Có thai nhưng có cũng là mới.
Thấy hình con trẻ, hai là phải...
Tay tả thấy tung hai đứa trai:
Tay hữu thấy hoành gái một đôi;
Tay trái mạch thuận, ba gái rồi...
Thốn, Quan, Xích, hai bên đều nhau :
Một trai, một gái, có sai đâu.
Tay trái Trầm Thực, trai chắc hẳn...
Tay phải Phù Thực, gái rõ màu.
Dương mạch là trai, âm mạch gái,
Rõ ràng dưới ngón nhớ kỹ lấy,
Ba bộ Trầm đều chẳng còn ngờ,
Xích bộ không dứt, có thai đấy !
Mạch thê thừa phu gọi là hoành,
Mạch phu thừa thê tung đã rành,
Mạch tử thừa mẫu thực nghịch khí,
Mạch mẫu thừa tử mới thuận tình.
Huyền, Khẩn, Lao, Hoạt, Cường yên ổn,
Trầm, Tế và Vi, chết đã rành.

Tiều rằng: Trong bụng đàn bà,
Có thai mấy chứng sách đà rõ biên.
Loại như tử giản, tử huyền,
Tử thũng, tử khí, tử phiền, tử lâm.
2355- Bao nhiêu chứng "tử" hoài nhâm,
Đều nhân hơi nghén gây thầm đau trong.
Đã hay chứng giản là phong,
Thũng khí là thấp, đều trong bụng truyền.
Hơi đi nghịch ấy làm huyền,
2360- Nóng trong, nóng dưới làm phiền, làm lâm.
Đàm nhiều làm chứng ác tâm,
Dưới hư làm chứng đau xăm chuyển bào,
Thai động thời bụng đau bào,
Lậu thai bụng lớn, đều trào máu ra.
2365- Chứng thai động lậu khác xa,
Động là khí bách, lậu là nhiệt thương,
Thấy lời thai luận biến, thường,
Phong đàm, nhiệt, thấp, nội thương khác ngoài.
Khử tà mới giữ đặng thai,
2370- Chứng nào thuốc nấy, theo loài trị an.
Chỉn lo một chứng mơ màng,
Nghén chưa đủ số, bụng nàng liền đau.
Nghén vừa bảy tám tháng sau,
Thoắt la chuyển bụng, giống đau giả đò,
2375- Khiến nên thầy hốt thuốc dò.
Chứng không thấy sách, lò mò lênh chênh.
Nửa thời muốn hốt thôi sinh,
E chưa đủ tháng hại mình người thai.
Nửa thời muốn hốt an thai,
2380- E cạn ngày tháng hoa khai lỗi kỳ.
Muốn cho khỏi tiếng tục y,
Xin phân chừng ấy thuốc chi vạn tuyền (toàn)?

Môn rằng : Mấy chứng thai tiền,
Người đà biết đặng sách biên luận tường,
2385- Lệ thai mười tháng là thường,
Đến ngày con đỏ tìm đường chun ra.
Bụng đau cấp xúc rên la,
Lưng đau như gãy, mắt hoa bay ngời.
Ví như dưa chín cuống rời,
2390- Trái muồi mới thấy bay hơi thơm lành.
Gọi rằng "chính sản" cho mình,
Hợp coi chứng mạch, thẩm tình gần xa.
Thai vừa bảy tám tháng qua,
Thoắt la chuyển bụng ấy là lộng thai.
2395- Tên rằng "thí nguyệt", "lộng thai",
Bụng đau xăm xỉa, lài xài nhặt lơi.
Tục rằng đau dạo đường chơi,
Con chưa đủ tháng, nào rời mẹ đâu.
Làm thầy chẳng khá cầu mau,
2400- Hỏi tra ngày tháng trước sau cho rành.
Chỉn coi một mạch ly kinh,
Lộng thai, chính sản, tình hình khác xa.
Nhâm thần đến bữa khai hoa,
Dù không thuốc gục, đẻ ra cũng thành.
2405- Lẽ trời nào đợi thôi sinh,
Thôi sinh lỗi dụng, hại mình người ta,
Thử xem kén bướm, trứng gà,
Đủ ngày rồi cắn mỏ ra con bầy,
An thai lỗi dụng cũng gay,
2410- Đến ngày ưng đẻ, bị thầy cản con.
Muốn nên đều lẽ vuông tròn,
Lộng thai, chính sản, chừng còn tay ta,
Đã Ly kinh ấy cho ra,
Chưa Ly kinh ấy, hợp hoà máu hơi.



LXXXIV.- Ly kinh mạch quyết
(Phép xem mạch ly kinh)
Dịch nghĩa :
Một hơi sáu lần đến : Ly kinh,
Trầm Tế mà hoạt cũng cùng danh.
Nửa đêm thấy đau chắc sắp cữ,
Sớm mai, trưa mai sẽ thấy sinh.

2415- Tiều rằng: Sinh sản có trời,
Chửa rồi thời đẻ, nào lời ai than.
Có sao còn kẻ sản nan,
Coi loài súc vật đẻ an hơn người ?

Môn rằng : Ấy bởi người đời.
2420- Ở an lỗi đạo, trích trời hà can ?
Trời nào nỡ khiến sản nan,
Sản nan hệ bởi mình nàng gây ra.
Thánh xưa làm thuốc phụ khoa,
Nhân nêu bảy chuyện đàn bà sản nan.
2425- Một nhân an dật, thanh nhàn,
Chẳng quen khó nhọc việc vàng xông pha.
Khiến nên khí huyết lấp sa,
Đến kỳ chuyển bụng năm ba bảy ngày,
Hai nhân phụng dưỡng vị dày
2430- Miếng ngon vật lạ liền ngày ăn no,
Khiến nên thai béo bào to,
Đến ngày sinh đẻ bụng gò đau lâu.
Ba nhân dâm dục tình sâu,
Nệm loan gối phụng liền hầu phòng lao,
2435- Gây nên lửa đốt tinh hao,
Đến cơn chuyển bụng thai bào khô khan.
Bốn nhân đẻ chút chậm gàn,
Ưu nghi hai chữ buộc ràng vào thân.
Khiến nên vấn bốc cầu thân,
2140- Lăng xăng thăm hỏi gây phần loạn sinh.
Năm nhân nhuyễn khiếp trong mình,
Bụng đau nhặt thúc cúi hình khom lưng.
Ngửa nghiêng trằn trọc không chừng,
Khiến trong cửa đẻ bít dừng khôn toan,
2445- Sáu nhân hai chữ sản hoàng,
Con chưa quày xuống vội vàng rặn khan.
Nghe lời bà mụ rặn khan,
Khiến con ra ngược ra ngang lỗi đường.
Bảy nhân hư phạp nội thương.
2450- Trong mình ốm yếu nào thường máu hơi.
Sớm dùng sức rán rặn khơi,
Nước nguồn khô rít, khôn dời con ra,
Hỡi ôi phận sự đàn bà,
Có nhân bảy ấy mới ra tai nàn.
2455- Sách y mấy chuyện sản nan,
Điều biên phép trị rõ ràng, khá coi.
Tử, sinh, người đẻ có mòi,
Xưa truyền phép tướng hẳn hòi chẳng ngoa.
Sản nan coi tướng đàn bà,
2460- Mặt là chừng mẹ, lưỡi là chừng con.
Mặt tươi lưỡi thắm vuông tròn,
Mẹ còn cứu mẹ, con còn cứu con,



LXXXV.- Tướng sản phụ bí pháp
Diện dĩ hậu mẫu, thiệt dĩ hậu tử
(Bí quyết xem đàn bà khi sinh
Mặt để xem mẹ, lưỡi để xem con)
Dịch nghĩa :
Người đẻ khó, triệu chứng sống chết gần giống nhau.
Xem sắc lưỡi và mặt đỏ hay xanh,
Lưỡi xanh và lạnh giá, mẹ sẽ chết.
Lưỡi xanh mặt đỏ riêng con chết,
Mặt xanh, lưỡi đỏ riêng mẹ sống,
Môi miệng đều xanh, lại nhễu dãi,
Mẹ con chết cả rõ rành rành.

Tiều rằng: Người mới đẻ rồi,
Trong mình khí huyết hư đồi biết bao.
2465- Phép y điều lý dường nào,
Chứng cùng mạch lý xin trao cho nhờ.

Môn rằng : Sản hậu một khoa,
Chứng nào thuốc nấy sách đà luận riêng.
Ta nghe tâm pháp thầy truyền,
2470- Bệnh người sản hậu có nguyên ba điều.
Một là máu trống lửa diêu (dao)
Gây trong nóng táo, chứng nhiều cuồng kinh,
Một là bại huyết vọng hành,
Bụng đau đầu nhức, rêm mình tay chân.
2475- Một là ăn uống quá chừng,
Gây nên mửa ỉa, trên ngưng, giữa đầy.
Lại nghe sản hậu bệnh gay,
Ba xung, ba cáp, chứng này nguy hung.
Xung là bại huyết làm hung,
2480- Xung tâm, xung phế với xung vị tào.
Cấp là mới đẻ hơi hao,
Hoặc thổ, hoặc tả, hoặc trào buồn hôi.
Tổ xưa dùng thuốc đẻ rồi,
Có ba lời cấm, người ôi ghi lòng.
2485- Cấm thang Phật thủ chớ dùng,
Bởi vì trong có vị Xuyên khung chẳng lành.
Xuyên khung tán khí đã đành,
Lại hay phát hãn, trong mình hư thêm.
Cấm thang Tứ vật phương kèm,
2490- Địa hoàng, Thược dược chẳng hiềm dụng sinh.
Địa hoàng sống lạnh máu kinh,
Ngặt thời phải dụng, chín mình chế đi,
Đẻ sau khí huyết đang suy,
Thược dược chua lạnh, dùng thì tửu sao.
2495- Cấm dùng thang Tiểu sài hồ,
Hoàng cầm tính mát, ngăn hồ huyết đi.
Cho hay bệnh sản nhiều nguy,
Mấy lời Kinh huấn chủ trì chớ quên.
Đẻ rồi phát hãn chẳng nên,
2500- Chẳng nên làm hạ, chẳng nên lợi tiền (tiện),
Mấy mùi tính dược chẳng hiền,
Chớ cho phạm vị, phạm miền tam tiêu.
Ví dù biểu chứng thấy nhiều,
Đều làm giả tượng, rất nhiều trong hư.
2505- Xưa nay biết mấy tiên sư,
Trị khoa sản hậu rõ từ Đan Khê.
Đan Khê Chu tử ròng nghề,
Đẻ sau khá bổ, chủ về máu hơi.
Gốc làm khá bổ máu hơi,
2510- Dù nhiều chứng tạp, đều nơi ngon ngành.
Gốc bền thời ngọn cũng xanh
So cùng bá thuật khác tình thiên uyên,
Có lời mạch quyết xưa truyền,
Coi người sản hậu thấy duyên mất còn:



LXXXVI.- Chẩn sản hậu mạch quyết
(Phép xem mạch đàn bà sau khi sinh)
Dịch nghĩa :
Mới sinh, mạch Hoạt, Hoãn là tốt,
Thực, Đại, Huyền, Cấp chết tới nơi,
Nếu được Trầm, Tiểu thì cũng tốt,
Còn như Lao, Khẩn, mạng thôi rồi.
Thốn khẩu : Sáu nhanh không đều, chết,
Trầm, Tế sát xương thì sống thôi.
Xét các mạch ấy, ghi cho rõ,
Khắc cốt ghi tâm nhớ suốt đời.
Ngư Tiều Y thuật Vấn Đáp
Giới Thiệu
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Phu Luc