Chương 2
Tác giả: Nguyễn Lê Quan
Đúng lúc vợ chồng ta lúc rời khỏi Tử Cấm Thành khi liên quân tám nước tràn vào hoàng cung, không riêng gì vợ chồng ta bỏ chạy mà cả Thái Hậu lão Phật gia cùng Hoàng Đế cũng bỏ trốn. Mọi người trốn đi hết, hoàng cung trở nên hoang vắng không người canh giữ, bọn cẩm y vệ lại đổ xô vào các cung hôi của.
Lúc đó trong đầu vợ chồng ta mới nghĩ chế độ cung đình từ đây không còn, mỗi người sẽ đi mỗi ngã. Nếu ra đi với hai bàn tay trắng làm sao sinh sống khi bổng lộc tích lũy từ trước đến giờ chẳng có là bao nên cả hai cùng đi hôi của như mọi người. Nhưng được cái may mắn vợ chồng ta từng phục vụ nơi cung cấm, biết các cung hoàng hậu, vương phi, cung phi được Hoàng đế sủng ái nằm đâu, nên vào xem có ngân lượng hay thứ của cải quý báu nào còn để sót thì lấy làm của hộ thân.
Hai vợ chồng chỉ lấy được một số ngân phiếu, một ít vàng bạc châu báu vào đủ mỗi người một tay nải rồi mới ra khỏi hoàng thành. Sau đó vợ chồng ta theo dòng người lên thuyền chạy tị nạn. Thuyền rong ruổi cập đảo Đài Loan, lúc lên bờ đức phu quân có quen một người trong bang Rồng Xanh nên xin gia nhập vào bang hội, hy vọng được bang hội giúp đỡ khi hai vợ chồng còn chân ướt chân ráo vào đời, chẳng biết gì trong cuộc sống mới.
Đến một ngày nọ, vợ chồng ta gặp một người quen cũng từ kinh thành chạy tị nạn. Vừa gặp mặt, ông bạn đã hớt hơ hớt hải báo tin:
– Này Hoàng Bảo Trứ ơi, ngài Công Công Trần Thành đang tìm mi, ông ta cho rằng vợ chồng mi đã lấy nhiều vàng bạc quý giá trong nội cung nên phải đi tìm lấy lại số của cải trả về cho nhà Thanh.
Đấng phu quân ta mới ngạc nhiên nhìn người bạn vừa vượt biển đến, ông nói:
– Ta có lấy gì nhiều đâu? Chỉ một tay nải đủ sống qua chuỗi ngày còn lại.
Người bạn đó mới nói tiếp:
– Vậy mi không biết rồi, ngài Trần Thành cho rằng mi lấy đi một tấm bản đồ có ghi kho báu nằm tận bên Đông Dương, nó to tát gấp ngàn lần tay nải của mi đó!
Vợ chồng ta biết rõ Trần Thành, ông ta cũng là quan thái giám nhưng hơn một phẩm, tính tình độc ác ích kỷ, tham lam và cố chấp. Nếu ông ta biết vợ chồng ta có số vàng bạc lấy từ trong cung và nhất là tấm bản đồ về kho báu, thể nào cũng đến tìm đòi lại hay chia phần.
Nhưng đòi lại để làm gì khi Trần Thành cũng như vợ chồng ta, giờ đây không còn làm thái giám và đang sống cuộc đời dân dã như mọi người? Làm gì còn nhà Thanh trên đất Trung Hoa! Còn về tấm bản đồ kho báu chỉ là hiểu lầm, đấng phu quân và ta có giữ tấm bản đồ nào ngoài số của cải lấy lúc hôi của như mọi người đâu?
Tuy vậy đức phu quân ta vẫn tỏ ra lo lắng khi phải giáp mặt với ông ta, nếu Trần Thành tìm ra chỗ ở sẽ sinh ra rầy rà, đôi khi còn bỏ mạng. Vợ chồng ta biết Trần Thành có nhiều vây cánh trong nội cung thì bây giờ ra ngoài vẫn thế, vẫn còn tàn nhẫn độc ác ...
Hàng đêm phu quân không sao ngủ được, ông cứ nằm thao thức suy nghĩ.
Nểu tính về những thứ hai vợ chồng lấy được, số ngân phiếu cũng chỉ đến ba trăm vạn lượng bạc nhưng cả tiền trang không ai chịu đổi thành tiền, họ cho rằng các tờ ngân phiếu từ kinh thành không có giá trị trên đất Đài Loan. Còn vàng bạc châu báu nếu bán đi cũng chỉ hơn vài trăm lượng vàng cộng với số ngân lượng tiết kiệm đủ cho vợ chồng ta hưởng tuổi về già.
Nhưng còn tấm bản đồ kho tàng nằm trên nước Đông Dương hiện ở đâu? Tại sao Trần Thành cứ cho vợ chồng ta cất giữ cho người đi tìm đòi lại?
Phu quân không biết tính sao, trước mắt việc kinh doanh ở Đài Bắc không thành đạt, còn phía sau Trần Thành theo truy đuổi đòi của và cả tấm bản đồ ảo tưởng.
Vì thế phu quân đâm quẫn trí mới xin bang chủ Rồng Xanh cho qua nước Đông Dương lập trang trại. Trước an dưỡng tuổi già, sau cho Trần Thành không tìm ra tung tích và cuối cùng để tìm dấu vết về một kho tàng như Trần Thành đã nói.
Nhưng không hiểu tại sao Trần Thành vẫn tìm ra nơi vợ chồng ta sống ở nơi khỉ ho cò gáy này. Một ngày nọ Trần Thành tìm đến nơi và nói với phu quân:
– Ta hiểu mi hôi của trong nội cung không được bao nhiêu, nhưng có một thứ lại quý giá vô cùng!
Trần Thành dù chưa nói hết câu nhưng phu quân biết hắn ta muốn nói đến cái gì, bèn đáp lại:
– Trần Công Công muốn nói đến tấm bản đồ kho báu?
Hỏi xong ông tự trả lời ngay:
– Thật tình tôi không hề biết đến tấm bản đồ kho tàng nó tròn méo thế nào, nằm ở đâu trong cung để lấy. Trần Công Công đã lầm vợ chồng tôi rồi.
Trần Thành thấy viên thái giám dưới quyền mình cứ phân trần chối cãi về tấm bản đồ làm hắn ta giận dữ lên tiếng nói thẳng:
– Vợ mi Thôi Oanh Oanh làm trong cung của Lệ Châu, tức cháu gái quan Tổng binh Lê Kiệt, người được Hoàng đế phái đến Vân Nam vùng ba biên giới Trung - Việt - Lào trấn thủ. Trước khi qua đời ông ta cho người đem chôn giấu một số của cải để dành cho con cháu về sau hưởng thụ nên có vẽ một tấm bản đồ.
Phu quân rất ngạc nhiên nên đã đáp lại lời nói của Trần Thành:
– Đúng! Thôi Oanh Oanh từng làm nô tỳ trong cung bà Lệ Châu, nhưng phu nhân tôi người thất học đâu biết chữ nghĩa mà hay biết có tấm bản đồ kho báu để lấy? Cũng như bà Lệ Châu thuộc cháu gái đới thứ hai của Lê Kiệt, hẳn Trần Công Công cũng biết “nữ nhi sinh ngoại tộc” làm sao được giữ tấm bản đồ kho tàng của dòng họ Lệ? Công công suy diễn thái quá rồi đó!
Thấy phu quân cứ khăng khăng nói không biết tấm bản đồ kho báu càng khiến Trần Thành giận dữ. Trước khi ra về hắn ta buông ngay lời hăm dọa:
– Ta đã điều tra ba đời họ hàng nhà quan Tổng binh Kiệt, số mạng ông ta hẩm hiu nên chỉ sinh ra được một con gái tên Lệ Hằng, và hình như do di truyền nên sau này và Lệ Hằng cũng chỉ sinh ra có một con gái tên Lệ Châu vào làm thiếp trong cung. Bây giờ gia đình Lê Kiệt, Lệ Hằng không có ai ngoài Lệ Châu. Ta còn biết khi Lệ Châu được tiến cung, bà Lệ Hằng đã cho con gái cái hộp sơn mài mà trong đó có tấm bản đồ kho báu để Lệ Châu dùng làma vật trang điểm hay đồ trang sức mà bà ta không hề biết nó quý giá ra sao. Trong lúc hoàng cung chạy loạn ta nghe bà Lệ Châu nói, bà ta để quên cái hộp trang điểm bằng sơn mài trong cung. Ta liền vào nội cung tìm cái hộp sơn mài ấy nhưng không còn thấy nữa. Vậy chỉ có vợ mi lấy nó, cho nên ta muốn trong một hai tuần lễ mi phải đưa ra cái hộp sơn mài có tấm bản đồ kho tàng để cùng ta hợp tác đi tìm kho báu rồi chia nhau.
Sau khi Trần Thành ra về, phu quân cứ suy nghĩ mãi về chiếc hộp sơn mài dùng chứa đồ trang điểm của cung phi Lệ Châu, ông mới hỏi ta về cái hộp và được ta trả lời:
– Thiếp lấy cả chục cái hộp sơn mài đem đi lúc trong cung hoảng loạn, nào nhớ cái hộp nào là của ai. Để thiếp mang ra cho chàng xem xét.
Nói xong ta đưa cho ông xem gần chục hộp sơn mài, cái nào cũng giống như cái đó:
đều hình Mai Lan Cúc Trúc, bên ngoài lẫn bên trong không có lấy một chữ hay một hình vẽ cho thấy có bí mật về tấm bản đồ.
Còn đang chán nản trước lời hăm dọa của Trần Thành và nhìn thấy mấy hộp sơn mài không có gì khác biệt, phu quân ta ngồi than ngắn thở dài:
– Tên Trần Công Công chết tiệt, hắn ta sẽ không để vợ chồng mình được sống yên thân rồi!
Vì thế ông đánh điện với Đài Bắc xin bang chủ Rồng Xanh cho người qua thay trông coi trại Quỳnh Hương, rồi mang tâm niệm để đời:
– Ta nguyện sẽ sống một cuộc đời trong sáng như ngài Châu Đạt Quan, đi chu du khắp nơi cùng chia ngọt sẽ bùi giúp đỡ bá tánh, xây chùa miếu thờ tự ông Bổn để tích đức. Và nguyện rằng, trong cơ may nếu ta có tấm bản đồ kho báu ấy sẽ dùng hết vào việc công đức từ thiện cho người nghèo khó, còn hơn để một tên độc ác gian tham như Trần Thành chiếm dụng.
Ý của phu quân muốn như Châu Đạt Quan - người tỉnh Phúc Kiến, làm quan dưới thời nhà Nguyên - thường có tiền hay giúp đỡ người nghèo được dân chúng sùng bái lập miếu thờ, và tôn làm Phúc Đức Chánh Thần hay còn gọi ông Bổn. Về sau dân chúng nghe ông được phong sắc lên thượng đẳng thần nên đổi cách gọi là Tài Thần, có người đọc trại ra Thần Tài ...
Tượng nhân thần Châu Đạt Quan không cởi cọp nên khác với tượng nhiên thần tên Thiệu Huyền Đản - người nước Tần - là vị bồ tát mặt đen râu dài tới rốn hay cởi cọp đen, tay trái cầm đồng bạc tay phải cầm gậy kim tiền cũng chuyên đi cứu nạn cứu khổ giúp đỡ người nghèo, nên được mọi người cung kính gọi là Thần Tài.
Sau ngày phu quân không còn làm trại chủ, bàn giao trại Quỳnh Hương cho Gia Viễn, ông mới đưa hết các hộp sơn mài lấy được cho Trần Thành, bắt đầu sắp xếp đồ đạc ra đi. Lúc đó ta cứ nâng niu một cái tráp sơn mài nhỏ nhắn đẹp đẽ mà ông không biết vợ chứa đựng gì trong đó, cũng như ông chưa từng thấy bao giờ.
Hồn ma bà giám hậu Thôi Oanh Oanh kể đến đây lại òa lên khóc nức nở, còn Mỹ Lệ bắt đầu hiểu ra cái tráp sơn mài kia chính là hộp có chứa tấm bản đồ kho báu. Nàng tò mò nói với hồn ma bà ta:
– Rồi sao nữa thưa bà giám hậu?
Hồn ma vừa khóc xong lại chợt mỉm cười sau câu hỏi của Mỹ Lệ. Bà liền lấy từ trong người ra một túi vải, bên trong có chiếc tráp sơn mài nhỏ nhắn đáp:
– Nó đây! Đúng là cái tráp này rất quý giá và hiếm có trên đời. Đây các người cứ nhìn ngắm nó và muốn biết nó chứa thứ quý báu gì thì cứ mở xem, chỉ duy nhất một điều, sau khi xem xong mọi người phải trả lại cho ta, vì nó là của ... phu quân ta.
Bốn người trong nhóm Thiên tinh tứ trụ lại tò mò, Mỹ Lệ đưa tay ra nhậu cái tráp sơn mài đoạn nàng mở ra xem. Vừa trông thấy một vật nằm trong tráp, mặt Mỹ Lệ đã đỏ bừng rồi vội vàng đưa cái tráp ra xa khỏi tầm mắt, miệng ấp úng:
– Kỳ quá!
Ba anh em họ Phan vội nhìn vào trong tráp rồi cùng cười phá lên. Ngọc Luân bèn giải thích:
– Đây là cái tráp dùng chứa vật “tịnh thân” của ông Hoàng Bảo Trứ khi vào làm thái giám trong cung cấm. Trông nó vẫn bình thường dù trải qua mấy chục năm. Có lẽ được thứ dược thảo nào đó ướp để không bị phân hủy biến dạng.
Đúng là thứ báu vật quý hiếm. Hương hồn bà Thôi Oanh Oanh nói cái tráp rất quý giá và hiếm có trên đời là vậy.
Mỹ Lệ có giác quan thứ sáu, nàng nhạy bén trong nhận xét cho nên không thể lầm nếu cái tráp nhỏ này có tấm bản đồ kho báu. Vì thế nàng lại lên tiếng hỏi:
– Lúc nãy âm hồn bà kể, ông Hoàng Bảo Trứ không biết bà chứa đựng vật gì trong đó, cũng như ông ta chưa thấy bao giờ. Vật chứa trong đó đã rõ, nhưng con nghĩ trong tráp còn có tấm bản đồ của ngài Tổng binh Lê Kiệt vẽ đường đi đến kho tàng?
Hồn ma bà Thôi Oanh Oanh liền gật đầu xác nhận, rồi âm hồn bà ta kể tiếp:
– Khi phu quân nhìn vào cái tráp, ngoài việc thấy vật “tịnh thân” của mình làm ông ta cảm động mà nói với vợ:
“sao nàng có được vật “tịnh thân” của ta, mà có đúng nó không? Thứ này như giấy chứng nhận ta là một thái giám thực thụ, nó còn được ngài Tổng Quản Nội Thị quản lý chặt chẽ lắm?
Bấy giờ ta mới nhìn chồng trả lời:
– Chàng biết không, lúc hoàng cung hoảng loạn, mọi viện mọi cung vắng người, thiếp mới chạy vào cung nội thị tìm lại vật quý của chàng để làm kỷ niệm, bởi mỗi vật đều có thẻ ghi tên làm sao thiếp lầm lẫn được!
Phu quân ta thắc mắc:
– Theo ta biết thì vật “tịnh thân” chỉ được treo trong cung để dễ dàng cho quan nội thị kiểm soát các thái giám thật giả, đâu để trong hộp sơn mài sang trọng thế này?
Ta cũng thành thật đáp lại câu hỏi của chồng, ta nói:
– Thiếp biết, cho nên không lẽ cứ cầm vật “tịnh thân” của chàng trên tay mà đi lại trong cung? Vì thế sẵn trong tay nải có chiếc hộp nhỏ nhắn đẹp đẽ này nên thiếp đã bỏ vào trong tráp từ đó cho đến nay.
Nghe ta trả lời làm phu quân chợt nhớ lại câu nói của TrầnThành:
“ta đã điều tra ba đời họ hàng nhà quan Tổng binh Lê Kiệt, biết bà Lệ Hằng cho con gái cái hộp có tấm bản đồ dùng để chứa vật trang điểm mà không hề biết nó quý giá ra sao”. Có thể đây là chiếc hộp sơn mài mà Trần Thành đang bỏ công tìm kiếm chăng?
Tuy vậy phu quân vẫn chưa tin cái tráp là của bà cung phi Lệ Châu, ông tiếp tục hỏi ta:
– Mấy hôm trước sao nàng không đem cho ta xem, có phải cái tráp để đồ trang điểm của cung phi Lệ Châu không?
Ta vội tình tứ lườm chồng đáp:
– Theo thiếp nghĩ đây là vật kỷ niệm của chàng, và là vật bất ly thân của thiếp nên giữ làm của riêng. Hôm nay vợ chồng ta sắp xếp đồ đạc nên thiếp mới đem ra. Còn nó có phải của cung phi Lệ Châu không, bây giờ nghĩ lại chắc là đúng. Vì lúc bỏ vật “tịnh thân” của chàng vào trong tráp, thiếp đã đổ ra ngoài mấy thỏi son môi, mấy hộp phấn hồng.
Phu quân như bắt được vàng, ông ta không ngờ trong tay lại có tấm bán đồ kho báu quý giá mà Trần Thành đêm ngày mơ ước. Ông mới xem xét từng bề mặt hộp tráp, vẫn không thấy có gì khác biệt ngoài hoa văn được vẽ kiêu kỳ công phu tranh thủy mạc, có hàng dương liễu buông rũ và ánh trăng lập lờ trên sóng nước, xa xa thêm một vài ngọn núi có áng mây che trên đỉnh.
Phu quân bắt đầu chán nản, bức tranh sơn mài không nói được điều gì về kho tàng của quan Tổng binh Lê Kiệt. Ông cứ soi mói nó dưới ánh đèn dầu suốt đêm, cốt tìm cho ra mấy chữ hay hình vẽ hướng dẫn nào đó.
Trong lúc mày mò ông lại nhớ đến lời từng tâm nguyện:
“trong cơ may nếu ta có tấm bản đồ kho báu, ta sẽ dùng hết vào việc công đức từ thiện giúp đỡ người nghèo, còn hơn để tẽn độc ác gian tham Trần Thành chiếm dụng”, rồi lại nghĩ đến một tâm nguyện khác:
“ta nguyện sẽ sống cuộc đời trong sáng như ngài Châu Đạt Quan đi khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi giúp đỡ bá tánh, xây chùa cất miếu thờ ông Bổn tích đức ...”.
Phải chăng lời nguyện đã thấu đến tai ông Bổn thượng đẳng thần, mà ngay sau đó qua độ nóng của ánh đèn dầu, dưới lớp đáy hộp sơn mài bỗng nhiên nứt ra một khe hở. Thì ra cái tráp có hai đáy, giữa có tấm bản đồ được nhét bên trong!
Có tấm bản đồ kho báu, hai vợ chồng ta liền tìm và thật sự bọn ta đã làm chủ được một kho tàng vô giá. Như tâm nguyện của mình, phu quân chỉ đến lấy một ít của cải để đi đến đâu cho xây chùa cất miếu đến đó, hay giúp đỡ bá tánh nghèo khó mà không vụ lợi.
Đến khi vợ chồng ta vào khu rừng này xây ngôi miếu nhỏ để an dưỡng tuổi về chiều, thì bắt đầu có nhiều biến động xảy đến cho cuộc đời hai vợ chồng ta, từ Trần Thành cho đến tên nghĩa tử bất nhân thất đức, vong ơn bội nghĩa ...
Ngày chúng ta còn ở Đài Bắc ông cứ suy nghĩ đêm ngày. Ông ta và ta mang danh nghĩa vợ chồng nhưng không làm sao có con để có người sau này lo hương khói khi cả hai về chầu tiên tổ, bởi ông chỉ là một thái giám đã bị “tịnh thân”.
Đứa con nuôi sẽ mang tên Hoài Tữ có ý nghĩa vợ chồng ta mơ đến có đứa con. Nên khi đến Đài Bắc lập nghiệp, vợ chồng ta may mắn xin được một đứa con trai mới chập chững biết đi về làm nghĩa tử. Vậy mà lớn lên nó trở thành tên bất nghĩa ...
HỒN MA NƠI KHO BÁU Trần Thành tuy tuổi trên sáu mươi nhưng thân thể hắn ta vẫn quắc thước tráng kiện trong nước da trắng trẻo hồng hào, nhưng lại có hàng lông mày mọc ngược trên đôi mắt to như loài cú vọ, và giọng nói y như đàn bà lúc ẻo lả nhả nhớt, lúc chanh chua đanh đá nghe rất khó ưa. Ai mới nhìn Trần Thành cũng đều nghĩ hắn ta thuộc người ái nam ái nữ hoặc một thái giám về chiều. Mọi người còn biết rằng, tuy Trần Thành là một viên thái giám nhưng tính tình gian hùng, độc ác và có nhiều tính toán cá nhân.
Trần Thành đến đất Tourane đã mấy năm nay, hắn ta thu nạp nhiều tên đầu gấu có máu mặt trong giới giang hồ địa phương với mục đích theo dõi vợ chồng Hoàng Bảo Trứ - chủ trại Quỳnh Hương, cũng như chuẩn bị đi tìm một kho tàng vắng chủ.
Trước cái ngày hắn đến gặp Hoàng Bảo Trứ tại trang trại, một người trước đây còn nằm dưới hắn ta một phẩm bậc, một người mà hắn ta đã bỏ công đi tìm từ Đài Bắc sang tận đây mất nhiều công sức, cuối cùng chỉ nhận được từ viên thái giám gần chục cái hộp sơn mài toàn cẩn hình Mai Lan Cúc Trúc giống hệt như nhau. Lúc đó viên thái giám còn nói:
– Đây là số hộp sơn mài Thôi Oanh Oanh lấy từ nội cung mà Trần Công Công muốn tôi giao lại. Và tôi nhận thấy những hộp sơn mài này không có điểm gì đặc biệt, như vậy làm sao có tấm bản đồ kho tàng nằm trong đó như lời công công nói.
Nhìn qua mấy cái hộp sơn mài và câu nói mỉa mai của họ Hoàng nghe cũng có lý. Tuy vậy Trần Thành sẵn tính đa nghi, hắn ta vẫn cầm lấy chúng đem về thị trấn để mày mò tìm hiểu, cuối cùng cũng không thấy có điểm đặc thù nào hiện ra trước mắt.
Không phải Trần Thành đã hồ đồ cho rằng vợ chồng viên thái giám Hoàng Bảo Trứ đang cất giữ chiếc hộp sơn mài của cung phi Lệ Châu. Bởi ông ta nghi ngờ họ Hoàng là có cơ sở.
Trong thời gian người sống trong hoàng cung chạy loạn liên quân, Trần Thành cũng như mọi người phải bỏ chạy ra ngoài hoàng thành sinh sống. Đến một ngày ông ta tình cờ gặp một người hành khất già đang lên tiếng ăn xin:
Tôi xin ngài làm ơn làm phước bố thí rồi tôi sẽ trả ơn cho ngài thật hậu hĩnh!
Câu nói ăn xin bố thí của người hành khất nghe ra mâu thuẫn, nếu không phải kẻ điên khùng ăn nói rồ dại thì cũng thuộc người có đầu óc hoang tưởng, cho nên Trần Thành mới đưa mắt nhìn ông ta tỏ vẻ khinh thị rồi nói:
– Mi đã đi ăn mày mà còn có thể trả ơn cho ta hậu hĩnh được sao? Không lẽ mi là thần tiên giả dạng để thử lòng người như trong truyện cổ tích? Thật mi ăn nói điên khùng quá!
Nhưng người hành khất già nói lại ngay:
– Nếu ngài không tin, xin cứ bố thí cho tôi một xu xem tôi có trả ơn được cho ngài hay không?
Kể ra một xu đối với Trần Thành nào có nghĩa lý gì khi ông ta có hàng vạn lượng bạc, hàng trăm lượng vàng trong tay? Giá trị một xu chỉ đủ mua một ly nước uống cầm hơi. Vì vậy Trần Thành đâm hiếu kỳ liền móc túi đưa ra một xu để bố thí, rồi lên tiếng:
– Đây! Một xu ta bố thí cho mi, vậy hãy trả ơn cho ta coi. Nếu thấy được ta sẽ bố thí thêm.
Người hành khất già cầm lấy tiền đoạn ông ta mới nói tiếp:
– Tôi cũng xin nói trước, cứ một xu ngài bố thí sẽ được nghe một câu nói trả ơn đáng giá ngàn vàng! Một xu bố thí đầu tiên này tôi xin nói, ngài Tổng binh Lê Kiệt có chôn giấu một kho báu, đến nay đã vô chủ.
Đúng một câu nói đáng giá ngàn vàng, ở kinh thành ai không biết đến quan Tổng binh Lê Kiệt có một thời vang bóng. Tuy nhiên vợ chồng ông ta đã chết từ lâu, gia cảnh có đứa con gái độc nhất đi lấy chồng khi sinh ra đứa con đầu lòng cũng đã qua đời.
Cháu gái Lê Kiệt tức Lệ Châu khi lớn lên được đưa vào làm cung phi sống trong Tử Cấm Thành. Có thể nói dòng họ nhà quan Tổng binh Lê Kiệt thuộc danh gia vọng tộc, quyền quý cao sang, có thể có số của cải được cất giấu đâu đây không ai biết được.
Cái tin này quả thật đáng giá gấp ngàn lần so với một xu mà Trần Thành vừa bỏ ra bố thí, nhưng ông ta vẫn giả như người không tin nên lại nói:
– Mi làm sao biết được? Nếu biết mi đã đến đó lấy đi để trở thành một đại gia giàu có, đâu làm thứ hành khất đi ăn mày ăn xin thế này?
Người hành khất già lại chìa tay ra như tiếp tục xin của bố thí, còn miệng nói:
– Tôi đã nói với ngài, cứ một xu ngài bố thí sẽ được nghe một câu nói trả ơn đáng giá ngàn vàng.
Thấy người hành khất già rất ma mãnh, nhưng bây giờ Trần Thành nào có tiếc gì một xu, ông ta liền móc ngay một đồng rồi nói tiếp:
– Đây ta cho mi một đồng. Hãy kể hết cho ta nghe, nếu thấy hay ta sẽ đem mi về nuôi dưỡng trong nhà khỏi đi ăn xin nữa!
Bấy giờ người hành khất già mới bắt đầu kể:
– Tôi tên Vĩnh Kim, trước đây là thợ thủ công mỹ nghệ hành nghề tại một huyện trong tỉnh Vân Nam, nơi quan Tổng binh Lê Kiệt trấn thủ ...
CÂU CHUYỆN CỦA VĨNH KIM Lúc đó tôi còn là một thanh niên chưa quá tuổi ba mươi. Vào một hôm quan Tổng binh Lê Kiệt cho mời tôi vào dinh thự đoạn nói:
– Ta muốn mi làm một cái tráp nhỏ sơn mài cho thật xinh xắn dành cho vợ ta dùng cất đồ trang sức. Nhưng ta muốn cái hộp này thật đặc biệt, dưới đáy có hai ngăn mà không ai nhận ra được.
Ttôi làm nghề thủ công mỹ nghệ rất khéo tay đã nhiều năm, gặp nhiều khách hàng đưa ra lời yêu cầu tương tự cốt để nhét thư tình gửi người yêu hay cất giấu ngân phiếu cho kín đáo. Cho nên tôi liền gật đầu rồi ra về làm ngay cái tráp, nhưng làm luôn mấy cái mà quan Tổng binh vẫn chưa hài lòng, lúc chê hoa văn lạc hậu, lúc nói ván hộp quá mỏng manh hay chê đáy hộp thô thiển dễ nhận thấy ... khiến tôi rất mất nhiều công sức lẫn thời gian.
Tôi biết sửa đổi mẫu mã theo ý quan Tổng binh sẽ không bị thiệt hại về tiền công cán, nhưng với các khách hàng quen thuộc họ sẽ bỏ đi tìm nơi khác khi anh không giao hàng đúng hẹn, tức câu được con tép mất đi con tôm, không thể lấy ngắn nuôi dài được.
Vào một đêm, tôi mới sắm một mâm cỗ thịnh soạn để cúng cô hồn, đứng ra van vái:
– Tôi tên Vĩnh Kim, làm nghề thủ công mỹ nghệ. Đêm nay xin có mâm cúng chúng sinh gồm quần áo, giấy tiền vàng bạc cùng cháo thí phẩm gởi đến các oan hồn uổng tử, các cô hồn các đãng đang khuất mặt khuất mày đến hưởng qua chút lòng thành của tôi. Sau xin phù hộ cho tôi sớm hoàn thành cái tráp sơn mài cho ngài Lê Kiệt được hạnh thông nhanh chóng, vì nếu kéo dài tôi sẽ mất đi nhiều khách hàng quen thuộc lâu năm. Mọi sự được sở cầu như ý, lần sau tôi xin cúng hậu tạ đến các vị một con heo quay ...
Tôi không ngờ sau lời van vái trước mâm cúng chúng sinh, bầu trời bỗng nhiên trở gió và âm u khác thường, mọi vật trước mắt đều như tối sầm lại rồi bắt đầu có nhiều ánh ma trơi lập lòe xuất hiện.
Người ta nói ánh ma trơi là âm hồn của các hồn ma bóng quế đang sống vất vưởng ở cõi trần gian, tôi tự hỏi như vậy lời van vái của tôi đã đến tai các oan hồn uổng tử và bọn chúng đang đến để thụ lộc đây sao?
Mà thật vậy, những ánh ma trơi sau khi bay lượn lập lòe bắt đầu hiển hiện thành hình bóng. Tôi nhận ra bọn chúng toàn những người mặc áo lính trận vùng biên phòng. Cả bọn cô hồn các đảng không nói không rằng xúm nhau tranh lấy phẩm vật mà tôi đang cúng cho chúng ăn.
Trong đó có một hồn ma vừa ăn vừa nói:
– Mi hãy bình tĩnh đừng sợ hãi, bọn ta đã nghe lời mi van vái rồi, vì bọn ta chính là lính của tên độc ác Lê Kiệt đây!
Lúc này tôi mới bớt kinh sợ, lấy lại bình tĩnh trước các hồn ma bóng quế đang hiện trước mắt, nhưng cũng hết sức ngạc nhiên khi nghe chúng hằn học nói về quan Tổng binh. Tôi hỏi:
– Tại sao các vong hồn lại đói khát rách rưới đến như vầy? Tại sao các vong hồn cho rằng quan Tổng binh Lê Kiệt là người độc ác?
Tức thì bọn ma đói đã nhao nhao lên nói:
– Bọn ta thấy mi đang mắc vào tai kiếp khi nhận làm cái hộp sơn mài cho tên Lê Kiệt, vì mi cũng sẽ phải chết như bọn ta!
Tôi nghe bọn ma đói lên tiếng hăm dọa bèn thất thần hỏi lại ngay:
– Tôi thấy quan Tổng binh là người ăn ở có nhân tâm, tính tình hiền lành, đâu độc ác như các vong hồn vừa nói? Và tại sao các vong hồn lại nói tôi mắc vào tai kiếp sẽ phải chết?
Lúc này có một con ma đói lên tiếng trả lời:
– Tên Lê Kiệt ngoài mặt là một ngụy quân tử, còn bụng hắn chứa toàn rắn rết và dao găm! Hắn thường giết người vô tội, cướp bóc vàng bạc châu báu rồi đem đi chôn giấu. Đến bọn ta khi chôn xong số của cải này đều bị hắn giết sạch không còn ai để diệt khẩu.
Rồi một hồn ma khác nói tiếp:
– Cái hộp tráp mà hắn nhờ mi làm cốt để giấu tấm bản đồ kho tàng gởi về cho người thân. Nên sau khi mi làm xong cũng sẽ bị giết để không ai biết đến cái tráp có giấu tấm bản đồ kho tàng phi nghĩa đó. Nên bọn ta nói mi mắc vào tai kiếp là vậy!
Vĩnh Kim sau khi nghe các vong hồn uổng tử nói xong càng cảm thấy sợ hãi.
Anh không sợ những hồn ma bóng quế đang hiện trước mặt mà bắt đầu sợ quan Tổng binh giết anh diệt khẩu như bọn ma đói này. Tuy trong lòng đang sợ chết nhưng lòng tham con người vẫn trỗi dậy trong đầu Vĩnh Kim. Anh tính đến một viễn cảnh xán lạn sẽ xuất hiện trong tương lai. Vì thế Vĩnh Kim lại lên tiếng hỏi bọn cô hồn:
– Kho tàng này được Lê Kiệt chôn giấu ở đâu?
Ý nghĩ trốn chạy trước cái chết, và khi chạy trốn anh sẽ đi tìm kho tàng của Lê Kiệt để trở thành một kẻ giàu sang phú quý. Nhưng bọn ma đói đã trả lời:
– Thứ nhất thiên cơ bất khả lậu, thứ hai đây là một kho tàng phi nghĩa, bọn ta làm ma giữ của nếu ai đến lấy nó mà không có tâm đức, tham lam đều phải chết! Cũng như bọn ta từng nguyền rủa tên Lê Kiệt khi chết sẽ không có ai để nối dõi tông đường.
Nói xong các oan hồn mới dần dần biến thành từng ánh ma trơi, bay đi tứ tán không còn thấy đâu nữa. Người còn lại là Vĩnh Kim, anh sững sờ trước các tin tức mà bọn cô hồn uổng tử tiết lộ. Anh phân vân chuyện kho tàng, chuyện Lê Kiệt giết anh diệt khẩu thực hư ra sao?
Nhưng có một thực tế làm Vĩnh Kim phải tin vào lời các hồn ma nói ra, khi véo tay vào đùi anh vẫn cảm thấy đau đớn, nên đây đâu phải là giấc mơ huyền hoặc. Như vậy chắc chắn anh đã mắc vào tai kiếp, bây giờ chỉ còn con đường là trốn khỏi nơi đây.
Ngay ngày hôm sau Vĩnh Kim liền khăn gói tạm bỏ trốn. Anh tìm một nơi gần nhà để ẩn thân hòng nghe ngóng động tĩnh. Mà quả thật, sau mấy ngày liền không thấy Vĩnh Kim đến, quan Tổng binh Lê Kiệt cho quân lính đi tìm anh khắp nơi.
Vĩnh Kim bấy giờ đã hiểu, không phải chỉ có cái tráp sơn mài cỏn con mà quan Tổng binh phải sục sạo tìm kiếm anh suốt mấy ngày liền, đúng ông ta đang tìm anh nhằm diệt đầu mối ...
Kể đến đây người hành khất già không nói tiếp nữa, càng khiến cho Trần Thành nôn nóng tò mò. Ông ta lại lên tiếng hỏi:
– Mi trốn đi được thì đến nơi khác làm ăn, cớ sao bây giờ thành kẻ ăn mày bẩn thỉu rách rưới như vầy?
Người hành khất già lại chìa tay ra xin tiền nhưng Trần Thành đã nói ngay:
– Ta không bố thí nữa mà sẽ đưa mi về nhà nuôi dưỡng, nhưng mi phải trả lời câu hỏi của ta trước.
Bấy giờ Vĩnh Kim - tên người hành khất già - mới tâm sự kể tiếp:
– Con người ai cũng có lòng tham, khi biết lão Lê Kiệt muốn giết tôi diệt khẩu, mà ông ta đang trấn nhậm cả tỉnh Vân Nam nên lấy nơi đâu để trốn trong khi hình của tôi lại dán đầy ngoài phố, ngoài chợ? Quả là một tên ác ôn, làm tôi muốn trả thù bằng cách đi tìm kho tàng của ông ta chôn giấu đâu đó để mong thành một phú gia. Nhưng rồi lúc cúng cô hồn, Vĩnh Kim nắm được một số chi tiết về các hồn ma hiện về trong đêm đó, bọn cô hồn uổng tử đều là lính trận biên phòng. Vì thế anh lặn lội đi dọc theo vùng ba biên giới Trung - Việt – Lào để hỏi thăm một số lính biên phòng mất tích.
Vĩnh Kim đi như thế gần cả năm mới phát hiện ở đồn biên phòng gần huyện Giang Thành, có khoảng mười tên lính vượt biên giới vào đất Việt, và đã mấy năm trời không ai còn nghe tông tích.
Nhờ tin tức này Vĩnh Kim lần theo dấu vết, anh đi xuống phía Nam bắt đầu băng rừng vào các tỉnh Lai Châu, Sơn La của đất Việt. Nhưng không phát hiện ra mười tên lính biên phòng đã đi đến đâu. Cuối cùng Vĩnh Kim nhớ lại mâm cúng cô hồn khi còn ở Vân Nam, anh mới mua vàng mã, lễ vật đặt giữa rừng đêm mà khấn vái:
– Tôi tên Vĩnh Kim, làm nghề thủ công mỹ nghệ ở tỉnh Vân Nam, đêm nay xin có mâm cúng chúng sinh, xin mời các oan hồn uổng tử của tên Tổng binh Lê Kiệt đến thụ hưởng, gia ân cho chút lòng thành của tôi, cho tôi được gặp mặt các người ...
Vĩnh Kim mới vừa van vái xong mấy câu đã thấy các hồn ma lính trận hiện đến. Bọn chúng vẫn là lũ ma đói đang giành nhau nhưng phẩm vật cúng kiến mà ăn lấy ăn để. Ăn xong một hồn ma mới nhìn thẳng vào Vĩnh Kim nói:
– Mi về đi, đường đến kho tàng của tên Lê Kiệt còn xa xôi lắm. Và mi cũng đừng mơ tưởng đến nó, bọn ta đã có lời nguyền làm ma giữ cửa kho tàng phi nghĩa này. Khi ai đến lấy nó mà không có tâm đức đều phái chết! Tâm tính mi đã nổi lòng tham cho nên sẽ không lấy được kho tàng này đâu. Nhưng bọn ta tha tội chết cho mi mà chỉ nguyền rủa, mi sẽ không bao giờ được giàu sang phú quý!
Nói xong cả bọn ma đói lại biến mất không nói thêm một lời nào.
Vĩnh Kim lì lợm không chịu bỏ cuộc, anh tiếp tục băng rừng đi qua cả bên Ai Lao, đến địa phận tỉnh Sầm Nứa mà không tìm được dấu tích kho báu, lúc bấy giờ anh mới hiểu nếu không có tấm bản đồ hay có các oan hồn uổng tử chỉ lối đưa đường thì kho tàng này chỉ là ảo ảnh trong mắt kẻ mù mà thôi.
Nghĩ vậy làm Vĩnh Kim muốn quay trở về cố quốc nhưng không kịp nữa.
Những ngày sống trong cảnh rừng thiêng nước độc anh bị căn bệnh sốt rét hoành hành làm thân thể bại hoại. Rồi may mắn anh lê chân đến được một bản làng người Dao, được mọi người cứu qua cơn bệnh hiểm nghèo.
Trong những ngày nằm chữa trị bệnh sốt rét tại bản làng, Vĩnh Kim được một cô gái Dao phải lòng và cưới anh làm chồng. Cả hai chung sống cho đến ngày người vợ Dao qua đời mà cả hai người không có được một mụn con. Khi đó Vĩnh Kim mới nhìn lại chính mình, thấy tuổi tác đã già tính ra đã xa quê hương trên ba mươi năm dài, làm anh nhớ đến bà con họ hàng nên nhất quyết quay trở về Vân Nam.
Với tuổi trên sáu mươi mà trong Vĩnh Kim già sọm, có lẽ do căn bệnh sốt rét hành hạ triền miên khiến anh không thể làm việc được, đành đi xin của bố thí suốt đoạn đường về.
Khi về đến Vân Nam, họ hàng Vĩnh Kim cũng đã tứ tán thập phương vì loạn lạc. Anh mới nhờ xe đi đến kinh thành, một nơi phồn hoa đô hội có nhiều kẻ giàu sang phú quý, hành nghề ăn xin mới khá được ...
Kể đến đây Vĩnh Kim mới kết luận:
– Ngài đã biết vì sao tôi trở thành kẻ ăn mày và thường ma mãnh nói “nếu bố thí một xu sẽ được trả ơn đáng giá ngàn vàng”, bởi tôi biết trên đời có rất nhiều người còn mang túi tham không đáy như tôi khi xưa, tôi sẽ dễ xin ăn hơn. Và không biết sau câu chuyện kể sẽ có bao người sẽ động lòng tham nhỉ?
Trần Thành từng làm quan thái giám trong Tử Cấm Thành, ông ta biết cung phi Lệ Châu là cháu ruột của Lê Kiệt và đang ở đâu. Việc lần mò ra cái hộp sơn mài có giấu tấm bản đồ kho tàng sẽ không khó khăn lắm.
Trần Thành cũng như Lê Kiệt chỉ là một ngụy quân tử ngoài mặt, tỏ ra từ tâm bác ái trước một tên Vĩnh Kim nghèo hèn khốn khổ, ông ta bèn nhìn người hành khất già với đôi mắt tràn đầy sự cảm thông rồi ôn tồn lên tiếng nói:
– Ta đã giàu sang phú quý, tài sản ăn suốt ba đời không hết nên không màng đến cái kho tàng mà mi vừa kể, và vì thấy nó mơ hồ hoang tưởng quá. Nhưng ta đã hứa sẽ đưa mi về nuôi dưỡng cho đến hết cuộc đời, vậy mi hãy đi theo ta.
Ông già hành khất Vĩnh Kim như người từ trên trời rơi xuống, không ngờ gặp được quý nhân giữa thời buổi đất nước loạn ly nghèo khó. Và Vĩnh Kim cũng bằng đôi mất nhìn Trần Thành tỏ sự biết ơn, đoạn run run giọng đáp:
– Tôi thật đội ơn ngài đã cứu khổ cứu nạn, tôi xin nguyện làm thân khuyển mã phục vụ cho ngài suốt cuộc đời còn lại.
Trần Thành không nói gì, ông ta chỉ ve vuốt ông già hành khất Vĩnh Kim vài cái thân mật rồi đưa ra xe trở về nhà. Đây là lần đầu tiên trong đời ông già Vĩnh Kim được ngồi trên xe hơi, bên cạnh lại là một người giàu sang phú quý không phân biệt giai cấp sang hèn, không tham cái kho tàng mới được nghe, làm khuôn mặt ông ta cứ luôn hớn hở.
Vĩnh Kim nào biết trong bụng Trần Thành đang nuôi dưỡng toàn rắn rết dao găm. Trần Thành đang nghĩ đến con đường mà quan Tổng binh Lê Kiệt đã đi qua:
giết người diệt khẩu. Bằng cái cung cách ăn xin của Vĩnh Kim sẽ có bao người sẽ tin như ông ta đang tin. Cũng vì tính đa nghi như Tào Tháo, ông ta không muốn để Vĩnh Kim cứ đi xin của bố thí ăn nói luông tuồng để rồi đây cùng sẽ có người tin. Mà nuôi dưỡng tuổi già Vĩnh Kim là điều không tưởng với Trần Thành, khi giá trị sử dụng ông già hành khất không còn nhiều, ông ta đâu thừa tiền làm việc công đức từ thiện này.
Còn Vĩnh Kim ngồi trên xe đang vui mừng hớn hở, chợt nhiên đôi mắt ông ta đã mở trợn trừng nhìn Trần Thành không chớp, miệng ú ớ nói qua hơi thở đang sắp tắt:
– Thì ra ông cũng muốn giết người diệt khẩu như tên Lê Kiệt độc ác. Tôi đã nhìn lầm người, trời tru đất diệt ông, tôi sẽ làm ma hiện về báo oán!
Miệng Vĩnh Kim nguyền rủa còn chân tay dãy giụa từ mãnh liệt cho đến lúc phải buông xuôi. Trần Thành từng nghe nhiều lời nguyền rủa nên chỉ để ngoài tai, lúc này ông ta đang nở nụ cười nham hiểm và độc ác khi tay cầm con dao nhọn cứ ấn sâu vào trong tim ông già hành khất Vĩnh Kim, miệng nói:
– Mi nói nhiều quá, nếu để mi sống ta sợ đêm dài lắm mộng. Thôi hãy về dưới cõi âm ty sống cùng bọn lính biên phòng làm thứ ma đói canh giữ kho tàng. Ta hẹn có ngày sẽ đến kho tàng Lê Kiệt tìm mi!
Từ khi Trần Thành gặp được ông già hành khất Vĩnh Kim, ông ta mới biết cái hộp sơn mài mà cung phi Lệ Châu dùng chứa đồ trang điểm ở dưới đáy có tấm bản đồ kho báu của Lê Kiệt đã vẽ nơi chôn giấu ơ một nơi nào đó trên đất Việt Nam.
Giết xong ông già hành khất, Trần Thành tin rằng tấm bán đồ kho tàng của Lê Kiệt là có thật vì sau khi tìm hiểu về gia đình quan Tổng binh, ông ta biết thật sự có cái hộp sơn mài đã ở trong tay cung phi Lệ Châu.
Vì không hiểu có phải từ lời nguyền của các hồn ma bọn lính biên phòng mà Trần Thành được biết, trong thời gian còn trấn nhậm vùng ba biên giới, quan Tổng binh Lê Kiệt bỗng nhiên đột tử qua đời. Riêng về cái hộp sơn mài đã được Lê Kiệt gửi về kinh thành cho vợ, sau đó trước khi qua đời bà ta trao cho cô con gái độc nhất là Lệ Hằng lúc đi về nhà chồng.
Lệ Hằng theo sống cùng chồng và sinh được Lệ Châu, nhưng khi sinh con bà ta bị băng huyết mà chết tức tưởi. Lệ Hằng chỉ kịp trăn trối với chồng xin trao lại kỷ vật tức cái hộp sơn mài nhà họ Lê cho con gái sau này làm kỷ niệm.
Cuối cùng của hộp sơn mài có giấu tấm bản đồ đang trong tay cung phi Lệ Châu. Nhưng rồi Trần Thành lại kém may mắn khi nghe bà cung phi nói, cái hộp sơn mài đã thất lạc ngay từ lúc chạy loạn liên quân, có lẽ lúc mọi người vào hôi của con nô tỳ Thôi Oanh Oanh đã lấy đi rồi, vì thấy cái hộp không đáng giá nên bà không muốn tìm lại nữa.
Trong nội cung lúc bấy giờ ái cũng biết tỳ nữ Thôi Oanh Oanh là giám hậu của viên thái giám Hoàng Bảo Trứ, mà họ Hoàng lại dưới quyền của Trần Thành. Tức tốc ông ta đi tìm viên thái giám họ Hoàng, nhưng mọi người đã chạy loạn tứ phía bóng chim tăm cá biết đâu để tìm.
Qua một thời gian Trần Thành mới biết Hoàng Bảo Trứ đang sống ở đài Bắc làm việc cho bang Rồng Xanh, đến khi ông ta đến nơi thì họ Hoàng đã xin qua Đ6ng Dương hoạt động kinh doanh. Trần Thành hiểu giá trị cái hộp sơn mài mà vợ chồng viên thái giám vô tình lấy đi vì thế ông ta cũng qua đấy.
Cuối cùng Trần Thành chỉ nhận được gần chục cái hộp sơn mài không phải của cung phi Lệ Châu đã thất lạc. Ông ta còn đang tức giận với bao nhiêu công sức tiền của bỏ ra, lại nhận được tin:
– Thưa chủ nhân, vợ chồng tên Hoàng Bảo Trứ đã giao trang trại Quỳnh Hương ra đi, không ai biết vợ chồng hắn đi đến đâu.
Trần Thành có tính đa nghi, ông ta càng nghi ngờ vợ chồng Hoàng Bảo Trứ đang trên đường đi đến kho tàng của Lê Kiệt. Thêm một lần nữa ông ta cho bọn đàn em đi truy tìm viên thái giám họ Hoàng ...
Hoàng Bảo Trứ như bắt được vàng, ông không ngờ trong tay có tấm bản đồ kho báu quý giá mà Trần Thành đêm ngày mơ ước.
Tấm bản đồ kho tàng được vẽ tường tận chi li. Lê Kiệt muốn giữ khái niệm về vùng ba biên giới, ông ta cho bọn lính dưới quyền đi giấu kho tàng nằm tận trong dãy rừng núi Mường Mây tức vùng biên giới của ba nước Đông Dương.
Lê Kiệt vẽ từ cảng biển Hội An đi theo đường bộ qua vùng Phước Sơn mà họ Hoàng đã lập trại Quỳnh Hương, từ đây theo dòng sông đến Xản Xay, rồi đi bộ về hướng Đông chừng mười dặm đường có dãy núi sẽ thấy một cây sồi cao và chờ cho mặt trời ngã hướng Tây sẽ lộ ra một hang đá, mà bên ngoài đầy cây cối rậm rạp che khuất đường vào.
Hoàng Bảo Trứ không tin rằng vợ chồng ông có cơ duyên và may mắn đến vậy. Bởi không hiểu tại sao khi ông qua đây lập trại Quỳnh Hương lại trùng khớp với đường đi đến kho tàng.
Nhìn bản vẽ thấy xa xăm mà lại thật gần, nếu nhìn vào tấm bản đồ Đông Dương thì kho tàng của Lê Kiệt đang nằm trong dãy Trường Sơn gần vùng Daksut thuộc Gia Lai Kon Tum. Mà từ Phước Sơn vào rừng rồi đi xuống phía nam không bao xa sẽ đến ngay địa điểm cất giấu kho báu này.
Khi Hoàng Bảo Trứ từ giã Gia Viễn - người chủ mới của trại Quỳnh Hương, họ Hoàng nói với vợ:
– Vợ chồng ta được trời đất hay ông Bổn thương tình, cho làm chũ kho tàng của quan Tổng binh Lê Kiệt để lại. Nay vợ chồng ta già yếu, đứa con nuôi còn nhỏ dại, số của cải này không cần thiết phải lấy để hưởng thụ, nên ta muốn dùng nó để xây chùa cất miếu nhằm tôn kính ngài Phúc Đức Chánh Thần đã cho vợ chồng ta gặp nhiều may mắn.
Nói xong viên thái giám chỉ vào một ngôi nhà xiêu vẹo bên đường, đoạn ông ta nói tiếp:
– Ta phải đi ngay đến kho báu lấy một ít làm chuyện công đức như vừa nói, nếu không tên gian ác tham lam Trần Thành biết hắn sẽ đến chiếm đoạt để hưởng thụ cá nhân. Nhưng đường đi còn xa lạ lại núi rừng lắm chông gai hiểm trở thêm khí hàn độc địa, vậy nàng cùng thằng Hoài Tử ở lại đây chờ ta về.
Nói xong viên thái giám Hoàng Bảo Trứ tất tả lên đường theo hướng đã định. Ông ngày đi đêm nghĩ, miệng luôn ngậm ngải để tránh cảnh rừng thiêng nước độc luôn xâm hại con người, thứ ngải mà dân đi rừng thường ngậm để tìm trầm hương, kỳ nam rất có hiệu nghiệm. Loại ngải tìm trầm sẽ khiến cho thú dữ phải lánh xa, khí hàn không làm tổn bại sức khỏe và làm cho đôi mắt sáng nhìn thấu cả màn đêm.
Ngoài những đề phòng đó, Hoàng Bảo Trứ vừa đi vừa cầu khấn đến các vị thần linh từ cõi âm cho đến cõi dương, nhất là vị Phúc Đức Chánh Thần mà ông tôn sùng từ xưa đến nay:
– Con lạy ông Bổn, con không vì tham lam số của cải nhà họ Lê mà dấn thân vào nơi nguy hiểm. Con chỉ muốn đến nơi xin một chút của cải đó mang về giúp đỡ người nghèo hay xây chùa cất miếu để tích đức!
Họ Hoàng đi ròng rã như thế gần một tuần lễ đã đến nơi. Ông thấy ngay một cây sồi cao hiện ra trước mắt. Cây sồi lại mọc đơn độc trên một gò đất cao ráo, phủ bóng mát cả một khu vực rộng lớn. Viên thái giám Hoàng Bảo Trứ đến nơi thì mặt trời còn nằm trên đỉnh đầu, ông phải chờ đợi như lời quan Tổng binh Lê Kiệt dặn trong bản đồ:
chờ cho mặt trời ngã về Tây sẽ lộ ra một hang đá, mà bên ngoài đầy cây cối rậm rạp che khuất đường vào.
Quả thật trong lúc này viên tháí giám chỉ thấy toàn cây cối, không có một cái hang đá hay núi đá nào hiện trước mắt. Thấy còn gần hai canh giờ trời mới về chiều, nên ông nằm dưới gốc cây tạm nghỉ ngơi chờ đợi. Rồi trong giấc ngủ tạm bợ họ Hoàng chợt nhận ra có người đang lay chân cho ông tỉnh dậy.
Vừa mở mắt Hoàng Bảo Trứ phải kinh hãi, trước mặt ông có đến mười con ma mặc áo lính đang nhảy cà tưng theo sau một bóng ma ông tướng có bộ râu quai nón tiến đến chỗ ông nằm. Viên thái giám họ Hoàng không thể không biết, ông tướng có bộ râu quai nón chính là quan Tổng binh Lê Kiệt, người chủ kho tàng nơi đây.
Lúc này bóng ma Lê Kiệt nhìn vào viên thái giám họ Hoàng mà thét lớn:
– Đây là kho tàng ta chôn giấu dành cho người nhà họ Lê, mi muốn lấy nó sẽ phải chết!
Nói xong các bóng ma mới tiếp tục nhảy cà tưng xếp thành vòng tròn bao quanh Hoàng Bảo Trứ, chúng nghe chủ nhân thét lập tức cũng gào thét theo:
– Sẽ phải chết! Sẽ phải chết!
Viên thái giám Hoàng Bảo Trứ lo sợ cuống cuồng khi thấy các bóng ma càng lúc trở nên quái dị, có tên mặt tím bầm, có tên mặt vàng nhưng cũng có tên mạt đỏ như máu, nhưng mười con ma mặc áo lính đều có thứ giống nhau như mí mắt đen hai mắt lồi trắng dã, còn đôi môi đen sì cùng với cái lưỡi lè dài xuống đến tận ngực - là cái chết do treo cổ.
Hoàng Bảo Trứ lúc này đã quá sợ hãi, ông phải lên tiếng phân trần:
– Tôi không có ý định chiếm đoạt kho tàng, chỉ muốn xin một ít đem về giúp đỡ kẻ nghèo đang khốn khó để tu nhân tích đức thôi.
Bóng ma Lê Kiệt vẫn tỏ ra giận dữ, liền quát:
– Ta biết hết, vợ mi - con tỳ nữ Thôi Oanh Oanh lấy được tấm bản đồ từ nơi nội cung của cháu gái ta. Vậy mi dám hồ đồ nói đến đây xin một ít để giúp đỡ người nghèo, ta thật khó tin.
Viên thái giám lại tiếp tục phân trần:
– Thưa âm hồn ngài Lê Kiệt, hãy hiểu cho chúng tôi. Thôi Oanh Oanh do vô tình cũng như mọi người khi vào cung hôi của, nàng đã lấy cái tráp sơn mài của bà Lệ Châu mà không hề biết bên trong có tấm bản đồ kho tàng mà ngài đang cất giấu.
– Vậy tại sao mi biết mà tìm đến?
Hồn ma Lê Kiệt tiếp tục truy vấn họ Hoàng, còn ông lại thành thật đáp:
– Do quan thái giám Trần Thành luôn bỏ công đi truy tầm kho báu của ngài, chính ông ta tìm đến vợ chồng tôi cho biết bí mật về cái tráp của bà Lệ Châu, vì vậy tình cờ tôi mới phát hiện ra tấm bản đồ.
Bóng ma Lê Kiệt vẫn chưa tin, hồn ma cứ thét:
– Ta đã từng thề sẽ giết chết những ai biết đến kho tàng như mười tên ma cà tưng này. Vậy mi cũng đã tới số, hãy về làm ma giữ cửa cho ta!
Nói xong tất cả mười một bóng ma đều vươn hai tay thẳng ra trước, chân nhảy cà tưng tiến sát đến bên viên thái giám. Có bóng ma đã đưa tay ngay vào cổ hay nắm chặt lấy chân tay ông, khiến họ Hoàng phải hốt hoảng thốt lên:
– Đừng giết tôi! Tôi xin đi khỏi nơi đây!
Nhưng những bóng ma vẫn không buông tha, những cánh tay ma cứ siết chặt lấy cổ ông, rồi đột nhiên có một thứ ánh sáng chói lòa như ánh hào quang xuất hiện làm mười một con ma phải rút tay trở lại và lùi xa khỏi viên thái giám.
Hoàng Bảo Trứ chưa hết kinh hoàng, đôi mắt còn mờ mờ ảo ảo do các hồn ma vừa bóp cổ, ông chỉ nghe bóng ma Lê Kiệt nói với bọn ma cà tưng:
– Ngàí Phúc Đức Chánh Thần xuất hiện, đúng tên thái giám này nói thật, hắn chỉ muốn đem số của cải trong kho tàng về xây chùa cất miếu hay giúp đở người nghèo. Bọn ta phải nghe theo lời ngài.
Đến khi đôi mắt họ Hoàng nhìn đã rõ, ông không thấy hình bóng vị Thượng Đẳng Thần Phúc Đức nữa còn bọn ma cà tưng cùng hồn ma quan Tổng binh Lê Kiệt cũng đã biến mất từ bao giờ. Trái lại trước mắt viên thái giám bóng cây sồi đã ngã về Tây. Bóng ngọn cây đang đâm thẳng vào một khe núi đá đang hiện rõ ra sau những bụi cây sầm uất um tùm.
Dù đã trông thấy đường vào kho tàng, nhưng viên thái giám Hoàng Bảo Trứ vẫn còn run sợ trước hình bóng của mười một con ma cà tưng vừa định giết chết ông. Họ Hoàng đâm phân vân không rõ những hình ảnh ma quái và câu nói của hồn ma Lê Kiệt và ngài Phúc Đức Chánh Thần thực hư ra sao ...
Bỗng viên thái giám Hoàng Bảo Trứ nghe văng vẳng bên tai có tiếng người từ trên cao dội xuống:
– Mi cứ can đảm mà vào lấy số của cải cần thiết đem về làm theo tâm nguyện. Bọn ma kia không dám xuất hiện nữa đâu.
Mặc dù không thấy hình bóng ai nhưng họ Hoàng biết ông Bổn Tài Thần vừa lên tiếng, có lẽ vì nhân thần đã độ cho ông hoàn thành tâm nguyện mà trước lúc lên đường ông từng khấn vái cầu xin.
Viên thái giám Hoàng Bảo Trứ bước vào khe núi đá chỉ vừa đủ lọt một người. Lúc này trời đã về chiều nên hang đá rất tối tăm, họ Hoàng phải đốt đuốc lấy ánh sáng mà đi. Ông đi sâu vào bên trong thấy hang đá càng lúc mở rộng ra trước mắt.
Rồi sự sợ hãi lại kéo đến, lâu lâu Hoàng Bảo Trứ thấy một bộ xương người treo lủng lẳng như bị treo cổ, như đe dọa những ai bước chân vào đây. Ông đếm có tất cả mười bộ xương người bị treo cổ như vậy mới đến nơi Lê Kiệt cất giấu của cải.
Kho tàng chỉ có ba cái rương gỗ, một rương chứa vàng nén bạc nén, một rương chứa toàn vật trang sức được chế tác từ ngọc ngà châu báu với kim cương óng ánh qua ánh lửa ngọn đuốc và một rương gồm những cổ vật quý hiếm, đa số thuộc tượng làm bằng đồng đen hoặc vàng ròng bạc trắng nguyên chất.
Lúc này viên thái giám Hoàng Bảo Trứ không nghĩ quan Tổng binh Lê Kiệt lại giàu có đến vậy, số của cải này không phải do mồ hôi nước mắt ông ta tạo ra; đây có lẽ thuộc thứ của cải khi làm quan Lê Kiệt đi đến đâu trộm cắp hay cướp bóc đến đó, tích lũy lâu năm giờ phải cất giấu của phi nghĩa này.
Như tâm nguyện, viên thái giám họ Hoàng chỉ lấy một ít của cải trong kho tàng. Trước khi từ giã kho báu đầy những hồn ma. Hoàng Bảo Trứ liền đốt luôn tấm bản đồ rồi van vái:
– Tôi xin khấu đầu lạy các cô hồn uổng tử. Tôi xin đốt tấm bản đồ này và có tâm nguyện, nếu ai có duyên may, có tâm đức tốt đẹp thì trời đất sẽ dẫn đường đưa lối còn bằng không như các người đã có lời nguyền, sẽ giết những ai đụng đến kho tàng cho làm ma giữ của.
Từ đừ viên thái giám Hoàng Bảo Trứ cùng vợ - bà giám hậu Thôi Oanh Oanh đi khắp nơi, lúc dừng chân xây chùa cất miếu hoặc gặp đền chùa miếu mạo nghèo nàn vào cúng dường làm phước. Đặc biệt mỗi khi Hoàng Bảo Trứ xây dựng đền miếu, ông chỉ thờ có một vị chánh thần Châu Đạt Quan tức ông Bổn, hay còn gọi Tài Thần, là vị nhân thần được các hoàng đế từ đời nhà Nguyên, Minh đến nhà Thanh phong sắc Phúc Đức Chánh Thần.
ĐỨA CON NUÔI BẤT NGHĨA Vài năm sau bọn đầu gấu của Trần Thành mới phát hiện ra vợ chồng viên thái giám Hoàng Bảo Trứ.
Bọn chúng tình cờ gặp Hoài Tử - đứa con nuôi của ông. Vợ chồng Hoàng Bảo Trứ xin Hoài Tử về nuôi khi chỉ mới chập chững biết đi để lo việc hương khói sau này, bởi ông chỉ là một thái giám đã bị tịnh thân.
Lúc đó vợ chồng họ Hoàng thấy một bà mẹ dẫn đứa con mồ côi cha đem ra chợ bán, mà thời loạn ly con mất cha vợ mất chồng sinh cảnh đói nghèo, chuyện bán con đi ở đợ thường xảy ra giữa chợ.
Hoàng Bảo Trứ thấy đứa nhỏ khôi ngô và với tuổi mới chập chững biết đi chưa biết gì sẽ dễ dạy dỗ, nên vợ chồng ông trả cho bà mẹ một số tiền rồi đem Hoài Tử về nuôi đến khôn lớn, đã hơn mười sáu năm.
Bà Thôi Oanh Oanh thuộc phụ nữ lấy câu tam tòng tứ đức làm đầu, những gì chồng muốn bà đều nghe, nên rất thương yêu nuông chiều đứa con nuôi. Khi đến khu rừng gần trang trại cũ cả hai xây lên ngôi miếu. Viên thái giám không thấy Trần Thành theo dõi nữa nên ông tưởng được yên thân, vì thế lúc Hoài Tử vừa tròn mười tám, họ Hoàng muốn tìm vợ cho con do vợ chồng ông mong có đứa cháu bế bồng để vui hưởng tuổi già.
Nhưng nơi miếu ẩn khuất này đâu có nhiều bá tánh đến dâng hương, vợ chồng ông khó có thể tìm được một người con gái xứng đôi vừa lứa với Hoài Tử để hỏi cưới.
Bà Thôi Oanh Oanh mới nói với con:
– Chốn khỉ ho cò gáy này đâu có xóm làng đông đúc mà ba má tìm vợ cho con. Vậy con hãy ra nơi bãi vàng Phước Sơn sống ở đó một thời gian, cố tìm một người ưng ý rồi ba má đến hỏi cưới đưa về cho con.
Hoài Tử tỏ ra ngoan ngoãn nghe lời, anh khăn gói ra bãi vàng theo lời cha mẹ nuôi. Ở đờì có câu trời sinh tánh đâu sinh nết, Hoài Tử vốn thất học từ nhỏ nên anh luôn nghĩ cha mẹ là người giàu có, bởi ông bà đi đâu cũng cất chùa xây miếu hoặc giúp đỡ mọi người.
Ra đến bãi vàng, Hoài Tử thấy mọi thứ đều khác biệt với cuộc sống trong ngôi miếu nơi hàng ngày chỉ có ba người. Nơi đây lại đông đảo đủ mọi hạng người, và ai có tiền đều được người người tâng bốc, dù nhỏ tuổi nhưng ai cũng kính nể gọi bằng “cậu hai”.
Bà Thôi Oanh Oanh thường chu cấp tiền đầy đủ làm Hoài Tử càng sinh hư, anh bắt đầu có tư tưởng trở thành công tử con nhà nhà giàu. Hàng ngày Hoài Tử ngồi trong quán ăn uống nhậu nhẹt với bọn người tìm vàng và huênh hoang nói với mọi người:
– Cha ta là Hoàng Bảo Trứ - người giàu có nhất vùng này, ai nghèo khổ cứ đến ngôi miếu trong rừng sẽ được ông giúp đỡ. Còn ta đến đây xem có cô gái nào ưng ý là hỏi cưới về làm vợ ngay.
Không ngờ câu nói của Hoài Từ được bọn đầu gấu của Trần Thành nghe được, chúng liền về báo:
– Thưa chủ nhân, ở ngoài bãi vàng có thằng nhóc tự xưng con Hoàng Bảo Trứ, người chúng ta đi tìm từ mấy năm nay.
Trần Thành biết vợ chồng Hoàng Bảo Trứ có xin đứa con nuôi ngày còn ở Đài Bắc, và hắn còn nghe tên thủ hạ nói thêm:
– Thằng nhóc nói họ Hoàng bây giờ giàu có lắm, cất mấy ngôi đền miếu cho bá tánh có chỗ cúng bái, còn bỏ tiền ra giúp đỡ người nghèo. Riêng nó được vợ chồng Hoàng Bảo Trứ cho ra bãi vàng tìm vợ để cướí.
Trần Thành thuộc hạng người mưu sĩ, sau khi nghe xong muốn dùng kế “nội công, ngoại kích”. Hắn ta hiểu họ Hoàng không dễ đưa ra tấm bản đồ kho tàng một khi đang làm chủ.
Cho nên một hôm ...
Hoài Tử đang ngồi trong quán nước bỗng thấy một cô gái đẹp như hằng nga giáng trần, đang bước đến bên anh. Xưa nay Hoài Từ không gặp được nhiều cô gái trẻ đẹp, còn bây giờ cứ ngẩn ngơ nhìn không hiểu người con gái này từ đâu đến. Vì ở khu bãi vàng đa số đàn bà con gái đều lam lũ, còn cô ta có nét đẹp duyên dáng đài các và không phải người trong vùng.
Nhìn hình dáng cô gái có làn da trắng muốt, thướt tha trong bộ quần áo bó sát lấy thân, mái tóc lại đen nhánh không hề bị cháy nắng dầm sương, được uốn quăn không để búi tóc ở sau đầu như các cô gái khác. Chính vì thế khuôn mặt của cô gái càng thêm nổi bật với hai hàng mi mỏng như lá liễu chạy dài trên đôi mắt đen, trên mí mắt còn được tô thêm thứ màu hồng nhàn nhạt mang đầy sức gợi cảm.
Cô gái cứ nhìn Hoài Tử không chớp. Bởi vậy anh phải lên tiếng hỏi:
– Cô là ai? Tôi nào quen biết cô đâu sao cô lại nhìn tôi như vậy?
Bấy giờ cô gái mới tỏ ra thẹn thùng lại tình tứ trả lời câu hỏi của anh:
– Em tên Ý Nhi con gái Trần Công sống ngoài thị trấn, nghe nói anh không phải bọn người đi tìm vàng mà đến đây tìm người về nâng khăn sửa túi. Còn em đã đến tuổi cập kê, ơ nơi rừng rú này không ai xứng để gửi tấm thân nên em muốn gặp anh để tìm hiểu, sau nếu được anh để mắt thì xin được về hầu hạ.
Nghe Ý Nhi nói muốn gặp anh để biết thực hư chuyện tìm người con gái để cưới làm vợ, nàng còn xin được về làm vợ anh làm Hoài Tử cảm thấy vui mừng và lòng cứ lâng lâng dạt dào vì có người con gái đẹp để mắt đến. Nhưng Hoài Tử cũng tỏ ra ngạc nhiên, anh mới lên tiếng hỏi:
– Ý Nhi muốn làm vợ anh sao?
Ý Nhi vẫn tình tứ trả lời trong giọng lẳng lơ:
– Mới gặp anh mà em thấy như ông tơ bà nguyệt đã xe duyên cho hai đứa mình. Nhưng ...
– Nhưng sao em? - Hoài Tử nôn nao hỏi lại.
– Áo mặc đâu qua khỏi đầu. Con cái đâu dám vượt qua vòng lễ giáo, nếu anh thương thì hãy cùng em về nhà ra mắt ba em rồi sau đó đưa ba má anh qua hỏi cưới em ... mình mới thành vợ thành chồng được.
Giọng của Ý Nhi đầy vẻ mơn trớn nũng nịu, còn thân hình nàng càng cọ sát vào người Hoài Tử, như muốn cho anh ngửi thấy mùi hương từ da thịt nàng đang toát ra cùng nhịp đập trái tim đang dồn dập trong thân thể.
Hoài Tử xưa nay vốn chỉ ở trong nhà với cha mẹ, anh chưa từng có dịp tiếp xúc với nữ giới nhiều và càng chưa được người con gái nào cọ xát da thịt vào người như thế. Hoài Từ như người mất hồn bị thôi miên, từ ánh mắt, lời nói và cử chỉ của nàng. Hoài Tử vội vàng đáp lời ngay:
– Mới gặp mà anh đã thấy thương em, vậy anh về nhà ra mắt ba em ngay nhé.
Ý Nhi càng thêm lẳng lơ, nàng nũng nịu đáp:
– Chứ để anh ở đây lỡ có cô nào cướp mất, thì em lâm bệnh tương tư mà chết đó!
Nói xong Ý Nhi đưa Hoài Từ đi về thị trấn, đến một ngôi nhà rộng lớn. Nơi đây là nhà Trần Thành mà Ý Nhi nói nhà Trần Công ba nàng. Riêng Trần Thành từ khi bọn đầu gấu của ông ta về báo có tung tích về vợ chồng viên thái giám Hoàng Bảo Trứ, ông ta muốn dùng kế, trước mắt dùng Hoài Tử làm nội ứng trong nhà viên thái giám, sau nếu có đi đến kho tàng Lê Ktệt đầy những hồn ma như lời ông già hành khất Vĩnh Kim kể Trần Thành mới sai người hỏa tốc về ngay quê hương đến dãy Bắc nhạc Hằng Sơn (một trong năm ngọn núi thuộc “Ngũ Nhạc Trung Sơn” gồm Trung nhạc Trung Sơn, Đông nhạc Thái Sơn, Tây nhạc Hoa Sơn, Nam nhạc Hoành Sơn và Bắc nhạc Hằng Sơn).
Núi Hằng Sơn nằm phía Bắc, từ đời nhà Minh thường là nơi trú ẩn của các đạo sĩ tu thuật bùa chú. Bọn đầu gấu rước về cho Trần Thành một vị pháp sư nổi tiếng nhất núi Hằng Sơn, ông này từng sống với Trần Thành khi còn bên Trung Hoa, nên sau khi nghe Trần Công Công cho mời là đi. Pháp sư tên Mã Dần tinh thông nhiều pháp thuật, biết bắt ma trừ quỷ, sai âm binh đánh âm binh, biết dùng bùa ngải, thôi miên để phục vụ mọi ý đồ cho các thân chủ.
Khi đến nhà Trần Thành, pháp sư Mã Dần được nghe Trần Công Công nói ra ý định đi tìm kho báu của quan Tổng binh Lê Klệt cất giấu, nhưng người có tấm bản đồ lại do viên thái giám Hoàng Bảo Trứ giữ trong tay. Trần Thành bấy giờ mới nói tiếp:
– Rất khó bắt tên họ Hoàng đưa tấm bản đồ kho báu, ta nghe nói hắn thờ ngài Phúc Đức Chánh Thần nên được các thần linh che chở nên khó xâm hại lắm.
Nay vừa biết vợ chồng hắn muốn cưới vợ cho đứa con nuôi, nhân cơ hội này ta muốn dùng mỹ nhân kế bắt tên Hoài Tử về nhà làm nội ứng.
Nghe xong lão pháp sư Mã Dần liền cười lên khanh khách, nói ngay với Trần Thành:
– Tưởng ông mướn nhờ ta chuyện lớn lao mới cho người cất công về núi Hằng Sơn đón ta về tận đây.
Rồi lão Mã Dần mới hăng giọng nói tiếp:
– Ta sẽ sai hồn con hồ ly tên Ý Nhi, trước lúc con ma nữ này chết nó đã có nhiều năm ở chốn lầu xanh, kình nghiệm mồi chài khách làng chơi không ai sánh kịp. Ta cho con ma nữ nhập hồn mượn xác một con nữ trẻ đẹp nào đó ra tay giúp Công Công toại nguyện.
Trần Thành liền nói thêm:
– Ta biết pháp sư cao tay ấn, nên ngoài việc dùng mỹ nhân kế còn muốn ông cùng ta đi đến kho tàng quan Tổng binh Lê Kiệt cất giấu số của cải to lớn. Ở đó nghe nói có rất nhiều hồn ma hung dữ canh giữ không cho ai đụng đến. Nếu người đấu với người, ta không hề lo sợ nhưng người đấu với ma, tức ma trong tối còn người ngoài sáng e rằng sẽ bất lợi mà gặp tổn thất cả người và của, cuối cùng chẳng thành công.
Lão pháp sư Mã Dần lại gật đầu trả lời:
– Trần Công Công tìm ta là đúng đối tượng rồi, ta sẽ tiêu diệt hết lũ ma xó ma trành đó để cùng chia nhau số của cải này, được không?
Thật đúng con người ai cũng có lòng tham, đến lão pháp sư già không có gia đình con cái, ngày đêm ở nơi thâm sơn cùng cốc chỉ biết luyện bùa nuôi ngải không mua sắm vật chất để hưởng thụ cũng vẫn tham lam, muốn có thật nhiều tiền. Không biết khi chết ông ta có đem theo xuống cõi âm ty được không mà vừa mở miệng đã đòi chia chác của cải trong kho tàng.
Tuy vậy Trần Thành không cảm thấy lo lắng với lời đề nghị của lão Mă Dần, bài học giết người diệt khẩu hay tranh đoạt gia tài luôn hiện ra trong đầu quan thái giám Trần Thành. Để công việc đạt đến thành công, Trần Thành liền giả vờ nói với lão ta:
– Tưởng gì, ta với ông có khó cùng chịu có của cùng chia. Bây giờ pháp sư lo vụ thằng Hoài Từ con nuôi tên Hoàng Bảo Trứ trước đi, lúc đó ta mới có tấm bản đồ kho tàng trong tay.
Sau đó bọn đầu gấu của Trần Thành ra tận thị xã Tourane đưa về một cô gái, không ai ngờ cô ta thật trẻ đẹp, tuổi chỉ mới mười sáu mười bảy mà đã làm gái ăn sương phục vụ bọn lính viễn chinh Pháp.
Không chậm trễ, ngay trong ngày lão pháp sư Mã Dần đưa cô gái ra ngồi trước mặt, bắt đầu dùng thuật thôi miên hớp hết thần hồn thần trí cô ta. Thấy cô gái đã như người mất trí, mắt cứ mơ màng, lão Mã Dần lại đốt thêm một đạo bùa cho cô gái uống rồi mới tiếp tục làm phép:
– Bớ ba hồn chín vía con ma nữ Ý Nhi hãy mau về đây cho ta sai khiến.
Sau câu thét gọi của lão Mã Dần, từ nơi hương án đã có giọng một hồn ma nữ vang vọng đến:
– Nghe sư phụ gọi tôi đã đến, xin người chỉ dạy.
Lão pháp sư Mã Dần mới chỉ tay vào cô gái đang ngồi mất thần hồn trước lão ta, đoạn nói:
– Ta muốn mi vào mượn xác con nữ này đi mồi chài thằng nam tên Hoài Tử ngoài bãi vàng Phườc Sơn, đưa về cho ta và Trần Công Công sai khiến!
Nghe lão pháp sư Mã Dần truyền lệnh, ngay lúc đó từ nơi bàn hương án đã có một làn khói trắng bốc lên rồi từ từ hiện ra bóng một ma nữ có sắc đẹp kiêu kỳ gợi cảm trước mắt bọn đàn ông háo sắc. Thận xác người hồn ma rất hợp người hợp nết, cả hai đều trẻ đẹp và đều xuất thân từ chốn lầu xanh. Sau đó bóng ma tiếp tục hòa quyện vào người cô gái.
Chỉ một thoáng, cô gái đã rùng mình ngáp liền mấy cái tỏ ra vừa trải qua một giấc ngủỉ say. Đoạn cô ta nhìn lão pháp sư nói:
– Đệ tử Ý Nhi xin chờ sư phụ dạy bảo.
Lão Mã Dần mới ôn tồn truyền lệnh:.
– Vậy bây giờ mi hãy ra bãi vàng Phước Sơn đưa tên Hoài Tử về đây cho ta.
Hồn ma Ý Nhi qua xác cô gái lẳng lơ đáp:
– Sư phụ biết kinh nghiệm của Ý Nhi mà, ngày còn sống trên cõi hồng trần đã bao năm làm ở chốn lầu xanh, đệ tử từng làm cho bao người từ phú gia cho đến giới giang hồ phải đêm ngày tương tư nhung nhớ, phải quỳ dưới chân đệ tử xin ban cho chút tình cảm nồng nàn. Với tên nam Hoài Từ mới chân ướt chân ráo vào đời, nhiệm vụ này xem ra dễ như trở bàn tay, chỉ nội trong ngày đệ tử sẽ đưa hắn về đây.
Khi Hoài Từ được Ý Nhi dẫn đến nhà Trần Thành, anh đang như người mất hồn, chỉ thấy mỗi lúc nàng càng thêm xinh đẹp, mà trong nhà không thấy bóng dáng một ai lui tới ra vào.
Hoài Tử lên tiếng hỏi:
– Cha mẹ em đâu sao không thấy cho anh ra mắt?
Nghe hỏi, bấy giờ Ý Nhi mới nũng nịu đáp:
– Má em mất từ khi em mới chào đời nên chỉ còn ba trong nhà, hiện giờ người đi vắng. Anh ngồi đây cùng em uống ly rượu chờ lúc ba trở về.
Nói xong Ý Nhi đến bên bàn rót rượu, rồi lén lôi trong tay áo lấy ra gói bột âm thầm đổ vào ly. Khi pha xong rượu, nàng mới đi đến bên Hoài Tử, thân hình tựa vào anh đoạn gieo mắt cườí tình rồi lên tiếng nói tiếp:
– Anh hãy cùng em uống ly rượu này, rồi em sẽ kể cuộc đời em cho anh nghe.
Hoài Tử đâu ngờ trong rượu có bùa mê, nhưng qua nhan sắc người đẹp với giọng nói nũng nịu ngọt ngào cùng những cái liếc mắt đưa tình và thân thể nàng cứ cọ sát vào người khiến Hoài Tử sống trong cơn mê. Anh vội vàng cầm lấy ly rượu mà uống cạn để làm vừa lòng người con gái đẹp.
Nhìn thấy Hoài Tử uống xong ly rượu, ngay tức khắc Ý Nhi dìu anh vào phòng. Nàng liền xà ngay người vào lòng anh đoạn lẳng lơ nói:
– Từ khi em mất má chỉ ở với ba, hàng ngày em cảm thấy thiếu tình thương gia đình, tâm trạng cứ giày vò nên ba em mới nói em đã đến tuổi cập kê nên cần có một tấm chồng cho lòng đỡ trống trải quạnh hiu. Vì vậy khi mới gặp anh là em thấy trong lòng rạo rực bừng cháy thứ cảm giác lạ kì. Bây giờ chỉ có hai ta, em muốn xin anh cho biết chuyện yêu đương là như thế nào.
Vừa nói Ý Nhi vừa lấy tay mơn trớn ve vuốt lên người Hoài Tử, còn đôi mắt nàng cứ nhìn anh đắm đuối. Hoài Tử chỉ là một chàng trai trẻ mới lớn, vừa tròn mười tám hãy còn xử nam, anh nào đã biết đến chuyện yêu đương như thế nào.
Bởỉ vậy dù đang say mê trước nhan sắc của Ý Nhi, nhưng Hoài Tử cũng chưa dám ôm lấy nàng hay đưa tay ra ve vuốt lên người nàng như nàng đang âu yếm với anh.
Hoài Tử mới ấp úng đáp:
– Trước nay anh chưa từng chung đụng với nữ giới vì anh còn xử nam. Em nói anh dạy chuyện yêu đương, anh như người thất học rồi.
Lúc này có lẽ bùa mê thuốc lú đã ngấm sâu vào trong máu, Hoài Tử càng thấy Ý Nhi ve vuốt lên người làm tâm can anh trở nên rạo rực chỉ muốn sự ngả ngớn của nàng càng thêm mạnh bạo. Còn Ý Nhi nghe Hoài Tử nói mới mỉm cười đáp:
– Vậy hai đứa mình đều chung cảnh ngộ, anh xử nam còn em xử nữ đã biết yêu đâu. Thôi ta hãy thử bài học vở lòng về yêu đương đi.
Hoài Tử càng thêm say đắm trước hương vị tình yêu, anh nói:
– Em nói đúng, từ khi anh lớn lên cho đến nay chưa hề biết yêu đương, chưa nắm tay một người con gái nào. Bây giờ ôm ấp em mới thấy muốn làm người lớn cần phải học đến chữ yêu.
Nói xong Hoài Tử liền kề môi hôn lên trán Ý Nhi một cái, khiến nàng giãy nãy nói:
– Khi người ta yêu nhau, hôn nhau không phải như anh, hãy xem em hôn anh đây này!
Nói xong Ý Nhi liền kéo Hoài Tử vào sát người nàng, đoạn nhẹ nhàng đặt nụ hôn vào môi anh. Lần đầu tiên Hoài Tử mới được hôn môi, thấy cảm xúc trong người rạo rực nên cứ để yên như thế, bắt đầu bài học vỡ lòng về cách yêu đương mà Ý Nhi đang dạy. Cả hai không dừng ở đó, con hồ ly Ý Nhi đã hút mất hồn Hoài Tử từ lâu, nó cứ đưa anh đi vào mộng này đến mộng khác. Đến khi cả hai nghe được tiếng thét từ ngoài cửa phòng vang lên:
– Thằng nào đây, sao mi hại đời con gái ta?
Với ma nữ, nó hiểu màn kịch vừa đóng đã tròn vai, còn Hoài Tử lại chết điếng người khi nhìn thấy hai người còn đang lõa lồ nằm bên nhau. Trong khi Ý Nhi vừa lấy quần áo để che thân, con ma nữ bắt đầu rấm rứt lên giọng nức nở:
– Anh lấy mất đời con gái em rồi, anh Hoài Tử ơi!
Còn Hoài Tử cứ nhìn người đàn ông đang đứng trước cửa phòng, ông ta có tuổi đã trên sáu mươi, đôi lông mày mọc ngược trên đôi mắt xếch, còn tiếng nói ồ ồ như giọng đàn bà. Hoài Tử nghĩ ngay đó là Trần Công ba của Ý Nhi nên nói không ra lời.
Trần Công - tức Trần Thành - lại chỉ vào Hoài Tử, ông ta tiếp tục lên tiếng thét hỏi con ma nữ Ý Nhi:
– Ba hỏi thằng này là ai? Sao nó dám đến đây ôm ấp hại đời con gái của ba?
Ý Nhi vẫn thút thít khóc, con ma nữ đáp:
– Con đâu ngờ anh Hoài Tử lại bại hoại như vậy! Ở ngoài bãi vàng anh ấy nói muốn về ra mắt ba để còn đưa ba má đến hỏi cưới con. Rồi anh ấy ôm hôn, con mới lớn đang tuổi dậy thì làm sao chịu nổi sự háo sắc dâm đãng của người con trai khôi ngô như anh ấy, và lần đầu tiên trong đời con mới biết hương vị ái tình nên sa ngả trong vòng tay anh ấy như ba thấy đó.
Bấy giờ Trần Thành mới nhẹ nhàng đổi giọng:
– Thì ra thằng này là con ông bà Hoàng Bảo Trứ. Nghe nói muốn ra bãi vàng Phước Sơn tìm vợ đây mà.
Nói đến đây ông ta nhìn Hoài Tử rồi nói tiếp:
– Vậy mi tính sao với con gái ta? Bây giờ mi lấy mất tiết trinh đời nó sau này làm sao nó lấy được ai?
Con hồ ly ma nữ Ý Nhi nói thêm:
– Anh đã lấy đời con gái của em, bây giờ anh phải lo tròn trách nhiệm của một người chồng, nếu không ba em sẽ giết chết hai đứa mình đó.
Hoài Tử ấp úng mãi mới dám lên tiếng:
– Ba má con dặn ra bãi vàng nếu thấy ưng ý cô gái nào sẽ đến hỏi cưới về làm vợ cho con, xin bác Trần Công đừng làm con sợ hãi.
Trần Thành lắc đầu, ông ta đáp ngay:
– Sao tin mi được? Bọn con trai thời nay thường bỏ rơi những đứa con gái nhà lành hiền hậu như con ta. Nhưng ta đã có cách để tin mi không dám trốn tránh trách nhiệm gây ra chuyện bại hoại này ...
Hoài Từ hỏi ngay:
– Bác Trần Công đã có cách để tin con xin cứ thực hiện, còn con đả hứa sẽ lấy Ý Nhi làm vợ nên không sợ đi qua lửa hay ngồi trên đinh đâu!
Trần Thành vẫn con ma nữ Ý Nhi đều biết thứ bùa mê mà Hoài Tử uống, bấy giờ sẽ không còn là Hoài Tử - đứa con nuôi của vợ chồng viên thái giám họ Hoàng nữa. Tuy vậy để gây thêm áp lực vào trí não một người đang bị bùa ngải sai khiến, Trần Thành liền cho gọi lão pháp sư Mã Dần đến nói:
– Ông hãy cho thằng rể tương lai của ta uống thứ thuốc, nếu nó phản bội bỏ rơi con gái ta thì chỉ một ngày sau phải chết bất đắc kỳ tử ta mới yên lòng.
Lão pháp sư Mã Dần xếp đặt ra chuyện này, ông ta nhìn Hoài Tử đoạn móc trong túi lấy ra một viên thuốc màu đen quánh nói:
– Đây là viên thuốc đoạn hồn, nếu tên Hoài Tử không làm theo ý Trần Công, ngài hay cô Ý Nhi cứ niệm câu thần chú sau đây - ông ta nói nhỏ vào tai Trần Thành, sau mới nói tiếp - chỉ trong chốc lát hắn sẽ đau đầu như Tề Thiên Đại Thánh bị vòng kim cô của Phật Bà Quan Âm bóp chặt, nếu không biết sám hối chỉ trong mười hai canh giờ sẽ thành thây ma.
Dù rất mê đắm Ý Nhi, nhưng khi nghe lão pháp sư Mã Dần đưa ra viên thuốc đoạn hồn làm Hoài Tử cảm thấy sợ hãi, anh lấm lét nhìn Trần Thành và Ý Nhi như muốn từ chối nhận viên đoạn hồn đơn.
Biết Hoài Tử còn ngần ngừ, Trần thành lại thét to lên nói:
– Vậy mà mi dám nói vì con gái ta nên không sợ đi qua lửa hay ngồi trên đinh. Nếu mi không uống viên đoạn hồn đơn này ta sẽ giết chết mi để đền cái tội phá hoại tiết trinh đời con gái ta!
Ý Nhi cũng nhìn Hoài Tử, con ma nữ mới lên giọng khuyến khích:
– Anh hãy uống để chứng minh anh yêu em, vì chỉ sau một tháng nó sẽ hết tác dụng, nên anh đừng lo sợ sâu xa.
Nghe nói viên đoạn hồn đơn chỉ có hiệu nghiệm trong một tháng, mà một tháng nào có lâu cho nên Hoài Tử cầm lấy uống ngay trước mắt mọi người.
Đoạn Hoài Tử theo lời hứa hẹn, anh trở về ngôi miếu tìm cha mẹ nói lên ý định muốn cưới Ý Nhi làm vợ.
Bà Thôi Oanh Oanh vui mừng nói với chồng:
– Vậy gia đình ta sắp có cháu để bế bồng! Thằng Hoài Tử đã chọn được vợ, vậy ông mau chóng đến nhà Trần Công dạm hỏi kẻo để lâu “đêm dài lắm mộng”, nơi đâu có con gái đẹp tất có đông người để mắt. Tôi e chúng cướp mất con Ý Nhi của thằng Hoài Tử.
Viên thái giám Hoàng Bảo Trứ đâm suy nghĩ trước cái tên Trần Công, vì họ Trần là cái họ luôn ám ảnh ông đêm ngày, tuy mấy năm nay không thấy Trần Thành xuất hiện. Họ Hoàng đành nói với vợ điều ông đang nghĩ trong đầu:
– Sao tôi nghi ngờ Trần Công là Trần Thành?
Bà Thôi Oanh Oanh liền nguýt chồng, đoạn đáp:
– Ông sao cứ lo sợ hão huyền. Trên đời có biết bao người họ Trần, vả lại Trần Công Công thuộc người bị “tịnh thân” làm sao có con gái để gả cưới?
Nghe vợ phân tích, Hoàng Bảo Trứ thấy có lý lẽ để phản bác sự lo lắng của ông. Lúc đó họ Hoàng mới mạnh dạn cùng Hoài Tử đi đến nhà Trần Công.
Có lẽ họ Hoàng có giác quan thứ sáu, trên đường đi ông đã nghĩ sẽ có chuyện không hay vì mí mắt trái cứ giật liên hồi. Người ta nói nam tả nữ hữu, mắt trái thuộc nam nhân. Đúng như linh tính đã dự báo, khi Hoàng Bảo Trứ vừa gặp Trần Công, ông nhận ra là Trần Thành, người theo đuổi ông từ Đài Bắc sang tận đây bao năm qua chỉ vì kho tàng của Lê Kiệt.
Nhìn lại, viên thái giám họ Hoàng không thấy Hoài Tử, còn Trần Thành đang hằn học lên tiếng:
– Ta tìm mi đã mấy năm không gặp, chắc mi đã biết kho tàng Lê Kiệt hiện đang nằm đâu. Vậy hãy khôn hồn đưa cho ta tấm bản đồ, thì mi và đứa con nuôi sẽ được an toàn về nhà.
Hoàng Bảo Trứ thấy đang thân cô thế cô, ông đang đi vào hang hùm miệng sói, bây giờ Trần Thành hỏi về tấm bản đồ mà ông đã đốt nơi kho tàng trước khi trở về, nên thành thật trả lời:
– Tôi đã đốt nó rồi vì không muốn ai biết đến kho tàng phi nghĩa đó nữa, nếu ai có duyên phận thì trời đất sẽ chỉ lối đưa đường đến lấy.
Trần Thành nghe họ Hoàng nói đã đốt tấm bản đồ bỗng sôi gan tức giận, nhưng với đầu óc mưu sĩ, ông ta đã kịp cười gằn nói:
– Vậy ta có cơ duyên với kho tàng này rồi, vì mi sẽ chỉ lối đưa đường cho ta đến nơi đó!
Viên thái giám họ Hoàng liền lắc đầu đáp:
– Tôi không thể đi theo Trần Công Công, đường rừng xa xôi đầy chướng khí lại nhiều thú dữ, và kho tàng Lê Kiệt lại đầy những hồn ma canh giữ, chúng sẽ giết chết những ai đụng đến. Vì vậy tôi nghĩ không chắc tôi và ông còn sống sót trở về.
Trần Thành liền quắc mắt nói:
– Đừng có xảo ngôn! Mi từng đến đó lấy của cải để đi xây chùa cất miếu giúp đỡ bá tánh, ta có thấy có con ma xó ma trành nào giết chết mi đâu?
Hoàng Bảo Trứ vẫn nói:
– Là vì tôi lấy để làm chuyện công đức từ thiện cho nên được các thần thánh che chở bắt bọn ma giữ của phải nhường bước, còn Trần Công Công đến lấy để hưởng thụ cá nhân sẽ không được ai che chở hết.
Trần Thành lại cười gằn từng tiếng mà nói:
– Ta có lão pháp sư Mã Dần cùng bọn đàn em đi theo, thú dữ xuất hiện thì đã có thịt rừng ăn đường còn chướng khí hay ma cỏ đã có pháp sư Mã Dần ra tay.
Còn nếu mi không đưa đi, thì tên Hoài Từ và cả vợ chồng mi đều phải chết thảm.
Lúc này Hoàng Bảo Trứ mới cảm thấy lo sợ, ông hiểu tính tình của Trần Thành độc ác, khi nói ra sẽ thực hiện không hề tiếc thương. Vợ và đứa con nuôi của ông nào có tội tình gì phải chết?
Vì thế viên thái giám mới nói với Trần Thành:
– Thôi được tôi sẽ dẫn đường đưa Trần Công Công đi đến kho tàng với điều kiện, ông thả thằng Hoài Tử trở về nhà.
Trần Thành lại cười lên khanh khách đáp:
– Ta nhận thằng Hoài Tử làm rể tương lai, nó đã ăn nằm cùng con gái ta nên bây giờ Ý Nhi đâu còn trinh trắng. Thả nó một khi mi đưa ta đến đúng nơi đúng chỗ để trở về.
Hoàng Bảo Trứ không ngờ đứa con nuôi lại làm chuyện bại hoại vượt quá vòng gia phong lễ giáo, bởi ông từng ao ước thằng bé sau này trở thành người hữu dụng thay ông trông coi đền miếu, lo hương khói cho vợ chồng ông sau này quá vãng.
Nay Hoài Tử thành con rể của Trần Thành sẽ nhiễm phải các thói hư tật xấu của ông ta, tức mang tính tham lam, độc ác, nhẫn tâm. Biết như vậy nhưng Hoàng Bảo Trứ đành nín lặng, ông chỉ cầu mong cho Thôi Oanh Oanh và Hoài Tử được bình an vô sự.