THIÊN NHÃN
Tác giả: Nguyễn Trường
Giặt xong bộ quần áo loang lổ máu tươi cho anh Pho, Bình trở lên nhà trên đốt nhang cắm lên bàn thờ ngôi chánh điện. Phía trên cao, thánh tượng Thiên nhãn đang toả ánh hào quang chiếu xuống hạ giới. Ôi sao bàn thờ lại phủ đầy bụi thế này? Bình lấy khăn tay lau sạch các thánh tượng. Hàng trên cao, ở ngôi tam giáo, Phật Thích Ca ngồi giữa Thái Thượng Lão Quân và Khổng Tử. Hàng tam trấn, Lý Thái Bạch ngồi cạnh Quan Âm Bồ Tát và Đức Thánh Quan. Hàng thánh có chúa Giêsu và hàng thần đạo có Khương Tử Nha. Ngồi riêng trên bàn ngoài cùng là Giáo chủ Cao Đài ban chỉnh Nguyễn Ngọc Tương. Ngài ngự trên bệ rồng, một tay để lên mắt làm phép.
Trận bom do không quân Mỹ dội xuống sáng nay phá tan nát một phần phố Huế, làm rung chuyển cả thánh thất Cao Đài nằm ở phố Hoà Mã cách đó chừng năm trăm mét. Vôi vữa vung vãi. Cánh cửa sổ cũng bị bật tung, kính rạn nứt thành hình chân chim. Vừa lau bàn thờ Bình vừa lẩm bẩm: "Khổ! Đến các vị thần thánh cũng không được yên ổn nữa huống chi người".
Nhiều năm về sau, khi thánh thất Cao Đài được xây dựng nguy nga hơn, lầu chuông, lầu trống cao vòi vọi, Bình vẫn không quên trận ném bom xuống phố Huế, bởi từ đây cuộc đời cô đã lật sang trang mới.
Đó là buổi sáng cuối năm 1967, Bình đang lên lớp. Mấy chục cặp mắt non thơ đang nuốt từng lời giảng của cô, chợt còi báo động rú lên thất thanh giục giã mọi người vội vã xuống hầm trú ẩn. Các em học sinh vơ lấy mũ rơm, túi cứu thương, ào ào chạy dọc theo giao thông hào, rẽ vào các khu hầm Cồn Cỏ rải rác quanh trường. Vừa lúc ấy tiếng máy bay gầm rít trên đầu. Tiếng súng phòng không các cỡ của ta hình như ở rất gần, nổ như bắp rang. Tiếng rít xoèn xoẹt của máy bay lao xuống thấp cùng với tiếng bom ầm ầm từng đợt nhức tai, lộng óc đến nghẹt thở, căn hầm của các em rung lên bần bật. Một thoáng lặng im chen ngang đầy chết chóc .
Bình chui ra khỏi hầm, nhìn về hướng nội ô. Phía ấy từng cột khói bốc lên đen đặc bầu trời. Tiếng còi xe cứu thương, tiếng rú của các loại xe hơi đang phóng hết tốc lực chạy vào trung tâm thành phố. Bình thấy lòng bồn chồn thấp thỏm. Cầu mong bom không rơi vào thánh thất của cô. Cầu mong Đức Hoàng Thượng Đế phù hộ cho anh ấy! Anh Pho là người Bến Tre được Giáo chủ Nguyễn Ngọc Tương cử ra mở mang mối đạo Cao Đài ban chỉnh ở đất Bắc. Anh hiểu người miền Bắc, có uy tín với đạo hữu, có khả năng giữ giềng mối của đạo.
Nếu anh có bề gì sẽ tổn thất to lớn cho nền đạo. Hình như giữa anh và cô có sợi dây ràng buộc làm cô luôn nghĩ về anh, một tình cảm, vừa thiêng liêng vừa gần gũi, có lẽ nó có từ ngày cô còn nằm trong bụng mẹ, từ ngày cô trở thành thiếu nữ và từ ngày cô bỗng mơ thấy Thiên nhãn….
Bình vội chạy ra cổng ngẩng lên, hướng về phía thánh thất, cô khấn:
- Lạy chư thần, lạy đức giáo tông! Anh con có việc gì không? Nếu anh con có việc gì chư thần hãy cho con nóng ruột để con biết mà về với anh con. Cô thấy người bình tĩnh trở lại. An tâm, cô nói với chính mình "Chắc anh Pho không sao cả. Mình phải ở lại đây dạy hết mấy tiết học rồi về". Từ ngày trường của cô sơ tán ra ngoại thành, dù phải đi về hơn hai chục cây số cô cũng không bao giờ đi dạy muộn, hoặc bỏ tiết dạy.
Ba giờ chiều Bình mới xong nhiệm vụ. Cô vội nhảy lên xe đạp phóng như bay về nhà. Con đường từ Thanh Trì về nội ô lổn ngổn ổ gà, hố bom. Từng đoàn xe vận tải, xe kéo pháo cài kín lá nguỵ trang ầm ầm chạy ngược chiều. Chuyến tàu liên vận cũng chở toàn đồ quân sự phủ bạt kín mít, lao rầm rầm trên đường ray hướng về phía Nam. Đường phố thưa người. Dân Hà Nội đã sơ tán ra ngoại thành, về nông thôn gần hết. Lẽ ra anh Pho của cô cũng phải đi sơ tán, nhưng anh đang là Uỷ viên Hội đồng nhân dân kiêm Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ quận Hai Bà. Công việc đòi hỏi anh phải bám đường phố. Đến lúc này người tu hành cũng không an tâm ngồi trong thánh thất với các bức tượng. Không khí chiến tranh đã cuốn mọi người vào vòng xoáy của nó.
Một đoạn phố Huế với những ngôi nhà khiêm nhường quen thuộc núp mình dưới bóng cây xanh đã bị bom xới tung lên, chẳng còn hình dạng làm Bình không nhận ra nó nữa. Gạch ngói vung vãi, cây cối cháy sém bật gốc như vừa qua trận bão. Đôi chỗ khói còn nghi ngút, bốc lên mùi khen khét của hơi bom, của da thịt người lẫn quần áo cháy.
Thánh thất của cô vẫn bình yên, trong nắng chiều vàng rơi lung linh trên lầu chuông lầu trống.
Cảnh nhốn nháo trong nhà khách như báo cho Bình biết chuyện chẳng lành. Cô Tú, cô Ngô, cô Tuyết… Những y tá, y sĩ, trong Hội Chữ thập đỏ do anh Pho phụ trách. Mọi hôm họ vẫn lấy thánh thất này làm điểm diễn tập cứu thương. Còn hôm nay, họ đứng đó, nét mặt ai cũng lộ vẻ lo lắng, đau thương. Bình nắm lấy tay Tuyết hỏi dồn dập:
- Có chuyện gì rồi phải không các cô? - tim cô run run.
Tuyết dìu Bình ngồi xuống ghế, rồi nói:
- Anh Pho …. Chết rồi…
- Sao? - Mắt Bình chợt tối sầm.
Giọng Tuyết nấc nghẹn:
- Buổi sáng anh Pho đang họp bên phòng Giáo dục được bà Hảo, Phó chủ tịch mời về họp gấp bên Uỷ ban. Anh Pho đi được chừng năm phút thì báo động. Phòng Giáo dục bị bom dội. Thấy tình hình nguy cấp anh ấy vội quay xe lại lao vào cứu nạn. Nhưng lại một đợt bom nữa… Chính anh Pho đã nhường em xuống hầm gần nhất rồi chạy sang một hầm khác cách đó chừng hai mươi mét. Ngừng tiếng bom, còi báo yên, em chạy đến hầm anh Pho, chỗ ấy đã trở thành cái hố bom sâu hoắm rồi.
- Cô có chắc thế không? - Bình nói như trong mơ.
- Chắc! Chỗ ấy dưới gốc cây sấu, làm sao nhầm được.
- Có thấy xác anh ấy không? - Mặt cô đờ đẫn
- Không, chắc là tan tành từng mảnh rồi.
Bình lắc đầu, giọng cô sắc lạnh như ra lệnh:
- Hãy đi tìm anh ấy mau. Anh ấy không thể chết được.
Chẳng ai bảo ai, mọi người lao ra các ngả.
Bình quay về thánh thất cùng lúc chiếc xe hồng thập tự bám đầy bụi vàng khè đỗ xịch trước cổng. Cánh cửa bật mở và anh Pho nhanh nhẹn bước xuống. Bình chạy ào đến sững sờ. Niềm vui tới bất ngờ làm cô không nói thành lời. Anh Pho không thể chết được. Cô đãâ tin là như thế
Kéo anh vào nhà, ấn anh ngồi xuống ghế, Bình ngắm anh và không khỏi kinh ngạc. Trời ơi, đầu tóc anh đầy bụi, một nửa mái đầu bị cháy sém, còn bộ quần áo trên người loang lổ máu. Bình nghẹn ngào:
- Anh không bị thương chứ?
Anh Pho cười, cái cười đến là hiền hậu:
- Làm sao tôi bị thương được.
Chỉ vào những vết loang lổ trên quần áo và xoè hai bàn tay cũng đen thẫm những máu, anh nói:
- Đó là máu nạn nhân. Hai đứa học sinh của em, cái Hà, cái Thu… - Giọng anh nghẹn lại.
Bình ôm lấy ngực rên rỉ:
- Sao chúng lại đến đó?
- Sáng nay chúng đến coi điểm thi. Tội nghiệp. Sau loạt bom nổ, anh bật nắp hầm chạy lên. Một em bị cụt hai chân, một em bị lòi ruột. Anh vội ẵm các em lên xe cứu thương giục tài xế phóng đi ngay. Nhưng các em bị nặng quá, không cứu được…
-Anh Pho ơi, căn hầm của anh trúng một trái bom, anh có biết không? Nếu anh không lao lên ngay lúc ấy thì… Ôi linh thiêng! Em đã cầu mong Người phù hộ cho anh! Đôi mắt cô chợt sáng lên ẩn chứa một sức mạnh thần bí.
Lau xong các thánh tượng và bàn thờ ngôi chánh điện, Bình thấy chân tay rã rời. Cơn hụt hẫng, làm cô phải ôm lấy ngực. Trái tim cô đã qua những giờ phút quá căng thẳng nên chứng ngoại thu tâm thất lại xuất hiện. Cô nhắm mắt lại, và Thánh tượng Thiên nhãn lại hiện lên. Những ánh hào quang xuyên qua tầng mây chiếu tràn ngập trong tâm tưởng cô. Hình như Bình lạc vào một thế giới vô cùng huyền diệu…
Năm hai mươi tuổi Bình nổi tiếng là cô gái đẹp. Khuôn mặt trái xoan, cái miệng nhỏ, hàm răng trắng đều, đôi mắt tròn, xanh trong như da trời mùa thu, dáng thanh thanh, lại được nước da trắng tươi như bông bưởi, đã từng làm nhiều chàng trai ngơ ngẩn. Nhưng cũng năm đó cô bị một căn bệnh kỳ lạ, chưa một bác sĩ nào chẩn đoán được. Cô đang vui vẻ, nhí nhảnh như một chú chim sâu, bỗng trở nên trầm lặng, ngồi hàng giờ bên bàn, tay lần cuốn kinh không biết nhặt được ở đâu. Và cái bàn thờ do cô dựng nên sơ sài, lon sữa bò cắm mấy cây nhang, nhưng có sự linh thiêng đến đôï không ai dám đến gần, kể cả cha cô. Dưới góc bàn thờ có mảng tường vỡ, mỗi khi cô đốt nhang đọc kinh, hai con bạch xà thò đầu ra, chầu hai bên bàn thờ, cái lưỡi hai nhành cứ đưa qua đưa lại làm mọi người kinh sợ.
Một bữa Bình đang ngồi đọc kinh, chợt quay sang hỏi cha:
- Ai khóc đó bố?
Ông Ngô ngơ ngác, có ai khóc đâu. À, có thể ở bên nhà ông Hàm. Ông ấy ốm cả tháng nay, nghe nói nguy lắm rồi. Nhà ông ấy khá xa, làm sao mà con lại nghe được tiếng khóc? Bán tín bán nghi ông đứng dậy nói với con:
- Có thể vợ con ông Hàm khóc.
Xăng xái ông chạy sang nhà hàng xóm. Bình cũng tất tả chạy theo cha. Ông Hàm nằm trên giường, người chỉ còn da bọc xương, cái miệng vêu ra, chỉ thấy hai hàm răng vàng khè, hai hõm mắt sâu hoáy, chân tay đã bị liệt, da bầm đen, ông đã chết đến cổ rồi. Vợ con ông đang gào khóc. Bình thấy tội quá. Cô thắp ba cây nhang đến giường ông, vừa đọc kinh vừa huơ cây nhang vẽ thành những đường kỳ bí. Cô nhắm mắt lại, Thiên nhãn hiện ra rực rỡ. Cô hướng ánh sáng chiếu vào người bệnh. Ông Hàm dần dần hồi tỉnh.
Mọi người vô cùng kinh ngạc. Ông Ngô nghĩ, có lẽ con mình là người thần thánh nên cho nó đi ở chùa, về với thế giới của các thánh thần. Thánh thần không thể ở chung với người phàm. Ông quyết định đưa Bình vào chùa Quán Sứ, với pháp danh Hiệu Diệu Hoa. Lúc ngồi đồng, cô đội bát nhang nhưng không đảo. Sư thầy nói cô không có căn đi tu vì không chịu trình đồng. Ngồi đồng mà miệng cứ "Ta là con của Đức Hoàng Thượng Đế". Ôi, con của Đức Hoàng Thượng Đế thời quy y sao được. Đạo nào thờ Đức Hoàng Thượng Đế đây?
Đưa con về nhà, đêm ông Ngô mơ thấy một ông già râu tóc bạc phơ, tiên phong đạo cốt. Tiên ông có tiếng rền như sấm:
- Ngô, nghe sắc lệnh của Đức Hoàng Thượng Đế.
Ông Ngô vội quì xuống. Tiên ông rút trong tay áo ra một tấm lụa trắng, ông Ngô vội đỡ lấy, mở ra chỉ thấy dòng chữ "Nhập môn ngày 12 tháng 12".
Bừng tỉnh, ông Ngô thấy hai tay nắm chặt tấm lụa vô hình, trán ông vã mồ hôi, tim vẫn còn hồi hộp.
Chợt nghe tiếng con gái mê sảng ú ớ trong phòng, ông vội chạy sang lay gọi con:
- Bình, Bình, con nằm mơ hả?
Bình tỉnh dậy, cô nắm tay cha:
- Bố ơi, con mơ đến tu ở chùa có cái cổng bằng gỗ sơn màu vàng, lách vô con gặp hai người đàn bà mặc đại tang. Họ đưa con vào chánh điện, vén bức màn lên con thấy các vị Phật giống như trong sách moran đã học. Con sung sướng kêu ầm lên.
Ông Ngô kinh ngạc. Quái lạ! Mình và con cùng mơ về một sự việc giống nhau. Không lẽ thần bí là có thật?
Sáng, Bình dậy thật sớm, soi gương, chải tóc, mặc chỉnh tề, đến trước cha:
- Hôm nay ngày 12 tháng 12, ngày con làm lễ nhập môn.
Nhớ đến giấc mơ đêm qua, ông Ngô sởn gai ốc.
Bình đi như có ma dẫn. Cô đến phố Hoà Mã và đứng trước một thánh thất. Ông Ngô lại càng bàng hoàng hơn khi mọi việc diễn ra y như con gái đã mô tả. Cũng hai người đàn bà mặc đồ trắng đưa cô vào ngôi chánh điện, vén bức màn màu xanh lên, trời ơi, các thánh tượng của tam giáo, tam trấn, và ngũ chi hệt trong giấc mơ đêm qua! Mùi hương thoang thoảng quen quen, hình như Bình đã hít thở nó từ lâu lắm rồi. Cô quỳ xuống đọc một đoạn kinh tứ thời. Sau này cô mới biết cuốn kinh đó là của đạo Cao Đài soạn ra. Còn thánh tượng Thiên nhãn, cô không phải nhắm mắt lại cũng nhìn thấy, nó được vẽ trong một bức tranh khổ rộng, con mắt đang toả ánh hào quang, xuyên qua các tầng mây, rọi xuống thế gian.
Bình bỗng thấy người bồng bềnh như đang trôi trong không gian thuở hồng hoang, không hề có tốt xấu, thiện ác chỉ có sự huyền diệu của vũ trụ.
Từ ngày nhập môn, với khả năng kỳ diệu của mình, Bình đã phủ lên thánh thất Cao Đài ở Hà Nội ánh sáng ngũ sắc của sự linh thiêng. Người tu theo đạo Cao Đài càng nhiều. Đạo bao giờ cũng lấy sự linh thiêng làm căn bản. Nhưng nếu chỉ dựa vào điều đó hẳn khó tồn tại với đời. Việc anh Pho của cô lao vào cuộc chiến tranh đã làm cân bằng lại giữa chuyện đời và chuyện đạo. Một nền đạo do người Việt mới lập ra tận Tây Ninh, muốn tồn tại được ngoài Hà Nội phải có điều kiện của nó. Anh Pho của cô đã biết nhập cuộc và được chấp nhận. Bình chưa hiểu hết những sâu xa trong công việc của anh. Cô cho rằng anh đã dấn quá sâu vào công việc của đời, không khéo sẽ lơ là công việc của đạo. Nhưng đâu là đời, đâu là đạo, bản thân cô cũng không phân được ranh giới rõ ràng.
Bình nhẹ nhàng bước sang phòng ngủ của anh Pho. Từ mấy chục năm nay anh cô vẫn ngủ dưới đất trong diện tích hai mét vuông dưới lầu chuông. Cô ngắm anh ngủ thản nhiên không chăn không gối. Cơn gió đông lạnh buốt ào qua. Trong chiếc áo bông dày đến ba tấc cô vẫn không khỏi rùng mình. Anh vẫn nằm đó như đông cứng, phi phàm. Tấm thân cường tráng với nhịp thở đều đều. Cô quì dưới chân anh, ngắm nhìn gương mặt thanh tao cương nghị của anh. Đôi mắt kia từng nhìn cô hiền từ che chở. Đôi bàn tay to kệch kia đã từng run run bưng bát cháo chăm sóc cô lúc trái gió trở trời. Và trong lồng ngực kia, một trái tim nhân hậu đang đập hết mình vì đạo vì đời. Cô không ngưỡng mộ, không lo lắng che chở cho anh sao được. Đêm nay trời lạnh, cái lạnh cắt da cắt thịt của xứ Bắc, mặc áo bông đắp chăn mà cô vẫn không sao ngủ được. Còn anh! Trần trụi giữa đất trời. Phải chăng anh là thần thánh? Cô bỗng lùi xa. Phút chốc cô thấy anh như hiện thân của Đức Hoàng Thượng Đế, ngài cao vời vợi linh thiêng. Cô bàng hoàng đứng dậy. Lại một cơn gió se buốt nữa. Thần rét tinh nghịch không biết bằng cách nào đã chui vào trái tim cô, khiến nó cũng như đông cứng lại. Phải chăng cô cũng là một kẻ siêu phàm? Cô không thấy lạnh nữa. Nhưng kìa, trước mắt cô rõ ràng anh đang co người lại, hai tay ôm ngực như một đứa trẻ, anh rùng mình. Không, Đức Hoàng Thượng Đế, cô chưa từng thấy ngài rùng mình bao giờ. Ngài luôn uy nghiêm đường bệ, còn anh, anh vẫn là một con người bằng xương bằng thịt. Anh đang chống chọi với cái rét. Trái tim cô chợt tan ra. Dòng máu nóng hổi tràn lan khắp cơ thể. Cô nhắm mắt lại, cố làm cho con tim bớt thổn thức và cô nhận ra ánh sáng, phải rồi ánh sáng huyền diệu lấp lánh phủ lên người cô, chạy miên man trong da thịt cô. Cô như lạc vào một miền xa xưa, quên đi tất cả những yêu thương, những ưu phiền, buồn giận. Aùnh sáng, phải chăng ngươi đã đưa ta đến cõi vô thường của vũ trụ? Ta có còn là ta nữa không với trái tim non trẻ đang đập những nhịp đập rộn ràng? Ôi, nếu thế ta sẽ không có một giây phút nào sống được cho riêng ta, cho tự do của ta, nơi cái thường hữu vẫy gọi ta. Khi mà tâm tính lặng là ta đã về với bản thể của vũ trụ, nơi cái sinh ra được cái sinh ra của vạn vật… Lạy chư thần! Người hãy cho con được là Người trước đã.
Bất giác cô cởi chiếc áo bông tiến về phía anh, đắp nó lên người anh như người mẹ phủ chiếc tã bông lên đứa con sơ sinh bé bỏng của mình, chiếc áo mang hơi ấm của một con người. Trái tim cô nóng rực. Cô nhắm mắt lại….
Tháng 5 năm 1996