- 4 -
Tác giả: Rudyard Kipling
Hỡi hoa cỏ, hỡi dây rừng
Hãy che hãy phủ cho lòng quên đi
Giữ hình giữ tiếng làm chi
Một dòng giống đã ngày suy tháng tàn
Tro bay, nhà đổ tan hoang
Chân mưa trắng xoá nhảy tràn sân chơi
Nai về đẻ giữa luống khoai
Lặng im không một bóng người lại qua.
Chắc các bạn còn nhớ, Mowgli, sau khi đóng tấm da Shere Khan lên Phiến Đá Hội Đồng, đã tuyên bố với lũ sói trong bầy Seeonee đứng gần chú rằng, kể từ nay chú sẽ đi săn một mình trong Rừng, và bốn đứa con của Sói Mẹ và Sói Bố nói rằng chúng sẽ đi săn cùng với chú. Nhưng đâu phải dễ mà ngày một ngày hai thay đổi nếp sống, nhất là trong Rừng. Việc đầu tiên của Mowgli, khi các thành viên của Bầy Sói đã tan tác tản đi, là tìm về hang nhà, ngủ suốt một ngày một đêm. Rồi chú bắt đầu kể cho Sói Mẹ và Sói Bố nghe tất cả những gì chú hiểu được về cuộc phiêu lưu của mình giữa Loài Người. Và, khi chú cho con dao của chú nô rỡn trong nắng sớm – chính con dao đã được dùng để lột da Shere Khan – thì họ công nhận rằng chú đã học được một điều gì đó. Lúc đó Akela và Xám Anh mới nói rõ phần đóng góp của hai người trong việc lùa đàn trâu vào khe; và Baloo ì ạch lên đồi để nghe cho hết câu chuyện và Bagheera khoái trá gãi từ chân lên đến đầu khi biết Mowgli đã bày binh bố trận như thế nào.
Mặt trời đã lên cao trên bầu trời mà không ai nghĩ đến chuyện đi ngủ. Lâu lâu Sói Mẹ lại hếch mũi hít vào một hơi với vẻ thoả mãn, khi gió đưa đến chỗ nó mùi da hổ căng trên Phiến Đá Hội Đồng.
- Không có Akela và Xám Anh đây – Mowgli nói để kết thúc câu chuyện – thì con không thể làm gì được. Ôi! Mẹ, mẹ! Nếu mẹ thấy được những con trâu mộng da đen bóng lao xuống khe hay chen chúc giữa những rào chắn khi Bầy Người ném đá vào con!
- Về cái chuyện ném đá, cũng may là khuất mắt ta – Sói Mẹ nói một cách nghiêm nghị - Ta đây, ta không quen cho phép người ta săn đuổi các con ta như săn đuổi loài chó rừng. Bầy Người sẽ phải trả ta món nợ ấy. Nhưng ta sẽ chừa ra người đàn bà đã cho con uống sữa. Phải, ta sẽ chỉ chừa có mình bà ta.
- Yên nào, yên nào, Raksha! – Sói Bố nói một cách lười nhác – Con Ếch của chúng ta đã trở về, khôn ngoan đến nỗi chính bố nó cũng phải liếm chân nó. Với lại, thêm hay bớt một vết xước trên đầu thì có đáng gì cơ chứ? Hãy để cho Giống Người được yên.
Baloo và Bagheera nói theo:
- Hãy để cho Giống Người được yên!
Mowgli tựa đầu trên vai Sói Mẹ, mỉm cười sung sướng nói rằng về phần chú, chú cầu mong chẳng bao giờ còn trông thấy, nghe thấy hay ngửi thấy Giống Người nữa.
- Nhưng chú sẽ làm gì – Akela vừa hỏi vừa giỏng một tai – chú sẽ làm gì nếu như bản thân chú lại không được người ta để yên, chú em?
- Chúng ta có năm – Xám Anh vừa trả lời vừa đưa mắt một vòng nhìn những kẻ ngồi đó. Và hai hàm nó kêu đánh cốp khi vừa dứt tiếng cuối cùng.
- Cả chúng ta cũng có thể tham dự cuộc săn này – Bagheera nói với một tiếng quất đuôi khe khẽ, vừa nói nó vừa nhìn Baloo – Nhưng tại sao lại nghĩ đến Giống Người lúc này, Akela?
- Thế này – Sói Độc trả lời – Khi tấm da của thằng kẻ trộm lông vàng nọ đã căng trên Phiến Đá, ta quay lại đi ngược dấu chân của chúng ta về đến tận làng; ta dẫm chân vào lối cũ, tạo ra những chỗ ngoặt và nằm xuống đất, để lại những dấu vết loạn xạ, phòng khi bọn họ muốn theo dõi chúng ta. Nhưng, khi ta đã làm rối tung dấu vết đến mức chính ta cũng khó nhận ra, thì Mang, con Dơi, bay chập chờn giữa các lùm cây, đến treo mình bên trên đầu ta:
- Làng của cái Bầy Người đã xua đuổi chú Người Con đang rào rào như một tổ ong bầu – Nó nói.
- Phải – Mowgli thốt lên một tiếng cười khe khẽ - Tôi đã ném vào giữa chỗ họ một hòn cuội xinh đáo để!
Chú thường hay đùa nghịch ném đu đủ chín vào những tổ ong bầu, và sẵn sàng chạy ngay xuống cái ao gần nhất trước khi bị lũ ong bắt kịp.
- Ta hỏi Mang nhìn thấy những gì. Nó đáp rằng Hoa Đỏ nở ở rào chắn đầu làng và những người đàn ông mang súng ngồi quanh nó. Vậy mà, ta biết và ta có đủ lý do để biết – nói đến đây Akela nhìn những vết sẹo cũ trên hông và sườn nó – rằng khi một con người cầm súng thì chẳng phải chuyện chơi. Lát nữa đây, chú em ạ, một người có súng sẽ đi theo dấu vết chúng ta, nếu như không phải hắn đang ở trên đường rồi, thật thế!
- Nhưng tại sao? Loài Người đã xua đuổi tôi. Họ còn muốn gì hơn thế nữa? – Mowgli nói một cách giận dữ.
- Chú là một con người, chú em – Akela nói tiếp – Đâu đến phần chúng ta, những thợ săn tự do, dạy cho chú biết anh em chú làm gì và tại sao.
Nó vừa kịp thu chân lại, thì con dao cắm phập xuống đúng chỗ đất dưới bàn chân, Mowgli ném nhanh đến mức không một con mắt người thường nào có thể theo kịp cử động của chú. Nhưng Akela là một con sói, mà ngay loài chó nhà, đã thoái hoá đi bao nhiêu so với loài sói, tổ tiên hoang dại của nó, đang ngủ say đến đâu cũng tỉnh dậy đúng lúc một cái bánh xe chạm vào hông nó, nó đã kịp chồm ngay dậy thoát khỏi vòng nguy hiểm.
- Lần khác, liệu mà nói về Bầy Người và về Mowgli riêng rẽ ra chứ đừng nhập làm một – Mowgli vừa bình thản nói vừa tra dao vào vỏ.
Phì! Một cái răng sắc đấy! – Akela vừa nói vừa ngửi ngửi vết dao chém xuống đất – Nhưng thời gian ở với Bầy Người đã làm mắt chú hỏng rồi, chú em. Trong khoảng thời gian chú chém, ta đã kịp giết một con mang.
Bagheera đứng phắt dậy, vươn cao cổ, đánh hơi và mỗi đường cong trên mình nó như cứng lại. Xám Anh nhanh nhẹn theo gương nó, nhưng hơi chếch về bên trái để đón luồng gió từ phía phải, trong khi Akela, bằng ba bước nhảy, ngược chiều gió lên năm mươi thước, rồi cũng đứng sững lại, khom mình gần sát đất. Mowgli nhìn chúng một cách ghen tị. Chú nhận biết mọi vật bằng khứu giác giỏi như ít có ai trong Giống Người làm được, nhưng chú chưa đạt tới sự tinh tế của một cái mũi của Rừng, nhạy như một chiếc cò súng cách ngón tay có một sợi tóc; chưa kể ba tháng sống trong cái làng khói mù đã khiến chú lạc hậu một cách đáng thương hại. Tuy vậy, chú liếm ướt ngón tay, xát lên mũi, rồi trỗi dậy, tìm bắt luồng gió trên cao, có thể là luồng yếu nhất nhưng đáng tin cậy nhất.
- Người! – Akela gầm gừ, thu mình lại trên hông.
- Buldeo! – Mowgli vừa nói vừa ngồi xuống trở lại – Hắn theo dấu ta, và kia kìa, cây súng của hắn lấp loáng trong nắng. Nhìn mà xem!
Đó chỉ là một tia sáng loé lên trong khoảng một phần nhỏ của một giây, trên nẹp đồng của khẩu súng hoả mai cũ, nhưng trong Rừng không có cái gì đùng cái chớp sáng như thế, trừ khi những đám mây đuổi nhau trên trời. Khi đó một mảnh mica, một làn nước nhỏ nhất hay một chiếc lá bóng hơn những lá khác cũng rực lên như một cái máy quang báo. Thế mà ngày hôm nay mây không, gió cũng không.
- Ta biết thế nào bọn Người cũng sẽ đi theo mà – Akela nói, vẻ đắc thắng – Ta dẫn dắt cả Bầy đâu phải là vô ích!
Bốn anh em của Mowgli không nói năng gì, nhưng chúng bò đi mất và như tan biến giữa những cây mâm xôi và những bụi rậm phía chân đồi.
- Các người đi đấu thế kia khi chưa có lệnh? – Mowgli hú gọi.
- Suỵt! Chúng tôi sẽ vần đầu lâu hắn về đây trước chính ngọ! – Xám Anh đáp.
- Về đây! Về đây! Và nằm xuống đó! Người không ăn thịt Người! – Mowgli hét váng óc.
- Thế ai mới đây còn là một con sói? Thế ai đã lia dao vào ta vì ta đã coi hắn là một con người? – Akela hỏi, trong khi bộ bốn trở lại và ngồi xuống với vẻ cáu kỉnh.
- Liệu ta có phải nêu lý do tất cả những việc ta thích làm chăng? – Mowgli giận dữ kêu lên.
- Đó, Giống Người! Đích thị Giống Người đang nói đó! – Bagheera lẩm bẩm qua hàng ria – Người ta nói đúng như thế trước những lồng thú của nhà vua ở Oodeypore. Chúng ta, những kẻ thuộc về Rừng, chúng ta biết rằng trong muôn loài, Người là loài khôn ngoan nhất. Tuy nhiên, nếu tin ở tai mình, thì ta phải cho rằng không có con vật nào điên rồ hơn.
- Về việc này chú Người Con có lý. Giống Người đi săn theo đàn. Giết một tên trước khi biết những tên khác sẽ làm gì là hỏng cuộc săn của chúng ta. Trước hết hãy đi xem con người ấy muốn gì ở chúng ta.
- Chúng tôi không đi đâu – Xám Anh càu nhàu – Hãy đi săn một mình, chú em! Chúng tôi đây, chúng tôi biết mình muốn gì! Cái đầu lâu đã sẵn sàng để đem về ngay bây giờ.
Mowgli đưa mắt nhìn các bạn từ người này sang người khác, lồng ngực phập phồng và mắt đầy lệ. Chú tiến một bước lên phía trước, và buông người quỳ một gối xuống:
- Vậy tôi không biết tôi muốn gì sao? – Chú nói – Hãy nhìn tôi đây này.
Chúng nhìn chú một cách khó chịu, rồi, khi mắt chúng trốn tránh mắt chú, chú lại dùng lời nói kích động chúng cho đến lúc tất cả lông mình chúng dựng đứng lên và bốn chân run lẩy bẩy, trong khi mắt chú vẫn chiếu thẳng vào chúng ngày một gay gắt.
- Bây giờ - chú hỏi – trong năm chúng ta, ai là thủ lĩnh?
- Chú là thủ lĩnh, chú em! – Xám Anh nói, và nó liếm chân Mowgli.
- Vậy thì theo tôi!
Và cả bốn con sói bước theo gót chú, đuôi cụp xuống.
- Sống với bầy người rồi ra thế đó – Bagheera vừa nói vừa trườn mình đằng sau họ - Trong Rừng bây giờ có thứ còn hơn cả Luật Rừng, bác Baloo ạ.
Con Gấu già không nói không rằng, nhưng nó cũng suy nghĩ về chuyện này không kém.
Mowgli cắt ngang Rừng không một tiếng động như để bắt thẳng góc vào đường đi của Buldeo, cho đến tận lúc vén bụi cây rậm, chú thấy lão già súng vác vai đang chạy chầm chậm theo những dấu chân ngày hôm kia.
Chắc các bạn còn nhớ rằng lúc đi khỏi làng, Mowgli vác trên vai tấm da nặng ròng ròng máu của Shere Khan, trong lúc Akela và Xám Anh chạy đằng sau. Như vậy đường đi của họ đã bị đánh dấu một cách rõ ràng nhất. Vào lúc này Buldeo đã đi đến chỗ Akela quay lại cố tình làm rối loạn dấu vết. Thế là lão ngồi xuống, ho hắng và cằn nhằn, rồi lão tiếp tục bước tới từng bước ngắn và đi vòng vào Rừng, tìm cách phát hiện tiếp dấu vết.
Suốt thời gian ấy lão ở cách những kẻ đang rình rập một tầm ném đá. Không ai gây ít tiếng động bằng một con sói khi nó không muốn bị nghe thấy. Còn Mowgli, mặc dù theo ý lũ sói thì chú di chuyển như một đồ bị thịt, nhưng chú có thể đi lại nhẹ nhành hơn một cái bóng.
Chúng bao vây lão già như một bầy cá heo vây quanh một chiếc tàu thuỷ phóng hết tốc lực, và trong lúc đó, chúng không ngại gì việc chuyện trò, vì âm tần của ngôn ngữ chúng rung động dưới mức những âm thanh thấp nhất mà một con người bình thường có thể nghe thấy. Ở cực bên kia của dải âm tần là tiếng kêu choe choé của Mang, con Dơi, mà rất nhiều người cũng không thể cảm nhận; đó là khởi điểm của thang âm thanh dùng làm ngôn ngữ cho mọi loài chim chóc, dơi và công trùng.
- Thật ngộ nghĩnh hơn bất kỳ cuộc săn nào – Xám Anh nói khi Buldeo cúi xuống chăm chú nhìn mặt đất và thổi phù phù. - Lão có cái vẻ của một con lợn lạc trong những cánh rừng bên mép nước. Lão nói gì thế nhỉ?
Buldeo lạu nhạu gì đó với một vẻ dữ tợn. Mowgli dịch lại:
- Lão bảo rằng dễ phải có hàng đàn sói nhảy nhót xung quanh tôi. Lão bảo đời lão chưa từng thấy một dấu vết như thế này. Lão bảo lão mệt quá.
- Lão sẽ có đủ thời gian nghỉ ngơi trước khi tìm lại được vết chân – Bagheera vừa lạnh lùng nói vừa trườn xung quanh một gốc cây như chơi ú tim, đúng cái trò mà cả bọn đang chơi – Chà! Nhưng mà lão đang làm gì với những ngón tay xương xẩu của lão thế?
- Lão ăn hay thổi khói ra đằng miệng đấy mà. Loài Người lúc nào cũng nghịch ngợm bằng miệng – Mowgli nói.
Và những kẻ âm thầm săn đuổi nhin thấy lão già nhồi một nõ thuốc, châm lửa và hít một hơi khói – chúng bèn ghi nhớ mùi thuốc lá để chắc chắn nhận ra Buldeo trong trường hợp cần thiết, chẳng hạn khi trời tối đen như mực.
Lúc đó còn có một bọn người đốt than theo lối mòn đi xuống, và lẽ tự nhiên họ dừng lại nói chuyện với Buldeo, người nổi danh săn bắn khắp vùng hai mươi dặm xung quanh. Họ ngồi cả xuống để hút thuốc, trong khi Bagheera và đồng bọn tiến đến rình ngay bên cạnh. Buldeo bắt đầu kể từ đầu đến đuôi câu chuyện của Mowgli – Thằng-Bé-Quỉ, với bao nhiêu tô vẽ và bịa đặt: chính lão, Buldeo, đã giết Shere Khan như thế nào; Mowgli đã biến thành chó sói và đánh nhau với lão suốt buổi chiều rồi trở lại hình người và ếm cây súng của Buldeo khiến cho lúc lão ngắm bắn nó thì đạn chệch ra ngoài và giết đúng một con trong đàn trâu của lão ra sao, cuối cùng là cả làng, biết lão là người thợ săn can đảm nhất vùng Seeonee, đã cử lão đi giết Thằng-Bé-Quỉ ấy như thế nào. Nhưng trong lúc này làng đã bắt vợ chồng bà Messua – chắc chắn họ là bố mẹ Thằng-Bé-Quỉ kia – và đã nhốt chặt hai người trong nhà họ. Người ta sẽ không chậm trễ đưa họ ra tra tấn để buộc họ nhận là phù thuỷ, và lúc đó người ta sẽ thiêu sống cả hai.
- Bao giờ cơ? – Bọn đốt than hỏi, họ rất mong không bị lỡ mất buổi lễ.
Buldeo đáp lại rằng trước khi lão trở về thì người ta sẽ chưa làm gì hết, vì làng muốn trước tiên phải giết Thằng-Bé-Quỉ. Xong việc ấy người ta sẽ tính đến bà Messua và chồng bà, và làng sẽ chia nhau ruộng đất và trâu bò của họ. Đàn trâu của chồng bà Messua thì đặc biệt là đẹp rồi… Buldeo nghĩ, tiêu diệt bọn phù thuỷ là việc thiện, và những kẻ đã nhận vào nhà mình thằng bé Người-Sói xổng từ Rừng ra thì rõ ràng thuộc hạng phù thuỷ tệ hại nhất. Xong xuôi đâu đấy, ông lý trưởng sẽ rêu rao rằng bà Messua và chồng bị giết vì rắn cắn. Tất cả đã được xếp đặt, việc phải làm bây giờ là giết thằng bé Người-Sói. Chẳng hay tình cờ họ có gặp vật gì từa tựa như thế không.
Bọn đốt than ném ra xung quanh những cái nhìn nghi ngại và thầm cảm ơn thần bản mệnh vì họ chưa gặp vật gì tương tự, nhưng họ chắc chắn rằng có một người can đảm như Buldeo có thể phát hiện ra nó, nếu việc ấy nằm trong khả năng của con người trần thế.
Mặt trời đã xuống thấp và họ nảy ra ý đến tận làng của Buldeo để xem mụ phù thuỷ độc ác. Buldeo đã trả lời rằng chắc chắn bổn phận của lão là giết Thằng-Bé-Quỉ, nhưng lão không thể nghĩ đến chuyện để mặc không hộ tống những người tay không đi qua một khu rừng mỗi lúc đều có thể có Sói Tinh xông ra. Cho nên lão sẽ đi cùng với họ và nếu thằng bé con nhà phù thuỷ hiện lên, thì được rồi, lão sẽ cho họ thấy người thợ săn ưu tú nhất vùng Seeonee xử sự với bọn yêu quái ấy như thế nào. Lão khẳng định rằng, Thầy Bà-la-môn đã cho lão một cái bùa phù hộ tai qua nạn khỏi để chống lại loài yêu.
- Lão nói gì, lão nói gì? Lão nói gì thế? – Lũ sói cứ hai phút một lần nhắc lại câu hỏi. Và Mowgli dịch lại cho, cho đến đoạn hơi quá khó đối với chú, đoạn nói về phù thuỷ, thì chú nói rằng người đàn ông và người đàn bà đã đối xử tử tế với chú đang bị lọt vào một cái bẫy.
- Người cũng cho Người vào bẫy à? – Xám Anh hỏi.
- Đó là theo lão nói! Tôi chẳng hiểu họ nói chuyện gì cả. Họ điên cả lũ. Làm sao vì tôi mà người ta giam bà Messua và chồng bà vào một cái bẫy, và tất cả những chuyện ba hoa về Hoa Đỏ ấy nghĩa là gì nhỉ? Tôi phải để mắt đến việc này mới được. Dù họ muốn làm gì bà Messua, họ cũng chưa làm trước khi Buldeo trở về. Vậy thì…
Mowgli trầm ngâm suy nghĩ, ngón tay nghịch nghịch chiếc cán dao, trong khi Buldeo và bọn người đốt than bước đi rất hiên ngang theo hàng một.
- Tôi về thằng chỗ Bầy Người đây – Cuối cùng Mowgli nói.
- Còn bọn kia? – Xám Anh hỏi, ánh mắt thèm khát hướng về những tấm lưng màu đồng của bọn người đốt than.
- Hãy hát cho họ nghe một bài để tiễn họ - Mowgli cười khanh khách – Tôi không muốn họ về đến cổng làng trước buổi tối. Các người giữ họ lại được chứ?
Xám Anh nhe hàm răng trắng nhởn với một cái bĩu môi khinh miệt.
- Chúng tôi có thể làm cho họ quay tít thò lò y như lũ dê xoay quanh cọc, nếu đúng như tôi biết về Giống Người.
- Tôi không yêu cầu đến thế. Hãy hát cho họ nghe một bài ngăn ngắn thôi, kẻo họ buồn lúc đi đường, và anh biết đấy, Xám Anh, bài hát không cần phải êm dịu lắm. Anh đi cùng với bọn sói, Bagheera, để tăng cường cho dàn đồng ca. Khi đêm xuống thì gặp tôi ở bìa làng. Xám Anh biết chỗ đó.
- Săn đuổi cho một chú Người Con đâu phải là công việc nhỏ nhoi. Khi nào ta mới được ngủ đây? – Bagheera vừa nói vừa ngáp, tuy người ta có thể đọc thấy trong mắt nó trò chơi làm nó hân hoan biết bao nhiêu – Ta hát cho lũ trai tráng trần trùi trụi kia nghe ư? Chà chà! Để thử cái coi!
Nó cúi đầu xuống để âm thanh phát hết hiệu quả và phát ra một hơi dài, thật dài : “Chúc cuộc săn tốt lành” – một tiếng gọi lúc nửa đêm phát ra giữa ban ngày, thừa khủng khiếp để dạo đầu. Mowgli nghe tiếng gầm cuộn đi, vút lên, rơi xuống và tắt dần phía sau lưng chú, biến thành một thứ tiếng than van nghe lạnh cả sống lưng, và chú bật cười một mình trong lúc chạy qua Rừng.
Chú nhìn thấy bọn người đốt than rúm tròn người lại, trong khi nòng súng của Buldeo là đà như một tàu lá chuối, quay khắp tứ phương. Lúc đó Xám Anh tung lên tiếng Yahachi! Yalaha! Tiếng gọi săn mồi trong lúc Bầy Sói đuổi theo con Nilghai, loài bò cái to lớn da xanh, và tiếng ấy dường như cất lên từ khắp bốn phương trời, thu lại, thu lại dần, để rồi kết thúc bằng một tiếng xé tai và ngắt rất gọn. Ba con kia đáp lời to đến mức ngay cả Mowgli cũng chắc mẩm toàn bộ Bầy Sói đang hú vỡ họng. Rồi, cùng một lượt tất cả cất tiếng hát Bài ca Buổi sáng trong Rừng, không bỏ sót một đoạn, một câu dặm, một nốt hoa mỹ nào, Bài ca mà một con sói thực thụ trong Bầy phải biết ngân nga bằng một giọng thật sang sảng.
Không lời nào lột tả được hiệu quả của tiếng hát cũng như tiếng the thé khinh miệt mà bộ Bốn nhấn mạnh ở từng nốt khi chúng nghe những cành cây răng rắc vì bọn người hối hả leo lên và khi Buldeo bắt đầu lặp đi lặp lại những câu thần chú và múa may bùa phép. Sau đó anh em chúng nằm xuống ngủ, vì cũng giống như mọi kẻ chỉ trông cậy vào sức lực bản thân mình để sống, chúng có óc qui củ, và không có ai có thể làm việc tốt nếu thiếu ngủ.
Trong thời gian ấy, Mowgli ngốn những dặm đường, áng chừng chín dặm một giờ, với một nước kiệu nhanh và nhịp nhàng, sung sướng thấy mình lại sức sau những tháng dài sống chật chội giữa con người. Ý nghĩ đầu tiên của chú là kéo bà Messua và chồng bà ra khỏi bẫy. Sau đó chú sẽ bắt đầu trả những món nợ của chú với dân làng – chú tự hứa với mình như thế - và trả một cách rộng rãi.
Dưới ánh hoàng hôn, chú nhìn thấy lại những đồng cỏ quá quen thuộc và cây dâk mà Xám Anh đã đợi chú dưới gốc buổi sáng hôm chú giết Shere Khan. Đang tức giận toàn thể Giống Người và xã hội của họ là thế, mà khi nhận ra những mái nhà trong làng, có cái gì thít chặt lấy cổ họng chú và hơi thở chú nghẹn lại. Chú nhận thấy tất cả mọi người từ ngoài đồng trở về sớm hơn thường lệ và đáng lẽ đi sửa soạn bữa ăn chiều thì họ lại tập họp dưới gốc cây ở chiếc sân rộng, tán chuyện và la hét.
- Con Người bao giờ cũng phải giăng bẫy hại Con Người – Mowgli nói – nếu không thì họ chẳng hài lòng. Cách đây hai đêm là Mowgli – nhưng cái đêm ấy hình như đã cách xa hàng nhiều mùa mưa – tối nay là bà Messua và chồng bà. Ngày mai và rất nhiều ngày sau, sẽ lại đến lượt Mowgli.
Chú trườn mình dọc theo mặt ngoài bức tường, đến tận nhà bà Messua, và nhìn qua cửa sổ vào buồng. Bà Messua nằm lăn dưới đất, miệng bị nhét giẻ, chân tay bị trói, ngực bị đè, đang thốt ra những tiếng rên đùng đục. Chồng bà bị cột chặt vào thành chiếc giường sơn loè loẹt. Cửa nhà, thường ngày vẫn mở ra mặt phố, giờ bị đóng kín mít và có ba bốn người ngồi đằng trước, tựa lưng vào cửa.
Mowgli biết rất rõ phong tục tập quán của dân làng. Lý trí của chú cho chú hiểu là chừng nào họ đang ăn, chuyện trò và hút thuốc, họ chẳng nghĩ đến việc gì khác, nhưng phủ phê rồi thì họ bắt đầu trở nên nguy hiểm. Buldeo không bao lâu sẽ trở về và nếu đoàn hộ tống đã làm đúng nhiệm vụ, thì lão sẽ có một trong những câu chuyện lý thú nhất để mà kể. Nghĩ đoạn, chú chui qua cửa sổ vào trong nhà, và cúi xuống người đàn ông và người đàn bà, chú cắt dây trói, tháo giẻ nhét miệng ra, rồi nhìn quanh xem có ít sữa nào không.
Bà Messua đau đớn và sợ hãi đến sắp phát điên (người ta đã đánh đập và ném đá vào bà suốt buổi sáng), và Mowgli chỉ kịp lấy tay che miệng để bịt tiếng kêu buột ra. Chồng bà chỉ choáng váng và phẫn nộ. Ông ngồi lại rũ hết bụi bặm và đủ thứ mảnh vụn bám vào bộ râu đã bị vặt trụi một nửa.
- Tôi biết, tôi biết là nó sẽ tới – Cuối cùng bà nức nở - Giờ thì tôi thấy rõ nó là con trai tôi.
Và bà ghì chặt Mowgli vào lòng. Cho tới lúc đó Mowgli chưa từng bao giờ mất bình tĩnh, nhưng bây giờ, điều này làm chú vô cùng bất ngờ, chú bắt đầu run từ đầu đến chân.
- Những dây dợ này là thế nào? Tại sao họ lại trói mẹ? – Ngừng một chút rồi chú bắt đầu hỏi.
- Để đem giết bà ấy vì tội đã nhận mi làm con, chẳng có gì hơn! – Người đàn ông nói với vẻ ủ rũ – Nhìn mà xem, ta chảy máu đây này!
Bà Messua không nói gì hết, nhưng Mowgli lại nhìn những vết thương của bà, ông bà nghe chú nghiến răng trèo trẹo khi trông thấy máu.
- Kẻ nào đã làm việc này? – Chú hỏi – Nó phải trả món nợ này!
- Tất cả làng. Vì chúng ta đã cho mi nương náu. Họ vu chúng ta là phù thuỷ.
- Con không hiểu. Để mẹ Messua kể cho con nghe.
- Ta đã cho con sữa, con nhớ chứ, Nathoo? – Bà Messua rụt rè nói – Bởi con là đứa con mà hổ đã tha đi mất của ta, và bởi vì ta yêu con. Họ bảo ta là mẹ của con, một con quỉ, và vì thế ta đáng tội chết.
- Thế quỉ là cái gì? – Mowgli hỏi – Thần Chết thì con thấy rồi.
Người đàn ông ngước lên nhìn, một cái nhìn ảm đạm dưới cặp lông mày, nhưng bà Messua thì bật cười:
- Ông thấy không? – Bà nói với chồng – Tôi biết mà, tôi đã bảo ông nó không phải là phù thuỷ! Nó là con tôi, con tôi!
- Con hay là phù thuỷ gì thì cũng chẳng ích gì cho chúng ta! – Người đàn ông trả lời – Có thể coi như chúng ta đã chết rồi!
- Đây này, đằng kia có con đường đi qua Rừng – Mowgli vừa nói vừa vươn tay qua cửa sổ - Tay chân bố mẹ đã được cởi trói rồi. Bây giờ bố mẹ đi đi!
- Con ạ, chúng ta đâu có quen Rừng như … như con đã quen thuộc – Bà Messua nói – Ta tin rằng ta sẽ chẳng đi được xa.
- Và cả dân làng sẽ nhanh chóng thộp lưng chúng ta lôi trở lại đây lần nữa – Người chồng nói.
- Hừm! – Mowgli vừa nói vừa gại gại mũi dao vào lòng bàn tay – Con không muốn làm ác với một người nào trong làng này, nhưng con tin là họ sẽ không giữ mẹ đâu. Chỉ một lát nữa thôi họ sẽ có quá nhiều điều để lo nghĩ. Chao ôi!
Chú ngẩng đầu lên và lắng tai nghe những tiếng hò la và dậm chân bên ngoài.
- Thế là cuối cùng chúng đã để cho Buldeo trở về!
- Sáng nay người ta cử lão đi giết con! – Bà Messua khóc – con đã gặp lão chưa?
- Rồi. Chúng con đã gặp lão. Lão có chuyện để mà kể đấy, và trong khi lão khoác lác, thì người ta có đủ thì giờ để làm rất nhiều việc. Nhưng trước tiên con phải xem họ làm gì đã. Bố mẹ nghĩ xem bố mẹ đi đâu, lúc con trở lại thì cho con hay.
Chú nhảy qua cửa sổ và lại chạy theo bức tường làng đến chỗ có thể nghe thấy đám đông người tập họp dưới gốc cây vả bàn tán. Buldeo nằm dưới đất, ho xù xụ và rên rẩm, trong khi mọi người tới tấp hỏi chuyện lão. Tóc xoã xuống vai, chân cẳng xước xát vì trèo cây, lão nói không ra hơi. Nhưng lão cảm thấy rất rõ vị trí quan trọng của mình. Lâu lâu lão nói một điều gì đó về lũ yêu quái và những phép thuật ma quỉ, vừa đủ cho đám đông cảm thấy trước cái hương vị của những điều lão sắp kể. Rồi lão đòi đem nước tới.
- Chà! – Mowgli tự nhủ - Ba hoa nhảm nhí! Toàn những lời nói mép. Loài Người là anh em với loài Bandar-log. Thoạt tiên lão cần nước để rửa miệng, rồi khói để thổi. Xong đâu đó lão vẫn còn chuyện mà kể. Giống Người là những kẻ rất khôn ngoan. Họ sẽ không để lại một người nào canh giữ bà Messua chừng nào tai họ chưa nhét đầy những câu chuyện của Buldeo. Còn mình, mình cũng hoá ra lười nhác bằng những kẻ này rồi đấy!
Chú lắc người cho hết đờ đẫn và lại trườn về nhà. Lúc đến bên cửa sổ, chú cảm thấy có ai chạm vào chân.
- Mẹ! – Chú nói, vì chú rất quen thuộc sự mơn trớn của cái lưỡi nọ - Mẹ làm gì ở đây, mẹ?
- Ta đã nghe tiếng lũ con ta hát vọng qua những cánh rừng, và ta đi theo đứa ta yêu nhất. Này Ếch Con, ta định bụng xem mặt cái người đàn bà đã cho con sữa – Sói Mẹ nói, cả người nó ẩm hơi sương.
- Họ đã trói bà ấy, và muốn giết bà. Con đã cắt dây trói và bà ấy sẽ đi với chồng qua Rừng.
- Ta cũng sẽ đi theo. Ta tuy già nhưng vẫn còn răng.
Sói Mẹ vươn mình đứng lên trên hai chân sau và nhìn qua cửa sổ vào bóng tối trong nhà. Một phút sau, nó nhảy xuống trở lại không một tiếng động và chỉ nói một câu:
- Ta đã cho con uống giọt sữa đầu tiên, nhưng Bagheera có lý: cuối cùng Người sẽ quay về với Người!
- Có thể! – Mowgli nói không mấy nhã nhặn – Nhưng tối nay con còn ở rất xa con đường ấy. Mẹ đợi ở đấy và đừng để bà ta trông thấy.
- Con, con chưa bao giờ sợ mẹ mà, Ếch Con! – Sói Mẹ vừa nói vừa lùi vào đám cỏ, rồi đột nhiên biến mất hẳn theo cách mà nó biết.
- Và bây giờ - Mowgli vừa nói vui vẻ vừa nhảy vào trong nhà – họ đã ngồi cả đó, xung quanh Buldeo, nghe lão kể những chuyện không hề có. Khi lão ba hoa xong, họ nói chắc chắn họ sẽ đem Hoa Đỏ tới đây, đem lửa tới để thiêu sống cả hai bố mẹ. Vậy thì sao đây?
- Ta đã nói với chồng ta – bà Messua nói – Khanhiwara cách đây ba mươi dặm, ở đó chúng ta có thể tìm thấy những người bà con để nương tựa. Nếu đêm nay chúng ta đi được đến đấy, chúng ta sẽ sống. Bằng không thì chúng ta phải chết.
- Vậy thì bố mẹ sẽ sống. Không kẻ nào vượt qua được rào chắn tối nay. Nhưng mà ông ấy, ông ấy làm gì vậy?
Chồng bà Messua đang bò lổm ngổm bới đất trong một góc nhà.
- Đó là số tiền mọn của ông ấy – bà Messua nói – Chúng ta không thể mang theo được cái gì khác.
- À phải rồi! Cái vật chuyền từ tay người này sang tay người khác mà chẳng bao giờ ấm lên được. Ở chỗ khác người ta cũng cần đến nó à? – Mowgli hỏi.
Người đàn ông chằm chằm nhìn chú bằng một ánh mắt tức tối
- Một thằng ngốc chứ quỉ quái gì nó – Ông ta lẩm bẩm – Có tiền, ta có thể mua được một con ngựa. Chúng ta ê ẩm hết người rồi, không thể đi bộ quá xa, và dân làng sẽ đuổi kịp chúng ta trong vòng một tiếng đồng hồ.
- Con cam đoan với bố mẹ rằng họ sẽ không đi theo bố mẹ, cho đến khi nào con thích. Nhưng nghĩ đến chuyện ngựa cũng có cái hay, vì mẹ Messua đang mệt.
Người chồng đứng dậy và buộc những đồng rupi cuối cùng vào thắt lưng. Mowgli giúp bà Messua trèo qua cửa sổ, và không khí mát mẻ ban đêm khiến bà phấn chấn lại một chút. Nhưng dưới ánh sao, Rừng hình như vừa tăm tối vừa hung hiểm.
- Bố mẹ biết đường đến Khanhiwara chứ?
Họ ra dấu là biết.
- Tốt rồi. Giờ thì bố mẹ nhớ là không có gì phải sợ cả. Cũng chẳng cần phải vội vã. Chỉ có điều, chỉ có điều bố mẹ có thể nghe thấy một khúc ca nho nhỏ trong Rừng, ở phía trước và phía sau bố mẹ.
- Mi có tin là thoát cái nợ thiêu sống, chúng ta lại liều mình trong Rừng lúc đêm hôm không? Nhưng thà bị thú dữ giết còn hơn bị người giết – Ông chồng bà Messua nói.
Còn bà Messua thì nhìn Mowgli và mỉm cười.
- Con bảo – Mowgli nói tiếp với cái giọng của Baloo khi con Gấu nhắc đến lần thứ một trăm cái Luật Rừng xưa xửa xừa xưa cho chú bé lơ đễnh – con bảo rằng không có kẻ nào trong Rừng nhe một chiếc răng hay giơ một bàn chân ra chặn đường bố mẹ, cho đến khi bố mẹ nhìn thấy Khanhiwara trước mặt. Người ta sẽ canh chừng xung quanh bố mẹ.
Chú sôi nổi quay về phía bà Messua:
- Bố ấy, bố không tin con, nhưng mẹ thì mẹ tin, phải không nào?
- Phải, chắc chắn rồi, con ạ. Con là Người, là Ma Quỉ hay Sói Rừng, ta cũng tin con.
- Bố ấy, bố sẽ sợ khi nghe anh em con hát. Mẹ thì biết và mẹ hiểu. Giờ thì bố mẹ đi đi, và đi từ từ thôi, vì hối hả vô ích: cổng làng đã bị vây kín.
Bà Messua nức nở gieo mình xuống trước chân Mowgli, nhưng chú run run xốc mạnh bà dậy. Thế là bà bíu lấy cổ chú, gọi chú bằng tất cả những cái tên trìu mến và tốt lành nhất mà bà tìm được, trong khi chồng bà nhìn khắp một lượt tất cả những ruộng đất của mình với ánh mắt thèm khát.
Họ đi xa dần về phía Rừng, và Sói Mẹ chồm ra khỏi chỗ nấp.
- Mẹ đi theo họ đi! – Mowgli nói – và hãy canh chừng sao cho tất cả Rừng biết là phải để cho hai người đi qua yên lành. Con muốn gọi Bagheera.
Một tiếng hú dài và trang trọng cất lên, rồi hạ xuống. Mowgli thấy ông chồng bà Messua chần chừ quay lại chực chạy trở về nhà.
- Đi đi! – Mowgli vui vẻ kêu lên – Con đã nói có thể sẽ có âm nhạc mà. Tiếng gọi ấy sẽ theo bố mẹ đến Khanhiwara. Đó là Ân huệ của Rừng.
Bà Messua cổ vũ ông chồng bước lên phía trước, và bóng tối khép lại phía sau hai người với Sói Mẹ. Lúc ấy Bagheera đứng dậy, gần như ngay dưới chân Mowgli, toàn thân run lên vì khoái cảm lúc đêm về, cái màn đêm làm cư dân của Rừng phát cuồng.
- Ta hổ thẹn vì anh em nhà chú – Nó vừa nói vừa chạy.
- Sao cơ? Chúng hát hỏng không ra sao à? – Mowgli hỏi.
- Ồ, hay quá đi chứ! Chúng đã khiến chính bản thân ta phải quên đi niềm kiêu hãnh, và, thề có Ổ Khoá Vỡ đã giải phóng cho ta, ta vừa đi vừa hát qua Rừng như đang đuổi theo tình ái ngày xuân! Chú không nghe thấy tiếng chúng ta à?
- Tôi còn có con mồi khác ở trước mặt. Hãy hỏi Buldeo xem bài hát có vừa ý lão không. Nhưng bộ bốn đâu rồi? Tôi không muốn cho kẻ nào trong Bầy Người ra khỏi rào đêm nay.
- Vậy thì cần gì bộ bốn? – Bagheera vừa nói vừa giơ lên lần lượt từng bàn chân, mắt rực lửa, cái giọng ro ro rung cao chưa từng có – Ta có thể giữ họ lại, chú em. Rốt cuộc là có giết chóc chứ? Những bài hát, những thằng người leo cây, tất cả đã kích thích khẩu vị của ta. Ta là Bagheera! Bagheera! Bagheera!
Con Báo to nhảy lên như một con mèo tơ nhảy để vồ một chiếc lá úa đang quay tít trên đầu, nó đập phải đập trái vào chỗ trống, không khí bị quất mạnh réo lên, và nó rơi bốn chân xuống không một tiếng động, để rồi lại nhảy lên dữ dội hơn, tất cả các động tác ấy kèm theo một âm thanh nửa gừ gừ nửa gầm gầm, âm lượng phình ra như tiếng hơi phì trong nồi xúp-de.
- Ta là Bagheera, trong Rừng, trong đêm tối, và ta cảm thấy sức lực của ta. Ai là kẻ chặn đà ta lao tới? Chú Giống Người ạ, một cái vả của ta là một cái đầu nát bấy, bẹp dí như con ếch chết giữa ngày hè!
- Vậy hãy thử coi nào! – Mowgli nói, lần này bằng thổ ngữ của dân làng chứ không bằng ngôn ngữ của Rừng.
Tiếng nói của Giống Người làm cho Bagheera sững hẳn lại, đôi hông run rẩy oằn xuống dưới sức nặng của thân mình. Đầu nó cao đúng tầm đầu Mowgli. Một lần nữa Mowgli nhìn chằm chằm, như chú đã nhìn lũ sói non nổi loạn, vào chính giữa cái đáy mắt màu xanh lục ngọc, cho đến khi cái ánh sáng đỏ lộ qua tròng mắt xanh biếc tắt đi như ánh sáng một chiếc đèn pha mờ khuất qua hai mươi dặm biển, cho đến khi đôi mắt kia cụp xuống cùng với tất cả cái đầu to kềnh hạ thấp, thấp nữa, thấp nữa, và một cái lưỡi đỏ lòm đến chà chà vào cổ chân Mowgli.
- Anh, Anh, Anh! – Chú bé vừa lẩm bẩm vừa mơn trớn nhè nhẹ, nhịp nhàng suốt dọc tấm lưng đang cong lên – Yên nào, yên nào! Đó là lỗi tại màn đêm, không phải lỗi anh.
- Đó là do cái mùi của ban đêm – Bagheera nói với giọng ăn năn – Tất cả bầu không khí này cao giọng nói với tôi. Nhưng chú, làm sao chú biết nhỉ?
Không khí xung quanh một cái làng Ấn Độ dĩ nhiên là đầy những mùi hỗn tạp, và đối với những sinh vật chỉ tư duy bằng mũi, thì mùi làm chúng phát cuồng lên cũng giống như âm nhạc và rượu bia đối với con người. Mowgli vuốt ve Bagheera thêm mấy phút nữa, con thú nằm trên mặt đất, hệt như một con mèo trước bếp lửa, chân xếp lại trước ngực và mắt lim dim.
- Chú thuộc về Rừng, và cũng không thuộc về Rừng – Cuối cùng Bagheera nói – Còn ta, ta chỉ là con Báo Đen. Nhưng ta yêu chú, chú em!
- Họ để thì giờ trò chuyện dưới gốc cây – Mowgli nói, không chú ý đến những lời cuối cùng của con Báo – Buldeo chắc phải kể cho họ nghe không chỉ một chuyện. Chẳng bao lâu họ sẽ đến lôi người đàn bà và chồng bà ra khỏi bẫy và ném vào Hoa Đỏ. Họ sẽ thấy bẫy mở toang. Ôi chao! Ôi chao!
- Càng tốt, nghe này! – Bagheera nói – Máu ta giờ đã dịu lại, ta không còn lên cơn sốt nữa đâu. Hãy để họ nhìn thấy ta trong đó. Sau đấy sẽ chẳng còn ai ra khỏi nhà. Đâu phải lần đầu ta ở trong lồng, và ta không nghĩ rằng ta đây lại bị họ lấy thừng trói.
- Vậy anh hãy ngoan nhé – Mowgli vừa nói vừa cười.
Và chú cũng bắt đầu cảm thấy mình cũng táo gan như Con Báo đang chui vào nhà.
- Puaa! – Bagheera thở phào – Cái này làm cho Con Người ở đây sống hôi hám cả! Nhưng cái giường này hoàn toàn giống cái họ cho ta ngủ trong cái lồng thú của nhà vua ở OOdeypore. Nào, hãy kềnh một cái nào.
Mowgli nghe tiếng những chiếc đai giường răng rắc dưới sức nặng của con vật đồ sộ.
- Thề có Ổ Khoá Vỡ đã giải phóng cho ta! Họ sẽ tưởng là vớ được con mồi bẫm. Đến đây ngồi cạnh ta, chú em, để có cả hai người chúc họ đi săn may mắn!
- Không, tôi đang có một ý nghĩ khác trong đầu. Bầy Người sẽ không biết tôi đóng vai trò gì trong cái trò này. Anh cứ việc đùa bỡn một mình. Tôi không muốn nhìn thấy họ.
- Thì tuỳ ý chú – Bagheera nói – Kìa, họ đến kìa!
Ở đầu bên kia làng, dưới gốc cây vả, cuộc hội họp đã trở nên mỗi lúc một ồn ào. Cuộc họp bế mạc giữa những tiếng hú man dại và một dòng thác đàn ông đàn bà cuồn cuộn trong phố, tay vung gậy gộc, tre nứa, liềm dao. Buldeo và Thầy Bà-la-môn bước đi đầu, đám đông kèm sát bên họ, la ó:
- Lão phù thuỷ và mụ phù thuỷ kia! Xem thử những đồng tiền nung đỏ có bắt chúng thú nhận không! Đốt cái lều trên đầu chúng đi! Chúng ta sẽ dạy cho chúng biết che chở cho những con Sói Tinh! Không, cho một trận nhừ tử cái đã! Đuốc đâu! Đuốc nữa đây! Buldeo, hơ nóng nòng súng đi!
Đến trước cái then cửa thì một khó khăn nổi lên: người ta đã đóng tịt nó lại một cách chắc chắn. Nhưng đám đông giật tung cả then ra, và ánh sáng những bó đuốc tràn ngập cả căn phòng; trong đó, nằm thẳng cẳng trên giường, hai chân vắt vẻo hững hờ thõng xuống một đầu giường, đen như đêm thẳm, kinh khủng như một con quỉ, Bagheera đang đợi.
Có đến nửa phút lặng yên tuyệt vọng, trong khi những hàng đầu tiên của đám đông, gần ngưỡng cửa, cào xé để vạch một đường rút lui. Trong giây phút ấy, Bagheera ngẩng đầu lên và ngáp – một cách chậm rãi, cầu kỳ và phô trương – như nó vẫn quen làm để hạ nhục một số kẻ bằng vai. Những riềm môi của nó vén lên và doãng ra, cái lưỡi đỏ quăn lại, hàm dưới hạ xuống, hạ xuống đến mức người ta có thể nhìn thấy đến tận nửa cái họng bốc khói, và những chiếc răng nanh khủng khiếp nhe ra, phô đến tận chân lợi trước khi khép lại, răng trên cụng vào răng dưới một tiếng kêu kim loại của những mỏ thép đóng vào ổ khoá bên lề két sắt. Loáng một cái, phố vắng tanh. Bagheera chồm một phát qua cửa sổ ra ngoài và đứng cạnh Mowgli trong khi dòng thác người hét lên, hú lên, trèo lên lưng nhau, đạp lên người nhau trong cơn hối hả và hãi hùng ai về nhà nấy.
- Họ sẽ không nhúc nhích cho đến tận sáng – Bagheera bình thản nói.
Còn bây giờ? Hình như sự lặng yên của giấc ngủ trưa đột ngột trùm xuống làng. Nhưng lắng tai, người ta có thể nghe thấy tiếng những thùng thóc kéo lê trên nền đất trong các ngôi nhà, chủ nhà đẩy chúng ra chặn cửa. Bagheera đã nói đúng: cho đến sáng, cả làng sẽ không nhúc nhích.
Mowgli vẫn ngồi im lìm nghĩ ngợi và gương mặt chú cứ mỗi lúc mỗi thêm u ám.
- Ta đã làm điều gì không phải chăng? – Cuối cùng Bagheera vừa hỏi vừa gại gại vào người chú.
- Rất tốt thôi chứ có gì đâu. Bây giờ hãy canh họ cho đến sáng. Còn tôi, tôi đi ngủ đây.
Mowgli chạy như bay về Rừng, ngả mình vắt ngang một phiến đá, ngủ suốt ngày và cả đêm tiếp theo.
Khi chú thức dậy thì Bagheera đang ở bên cạnh, và một con mang vừa mới giết còn nóng hổi nằm dưới chân chú. Con Báo quan sát chú một cách tò mò suốt thời gian chú sử dụng con dao, ăn và uống, cho đến lúc chú quay trở lại, hai tay ôm cằm.
- Người đàn ông và người đàn bà đã đi đến trước mặt Khanhiwara yên lành – Bagheera nói – Mẹ chú đã nhờ Tril báo tin như thế. Họ đã kiếm được một con ngựa trước lúc nửa đêm, cái đêm chú giải thoát cho họ, và đã đi rất nhanh. Như thế không đúng ư?
- Tốt! – Mowgli nói.
- Và cái Bầy Người trong làng của chú đã không nhúc nhích cho đến tận lúc mặt trời lên cao sáng hôm nay. Khi đó họ ăn uống và hối hả trở về nhà.
- Họ có thấy anh không, có thể do tình cờ?
- Có thể. Ta đã lăn mình trong bụi bặm đằng trước rào chắn vào lúc tảng sáng, và có thể bất chợt ta cũng hát lên cho riêng ta một khúc ca nho nhỏ nào đó. Bây giờ, chú em, không còn việc gì làm nữa. Hãy đi săn với ta và Baloo, bác ấy có những tổ ong mới muốn khoe với chú, và cả hai ta đều thích thấy chú trở về với chúng ta như ngày trước. Hãy thôi cái ánh mắt làm chính ta cũng phát sợ ấy đi. Người đàn ông và người đàn bà sẽ không bị ném vào Hoa Đỏ, và trong Rừng mọi việc đều suôn sẻ. Chẳng đúng thế sao? Ta hãy quên Bầy Người đi…
- Người ta sẽ quên họ… Chỉ một lúc nữa thôi. Đêm nay Hathi ăn ở đâu?
- Nó thích đâu thì ăn đấy. Ai mà trả lời thay cho Con Voi Lặng Lẽ được? Nhưng việc gì Hathi có thể làm mà chúng ta không thể làm được?
- Hãy mời lão cùng cả ba đứa con đến gặp tôi ở đây.
- Nhưng, thẳng thắn và thành thật, chú em ạ, bảo Hathi “đến” hay “đi” là không phải cách – không phải cách. Chú nên nhớ rằng lão là Chúa Rừng và lão đã dạy chú một Khẩu quyết của Rừng trước khi Bầy Người làm thay đổi ánh mắt chú.
- Cái đó không là gì hết. Tôi biết một Khẩu quyết đối với chính bản thân Hathi. Hãy nói lão đến tìm Mowgli – Con Ếch và nếu lão không nghe ngay, thì mời lão đến vì chuyện Cuộc Triệt Hạ ở khu đồng Burhpore.
- Cuộc Triệt Hạ ở khu đồng Burhpore – Bagheera nhắc đi nhắc lại ba lần cho chắc ăn – Ta đi đây. Đặt giả thiết xấu nhất, Hathi có thể tỏ ra khó chịu, khi ấy ta sẽ chịu bỏ săn một con trăng để thấy một Khẩu quyết khiến Con Voi Lặng Lẽ phải vâng theo.
Nó lên đường, để lại Mowgli đang chém xuống mặt đất những nhát dao giận dữ.
Trong đời chú, Mowgli chưa từng trông thấy máu người, cho đến lúc chú vừa thấy đây, và điều còn tác động mạnh hơn đối với chú – ngửi thấy máu bà Messua trên những sợi dây người ta trói bà. Mà bà Messua đối với chú tốt như thế, và trong chừng mực biết về Tình Yêu thì chú yêu bà Messua cũng sâu sắc như chú ghét tất cả phần còn lại của Giống Người. Nhưng dù chú ghê tởm Giống Người, ghê tởm sự ba hoa, nhát gan và tàn bạo của họ đến đâu, chú cũng không thể, để đổi lấy những gì Rừng có thể dâng hiến cho chú, nghĩ đến việc lấy đi một mạng người và lại cảm thấy mùi máu rùng rợn ấy xộc lên mũi. Kế hoạch của chú vẽ ra giản dị hơn, nhưng rộng lớn hơn, và chú bật cười khi nghĩ rằng chính một trong những câu chuyện mà lão già Buldeo kể tối hôm ấy dưới gốc cây vả đã gợi ý cho chú.
- Đúng là một Khẩu quyết – Bagheera thì thào vào tai chú – Chúng đang gặm cỏ ven bờ sông, và chúng đã vâng lời như một con bò. Nhìn kìa, chúng đã đến đây rồi.
Hathi và ba đứa con xuất hiện một cách lặng lẽ như thói quen của chúng. Hông, sườn chúng còn ẩm ướt bùn sông và Hathi tư lự nhá một cây chuối xanh non mà nó vừa dùng ngà nhổ lên. Nhưng mỗi đường nét trên tấm thân to rộng của nó cho Bagheera, kẻ chỉ ghé mắt một cái là nhìn ngay ra mọi sự, thấy rằng đây không còn là vị Chúa Rừng nói với một thằng Người Con, mà là một sinh vật run sợ vì phải trình diện một sinh vật khác không hề biết sợ.
Ba con voi chen vai chạy đằng sau cha chúng.
Mowgli chỉ hơi ngẩng đầu khi Hathi chúc chú “Đi săn may mắn”. Chú để cho nó đung đưa, rập rình, nhấc hết chân nọ đến chân kia một lúc lâu, trước khi chú cất lời và khi chú mở miệng là để nói với Bagheera chứ không phải với con voi.
- Tôi sắp kể một câu chuyện nghe được từ miệng người thợ săn mà hôm nay anh đã săn đuổi – Mowgli nói – Chuyện về một con voi rất già và rất khôn ngoan bị rơi vào một cái bẫy và bị cái chông nhọn chôn dưới đáy hố đâm toạc từ ngón chân hay là ở gần chỗ đó đến tận bả vai. Giờ vẫn còn một vết sẹo trắng.
Mowgli giơ tay ra, và vì Hathi bước tới, nên dưới ánh trăng, một vết sẹo dài màu trắng hiện rõ trên mạn sườn màu xám đá của nó, như dấu tích một làn roi thép nung đỏ.
- Người ta kéo nó ra khỏi bẫy để đưa nó đi – Mowgli nói tiếp – nhưng nó dứt đứt dây trói và bỏ đi và nó rất khoẻ. Cho đến khi lành vết thương, nó mới trở lại khu đồng của người thợ săn kia, vào ban đêm, đầy phẫn nộ. Và bây giờ tôi mới nhớ là nó có ba con. Tất cả những chuyện ấy xảy ra từ rất nhiều, rất nhiều mùa mưa trước, và ở rất xa đây, trong khu đồng Burhpore. Đến mùa gặt thì xảy ra chuyện gì hở Hathi?
- Ta và ba con của ta đã gặt cánh đồng ấy.
- Còn vụ cày tiếp theo vụ gặt?
- Không có vụ cày.
- Thế những người sống ở gần đám ruộng xanh tươi?
- Họ bán xới đi nơi khác.
- Và những túp nhà của họ?
- Mái nhà thì chúng ta đập tan, còn Rừng chôn vùi tường vách.
- Còn gì nữa?
- Ngần nào đất đai màu mỡ mà ta có thể chạy qua từ Đông sang Tây trong hai đêm và trong ba đêm từ Bắc xuống Nam, cả ngần ấy làm mồi cho Rừng. Chúng ta kéo Rừng xuống năm làng. Trong những làng ấy, và trên các vùng đất đai của họ, đồng cỏ và ruộng cày, đến nay chẳng còn lấy một người sống nhờ đất. Đó là Cuộc Triệt Hạ ở khu đồng Burhpore mà ta và ba con ta đã tiến hành. Còn bây giờ, chú Người Con, ta hỏi chú, làm sao cái tin ấy lại đến tai chú?
- Tôi nghe từ miệng một người, và bây giờ thì tôi thấy, ngay cả Buldeo đôi khi cũng nói thật. Việc đó làm rất hay, hỡi Hathi có vết sẹo trắng, nhưng lần thứ hai sẽ còn hay hơn vì sẽ có một con người chỉ huy. Bác biết cái làng của Bầy Người đã xua đuổi tôi chứ? Dân làng ấy lười biếng, phi lý và tàn bạo, họ chỉ biết bày trò chơi với lỗ miệng và họ giết những kẻ yếu nhất trong bọn họ không phải vì miếng ăn mà để giết thì giờ. Khi đã nhồi căng họng, họ sẽ ném ngay con cái họ vào Hoa Đỏ. Việc ấy tôi đã trông thấy. Để họ tiếp tục sống ở đây là không thích đáng chút nào. Tôi ghét họ.
- Thế thì giết đi – con nhỏ nhất trong ba con voi vừa nói vừa lấy đầu vòi dứt một lùm cỏ, đập vào hai chân trước để giũ đất cát rồi lẳng ra xa, trong khi đôi mắt đỏ của nó cứ liếc sang bên cạnh.
- Xương trắng! Để làm gì? – Mowgli giận dữ hỏi lại – Ta đâu phải là một con sói để nô rỡn với một cái đầu lâu dưới nắng? Ta đã giết Shere Khan và tấm da nó đã thối rữa trên Phiến Đá Hội Đồng, nhưng… nhưng không biết Shere Khan đi đâu, và ta vẫn luôn khao khát trả thù. Bây giờ ta muốn nhìn tận mặt bắt tận tay… Hãy thả Rừng vào làng, Hathi!
Bagheera run lên và nằm bẹp xuống đất. Nó có thể quan niệm được một cuộc xung phong bất ngờ vào con phố trong làng, những đòn đánh bên phải đập bên trái giữa đám đông, nếu như mọi việc đi đến chỗ tệ hại, hoặc dùng mưu mẹo hạ người trên luống cày vào lúc hoàng hôn, nhưng cái dự định xoá sạch một ngôi làng khỏi con mắt người và vật, một cách bình tĩnh, khiến nó kinh hoàng. Giờ thì nó hiểu tại sao Mowgli đã phái nó đi tìm Hathi. Ngoài Con Voi Lặng Lẽ từng trải bao nhiêu năm sống đó ra, không kẻ nào có tầm cỡ để tổ chức và hoàn thành một cuộc chiến tranh như thế.
- Cho họ chạy trốn như những kẻ đồng loại của họ ở Burhpore, cho nơi họ cày xới chỉ còn mưa cày xới, cho tiếng mưa rơi trên lá thay thế tiếng thoi đưa – Bagheera và tôi muốn đến ở trong nhà Thầy Bà-la-môn – và cho con Mang đến uống nước ở ngôi đền. Hãy thả Rừng ra, Hathi!
- Nhưng tôi… chúng ta đâu có xích mích với họ, và phải thịnh nộ điên cuồng vì một nỗi đau lớn lao mới đi tàn phá chỗ ở của con người – Hathi vừa nói vừa đu đưa người với vẻ do dự.
- Phải chăng các người là những kẻ Ăn Cỏ duy nhất trong Rừng? Hãy đưa đến tất cả bà con của các người. Để cho loài Hươu, loài Lợn lòi và loài Nilghai đảm đương. Thả Rừng ra, Hathi!
- Không có giết chóc chứ? Hai ngà ta đã đỏ lòm trong Cuộc Triệt Hạ ở khu đồng Burhpore, và ta không muốn đánh thức cái mùi đó dậy.
- Chẳng hơn gì tôi. Tôi không muốn xương họ làm nhơ mặt đất của chúng ta. Để họ đi tìm một chỗ ở mới. Họ không thể ở lại đây. Tôi đã nhìn thấy, đã ngửi thấy mùi máu của người đàn bà đã cho tôi ăn, không có tôi bà ấy sẽ bị họ giết. Chỉ có mùi cỏ mới trên ngưỡng cửa nhà họ mới xua được cái mùi ấy. Mùi ấy đốt cháy miệng tôi. Thả Rừng ra, Hathi!
- Chà chà! – Hathi nói – Vậy là giống như cái vết chông bỏng da bỏng thịt ta cho đến tận ngày chúng ta nhìn thấy làng mạc họ chết hẳn dưới mầm cỏ mùa xuân. Giờ thì ta hiểu. Cuộc chiến tranh của chú sẽ là cuộc chiến tranh của chúng ta. Chúng ta sẽ thả Rừng ra.
Mowgli vừa mới kịp lấy lại hơi – chú run bắn từ đầu tới chân vì căm giận – thì chỗ đàn voi vừa đứng đã trống trơn. Bagheera ngắm nhìn chú một cách kinh hãi:
- Thề có Ổ Khoá Vỡ đã giải phóng cho ta – cuối cùng con Báo Đen nói – chú có đúng là thằng bé con trần truồng ngày xưa ta đã lên tiếng bảo trợ ở Hội Đồng, ngày mọi người vẫn còn trẻ trung đó không? Hỡi Chúa Rừng, khi nào sức lực rời bỏ ta, Người hãy vì ta mà lên tiếng, vì Baloo, vì tất cả chúng ta mà lên tiếng nhé! Trước mặt chú, chúng ta giống như những đứa con nít! Những cọng cây răng rắc dưới chân! Những con nai mất mẹ!
Mowgli hoàn toàn bị chấn động vì ý tưởng Bagheera trong vai một con nai lạc mẹ. Chú bật cười, lấy lại hơi, rồi lại vừa cười vừa khóc, đến nỗi chú phải nhảy xuống cái ao cho tắt cơn. Thế là chú bắt đầu bơi vòng tròn, ngụp xuống trong ánh trăng để rồi ngoi lên trong bóng tối, y như Con Ếch mà chú mang tên.
Trong thời gian ấy, Hathi và ba đứa con chia nhau đi về bốn hướng. Đi khỏi đó mười dặm, chúng lặng lẽ bước từng bước dài xuống thung lũng. Chúng bước đi, bước đi hai ngày ròng rã – như thế là được những sáu mươi dặm đường rừng; và trong cuộc đi ấy, mỗi bước chân, mỗi nhịp vòi đung đưa của chúng đều được quan sát, ghi nhớ và bình luận bởi Mang, Tril, giòng họ Khỉ và tất cả chim muông. Rồi chúng bắt đầu gặm cỏ, và chúng thản nhiên gặm cỏ trong gần một tuần lễ, Hathi và các con của nó cũng như Kaa, Con Trăn Đá; chúng không bao giờ hấp tấp, cho tới khi nào đến lúc.
Sau thời gian ấy, tiếng đồn lan đi khắp Rừng – và không ai biết tiếng đồn ấy xuất phát từ đâu – rằng người ta tìm thấy thức ăn và nước uống tốt hơn nhiều trong thung lũng ấy thung lũng nọ. Lũ Lợn Lòi khởi động trước tiên – bọn này đi đến cùng trời cuối đất vì một bữa ăn ngon là lẽ đương nhiên. Chúng đi từng đàn, xô đẩy nhau trên những tảng đá; Hươu Nai theo gót, cùng với những con Cáo Rừng nhỏ bé sống bằng những con vật chết và sắp chết mà các bầy thú rải dọc đường; những con Nilghai béo lùn rùng rùng chuyển động từng hàng song song với lũ Hươu Nai và những con Trâu Rừng ở đầm lầy đi sau chót. Chỉ một sự cố nhỏ nhất cũng đủ làm chệch đường những đàn thú rải rác, chúng sẵn sàng đi theo vô số những kẻ lề mề cứ gặm cỏ, lêu lổng, uống nước rồi lại gặm cỏ. Nhưng chỉ lộ ra một thoáng lo âu là xuất hiện ngay một người trấn an. Một bận, đó là Sahi, con Nhím, mang theo đầy những tin tức về bao nhiêu thức ăn ngon ở xa hơn một chút nữa thôi; một lần khác, người ta thấy Mang đập cánh với những tiếng kêu khích lệ sà xuống một chỗ rừng trống để chỉ con đường quang; hoặc Baloo, mồm đầy rễ cây, khập khiễng đi dọc hàng thú do dự và nửa doạ dẫm, nửa đùa cợt, Con Gấu vụng về đưa chúng trở về chính đạo. Một số lớn thú vật quay gót, hay chạy trốn, hay không chịu đi tiếp, nhưng cũng còn rất nhiều con tiến về phía trước. Khoảng mười ngày sau, tình hình như thế này: lũ Hươu Nai, Lợn Lòi và Nilghai quay lại gặm cỏ trên một vòng bán kính từ tám đến mười dặm, trong khi ở vành ngoài bọn Ăn Thịt tranh giành cắn xé nhau. Và tâm của vòng tròn là ngôi làng với những hoa màu đang mùa hái gặt ở xung quanh và giữa đám hoa màu là người ngồi trên những cái chòi để đuổi chim chóc và những tên ăn trộm khác. Thế là lũ Hươu Nai chẳng còn dè dặt gì nữa, bọn Ăn Thịt siết chặt lại, buộc chúng phải tiến lên mãi về phía trung tâm.
Đúng vào một đêm đen, Hathi và ba đứa con của lão trườn ra khỏi Rừng, dùng vòi bẻ gãy chân những chiếc chòi.
Những chân chòi gãy lập tức và rơi xuống như những cọng độc cần đang ra hoa bị gãy, trong khi những người lao vội xuống đất nghe thấy ngay bên tai họ tiếng kêu òng ọc đùng đục của lũ voi. Thế là tiền quân của các đạo Hươu Nai kinh hoảng tan vỡ, toả vào tràn ngập những đồng cỏ và ruộng màu của làng; loài Lợn Lòi móng guốc sắc lẻm chuyên đào xới đi kèm với chúng và những gì Hươu Nai chưa làm đổ thì lũ Lợn kết liễu. Lúc lúc một tiếng hú báo động của những con sói lại làm rung chuyển các đàn thú, khiến chúng tuyệt vọng chạy xô khắp tứ phía, đạp lên lúa mạch mới mọc, san bằng bờ đất của những con kênh tưới nước. Trước lúc rạng đông thì sức ép trên mặt vòng vây yếu đi ở một điểm. Bọn Ăn Thịt rút lui, để ngỏ một con đường ở phía Nam, theo đó từng đàn, từng đàn Hươu Nai chạy trốn. Những con khác táo bạo hơn, ở lại trong những cánh rừng rậm rạp trên cao để kết thúc bữa ăn vào đêm hôm sau.
Nhưng công việc đã hoàn thành về cơ bản. Sáng ngày ra, dân làng nhìn thấy hoa màu của họ mất trắng. Đó là cái chết đối với họ nếu họ không ra đi, vi sẽ đến lúc họ sống kề bên cái Đói cũng như Rừng kề bên họ. Khi người ta lùa trâu đi ăn cỏ, những con vật đói khát này thấy đồng cỏ nhẵn nhụi sau khi Hươu Nai tràn qua, đã lang thang vào Rừng và dạt theo các bạn bè hoang dại; và khi hoàng hôn buông xuống, ba bốn chú ngựa lùn của làng nằm chết trong chuồng, đầu bị dập nát. Chỉ một mình Bagheera có khả năng hạ đòn như thế, và chỉ có Bagheera là dám xấc xược kéo lê cái xác cuối cùng ra khỏi phố như thế.
Dân chúng không còn bụng dạ nào mà đốt lửa ngoài đồng đêm hôm ấy.
Thế là Hathi và ba đứa con đi mót nốt những gì còn lại, và chỗ nào Hathi đã mót thì rà lại vô ích. Người ta quyết định sống cho đến Mùa Mưa bằng số thóc để dành làm giống và sẵn sàng đi tìm công việc ở đợ cho thiên hạ trước khi nghĩ đến chuyện gỡ gạc lại năm mất mùa này, nhưng khi người bán thóc nghĩ đến những giỏ đầy lúa mì của lão và phỏng tính giá tiền lão có thể đòi, thì đôi ngà nhọn hoắt của Hathi khởi sự phá đầu hồi ngôi nhà đất của lão và làm tan ra từng mảnh cái hòm gian bằng mây trét phân bò đựng thứ lúa mì quí giá.
Khi người ta phát hiện sự tổn thất sau cùng này, đến lượt Thầy Bà-la-môn lên tiếng. Ông đã khấn khứa Chư Thần của ông mà không nhận được hồi âm. Ông nghĩ làng có thể đã vô tình xúc phạm một trong các vị Thần Rừng, vì không nghi ngờ gì nữa, Rừng đang chống lại họ. Thế là họ phái người đi tìm vị tù trưởng của bộ lạc người Gon du mục gần nhất – đó là những thợ săn khôn ngoan vóc người nhỏ bé, da đen nhẻm, sống giữa Rừng, mà tổ tiên thuộc dòng giống lâu đời nhất ở Ấn Độ - những cư dân thuở trước của vùng này. Họ tiếp đãi người Gon bằng hết khả năng của họ, với tất cả những gì còn lại. Người này đứng co một chân, tay cầm cung, hai ba mũi tên tẩm độc giắt vào lùm tóc trên đỉnh đầu, vẻ kinh hãi pha lẫn khinh miệt trước đám dân làng lo âu và những cánh đồng bị tàn phá. Họ muốn biết có phải các vị Thần đời xưa tức giận họ hay không, và phải dâng lên các vị những tế vật gì cho thích hợp. Người Gon không nói năng gì cả nhưng ông nhặt lên một cành Kerala, thứ dây leo có quả đắng chát trông như quả bí dại, đặt nó nằm rối tung ngang cửa đền, ngay trước mặt vị thần Ấn giáo sơn đỏ mở trừng hai mắt. Khỏi cần phải hỏi cử chỉ của ông muốn nói gì. Dây rừng sẽ mọc lên ở chỗ họ thờ thần linh. Họ chỉ còn nước trốn đi, và càng sớm càng tốt.
Nhưng một cái làng dễ gì mà dứt được những dây nhằng mối nhợ của nó. Họ còn ở lại chừng nào còn sót vài thứ thực phẩm mùa hè; họ thử đi nhặt hạt dẻ trong rừng nhưng có những con mắt đỏ gay rình rập họ, những bóng đen chuyển dịch ngay trước mắt họ giữa ban trưa, và khi họ khiếp vía bỏ chạy về nhà, thì trên những thân cây họ mới đi ngang chưa đầy năm phút trước, lòng thòng vỏ cây bị móng vuốt của một bàn chân rất khoẻ nào đó xé rách tướp. Mặt khác, họ càng quanh quẩn trong làng, thì những con thú hoang càng táo bạo, chúng chạy tung tăng và rống lên trên những đồng cỏ bên bờ Waingunga. Họ chẳng còn bụng dạ nào mà dựng lại hay trát lại bức tường ngoài trông ra Rừng của những chuồng bỏ rỗng tuếch, lũ Lợn Lòi liền phá cho chúng đổ nát tan tành; những dây leo rễ có nhiều đốt lao ngay theo, ném những khuỷu tay háo hức của chúng lên mảnh đất vừa chinh phục được, và sau những dây leo là cỏ rậm sinh sôi.
Những người không có vợ con chạy trốn trước tiên, loan khắp gần xa cái tin làng đã cùng đường. Họ bảo, ai kháng cự nổi Rừng hay các vị Thần Rừng, khi chính con Rắn Mang Bành của làng cũng đã bỏ cái lỗ của nó dưới chiếc sân dưới gốc cây vả!
Sự giao tiếp của họ với thế giới bên ngoài càng giảm dần mãi cho đến khi xoá hẳn những lối mòn nhẵn thín đi qua khoảng rừng thưa. Cuối cùng Hathi và ba đứa con thôi không quấy động họ ban đêm với những tiếng kèn của chúng: chúng chẳng còn gì để làm ở đây nữa. Hạt thóc nằm dưới đất và hoa màu trên mặt đất đều biến mất cả. Những cánh đồng xa nhất đã mất cả hình dạng… Đã đến lúc phải ra đi.
Theo thói quen của người bản xứ, họ cứ hoãn đi hoãn lại mãi ngày lên đường. Chẳng bao lâu những trận mưa bắt đầu đổ xuống, và những mái nhà bỏ hoang ngỏ lối cho nước vào. Trên những cánh đồng cỏ, nước ngập đến mắt cá chân, và mọi loài cây cỏ ào ào xô tới sau những ngày hè nóng nực. Lúc đó họ ra khỏi làng trong bùn lội; đàn ông, đàn bà, trẻ con băng qua làn mưa buổi sớm mịt mù; và bằng một động tác tự nhiên, họ quay lại ném một cái nhìn vĩnh biệt về phía những mái nhà thân yêu.
Lúc gia đình cuối cùng lê bước dưới những đồ đạc nặng nề, đi qua rào chắn, người ta nghe thấy từ phía sau những bức tường tiếng răng rắc của những xà gỗ và mái tranh đổ sụp. Khoảnh khắc sau, vươn lên như một con bò sát đen sì, một cái vòi nhẵn thín hiện ra rải tung tranh rạ nát nhừ; và cái vòi lặn xuống và người ta lại nghe thấy một tiếng răng rắc đi sau một tiếng thét dữ tợn. Hathi vừa mới giật tung những mái nhà như người ta hái một khóm hoa súng dưới nước.
Nhưng một cái rầm nhà văng lên đâm phải nó. Nó chỉ đợi có thế để xổ ra hết sức lực, vì trong tất cả thú rừng, voi rừng nổi giận là con vật tàn phá điên khùng nhất. Nó xô đổ nhào một bức tường đất sét, bức tường nát vụn ngay lập tức và tan thành bùn vàng dưới trận mưa như thác đổ. Tiếp đó, nó vừa rống lên vừa quay người, lao vào những con phố hẹp, áp người vào những chiếc nhà bên phải và bên trái, lay những cái cửa long xòng xọc và những mái hiên lật ngược, trong khi ba đứa con lồng lộn ở phía sau, giống như ngày nào trong Cuộc Triệt Hạ ở khu đồng Burhpore.
- Rừng sẽ chôn vùi những chiếc vỏ hến ấy – Một giọng nói bình thản cất lên giữa đống vụn nát – Chính những bức tường vây quanh làng mới cần phải ném xuống đất.
Và Mowgli, mưa chảy xối trên hai vai và hai cánh tay trần, giống như một con trâu mệt đừ, từ một bức tường nhảy xuống, lấy lại thăng bằng.
- Việc nào cũng có lúc của nó! – Hathi thở phào – Ra tường vây, các con! Cúi đầu xuống! Đều một lượt! Dô ta, này!
Cả bốn đứng sát nhau cùng đẩy; bức tường vây đổ xuống, vỡ ra, tan vụn. Và những người dân làng kinh hãi đến lặng người, trông thấy trong khoảng tường vỡ hiện ra những cái đầu hung dữ lấm lem đất sét của những kẻ phá hoại. Thế là họ chạy trốn, không nơi trú ẩn, không gạo không muối, về phía đáy thung lũng, trong khi ngôi làng của họ bị băm vụn, nghiền tan, dẫm nát, biến mất ở phía sau lưng.
Một tháng sau, chỉ còn một gò đất mấp mô phủ một lớp áo xanh non cây cỏ là dấu vết ngôi làng; và đến cuối mùa mưa, tiếng sấm mênh mang của Rừng dữ dội gầm trên mảnh đất ấy, mảnh đất chưa đầy sáu tháng trước đã được lưỡi cày lật lên.