Hồi I
Tác giả: Sa Giang
TẢN MẠN
Nhà Minh sau khi diệt nhà Hậu Trần và tất cả các ổ kháng chiến cuối cùng, đặt quan lại và chế độ lệ thuộc Tàu, các quan lại hà khắc dân chúng tận cùng, nào lên rừng tìm ngà voi, trầm hương, mỏ vàng... nào xuống biển mò ngọc trai, đồi mồi, ốc xà cừ... thuế khóa nặng nề, dân chúng ta thán, khốn khổ, chúng còn bắt dân đi đào mỏ vàng, mỏ bạc tận rừng sâu núi thẫm, thi gan cùng hổ, báo, rắn độc...
Các thợ chuyên môn bị bắt sang Tàu xây cất dinh thự dền đài cho cung đình nhà vua và các quan to, tịch thâu hết các sách của tiền nhân đem về Tàu thiêu hủy hết...
Dân chúng phải học chữ Tàu, nói tiếng Tàu trong các dịch vụ, phong tục Tàu về mọi phương diện quan hôn tương tế, ăn mặc, lễ nghi phép tắc rập khuôn theo Tàu, học đường phải dạy chữ Tàu, nói tiếng Tàu, tóm lại cái gì cũng phải nhứt nhứt theo Tàu, ai làm trái kể như không còn chỗ sống.
Toàn thể dân chúng rất căm hận, mong có ngày quật khởi đuổi ngoại xâm tạo cuộc sống mới lạc nghiệp âu ca.
Các quan lại Tàu tha hồ vơ vét cho đầy túi tham không đáy, bắt dân chúng phục dịch thống khổ, coi mạng người rẻ rúng hơn thú vật. Tình hình càng rối ren do tham nhũng lan tràn, cường hào ác bá lại chồng lên đầu dân chúng hai tầng ách nô lệ thảm não biết bao nhiêu.
Nhiều vị quan thu thập được tài sản kếch xù, khó bề chuyên chở về Tàu, tìm cách chôn giấu bí mật kho tàng để con cháu sau nầy sang tìm về thụ hưởng với bí mật đồ lạ lùng kỳ bí, chỉ có thân tộc thừa tự mới thông suốt nổi.
Mỗi kho tàng bí mật là một lò sát sinh cho những ai vô tình hay cố ý muốn chiếm lĩnh phải bỏ mạng âm thầm, vì miếng mồi béo bở kho tàng kếch xù truyền tụng lại, chớ không ai biết rõ đường đi nước bước cùng những cạm bẫy chết người luôn chờ đợi kẻ nào dám phạm vùng cấm địa, muốn làm giàu bằng của phi nghĩa.
Kho tàng bí mật của họ dòng họ Quan còn thêm những thần giữ của, ma xó, thiên linh cái trấn giữ quanh kho tàng. Vòng ngoài những đàn rắn hổ nuôi trải qua bao nhiêu đời truyền tử lưu tôn, làm hang động vĩnh viễn, vô tình hay hữu ý làm cấm vào kho tuyệt đối. Bên ngoài là đàn cọp beo dữ tợn tranh giành nhau án ngữ, khó lọt qua. Cuối cùng là con quái long to lớn vĩ đại sống trên năm trăm năm trấn thủ Quái Long Đầm bao quanh một vùng rộng lớn, bảo mật cửa vào kho tàng bí hiểm sâu tận đáy đầm.
Kho tàng được thủ bị kiên cố nơi rừng sâu núi thẳm của vùng biên giới Trung – Việt trong phạm vi dân tộc Nùng sinh sống, khiến nhiều mạng người bỏ mạng do vô tình di chuyển ngang qua vùng cấm địa đi săn bắn hay dịch vụ rừng núi.
Nhưng thừa tự có trách nhiệm canh giữ kho tàng, không mấy khó khăn khắc phục những phòng thủ kiên cố đó, vì họ là thừa tự chủ nhân ông đang giữ trong tay bí mật đồ, một chìa khóa đặc chế truyền tử lưu tôn sau nầy con cháu tìm đến cùng thừa tự khai quật kho tàng mang về khuếch trương hung thịnh kiến họ.
–––– o0o ––––
I. CHUẨN BỊ HÀNH TRÌNH
Quan Thích Đản thiếu chủ Quan Gia Trang danh giá, quí gia vọng tộc, tài giỏi về cung tên đao kiếm lại thêm thi phú văn chương trác trác tuyệt, xuất khẩu thành thi, mọi người tán thưởng, với người em gái Quan Thu Hương, yểu điệu thục nữ, cũng giỏi kiếm cung thi phú tương đương với bào huynh. Cả hai anh em lo hồi phục gia sản của cha ông để lại, còn khuếch trương thêm hùng hậu gần khắp tỉnh Hồ Bắc, gia nhân hàng ngàn, làm ăn phấn chấn đa số do tài cán thao lược của hai anh em.
—Em à! Nhân ngày giỗ tằng tổ kỳ nầy, anh tính phải có cái gì tân tiến hơn, chớ bổn cũ soạn lại hoài kết hiệu lực rồi đa! Làm sao động viên tinh thần thân tộc mình tự lực khởi sanh, chớ còn ỷ lại vào anh em mình mãi với quyền lực Trang chủ, không phát huy được tài năng và sáng kiến của họ để tăng thanh thế kiến họ mình với thiên hạ.
—Tức là anh muốn khuyến cáo họ phải tận lực cánh sinh, họ phải bung ra mở rộng địa bàn hoạt động tăng trưởng nền kinh tế riêng họ chớ gì?
—Đúng đó! Mình giúp phương tiện cho bà con mình tách ra mỗi người một phương phấn đấu với đời để tự vươn mình lên, đẹp mặt đẹp mày với thiên hạ, chớ còn ỷ lại vào Quan Gia Trang nầy mãi, anh ngại nếu rủi ro có chuyện không may xảy đến như giặc giã, cướp bóc, thiên tai... tài sản nầy tiêu tan, lấy đâu chu cấp cho họ sinh sống?
—Được rồi! Sau khi anh đọc văn tế lễ giỗ tằng tổ, tới phần em hoạch định phương án mới để thân nhân bà con mình thảo luận có nên làm hay không? Và nếu được đồng thuận, làm cách nào thực thi chu toàn phương án?
—Anh còn nhớ phụ thân trước khi chết có trối lại: «Theo gia phả của tổ tiên để lại, còn một tài sản kếch xù nằm bên Việt Nam do Bí Mật Đồ truyền lại, thừa tự nhơn giữ bí mật đồ sống truyền tử lưu tôn, theo gia đình bên vợ dòng dõi người Nùng sống rải rác trên các vùng rừng núi hiểm trở của Việt Bắc, đến nay trải qua nhiều đời rồi, không biết xiêu lạc về đâu, vì không có thông đạt tin tức từ mấy đời rồi»?
—Theo em nghĩ, nếu chiếm hữu được tài sản tổ phụ, chúng mình chia chác cho thân nhân tung ra lập nghiệp rộng lớn dễ dàng, dương oai Quan lên với thiên hạ, chẳng những Hồ Bắc mà còn lan rộng đến những địa phương khác nữa.
—Cái khó là làm sao truy tầm ra con cháu Bá Cao tổ nầy, để có bí mật đồ mới khai thác kho tàng được.
—Em đề nghị như thế nầy nhé! Dân tộc Nùng ở rải rác từ biên giới Lạng Sơn qua tới Móng Cái, anh em mình chia hai mỗi người một đầu truy tầm trở vô hẹn gặp tại Đông Hưng. Ai tới trước phải đợi, trong thời hạn một năm, nếu người kia chứa đến điểm hẹn, ra công truy tầm lại tông tích người kia. Nếu đã gặp được tông tích Cao Bá Tổ thời phải lập tức tìm nhau thông báo để hiệp lực khai thác kho tàng.
—Đồng ý! Nhưng nếu cả hai đều thất vọng cả thì sao?
—Anh nên nhớ «Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn»! Chúng mình hy sinh bao công khó nhọc vào sinh ra tử mưu cầu phú cường hóa bổn tộc, lẽ nào không thành công sao anh?
—Nhưng anh lo cho em nữ nhi dặm trường nguy khổn, anh đâu đành lòng!
—Anh lo thân anh đi, em cũng biết tự lo lấy thân chớ, ngộ biến tùng quyền, đâu có chịu thiệt thòi dễ dàng đâu anh!
—Được rồi! Em cương quyết, tức nhiên em đã có kế hoạch riêng, anh không lạm bàn nữa. Bây giờ lo chuẩn bị chu tất đám giỗ tằng tổ xong rồi sẽ tính thêm.
Trọn ba ngày liên tiếp, bà con thân tộc tập trung về lễ cúng đông đảo đến cả mấy ngàn người chung một tằng tổ.
Ngày đầu tiên lễ bái Tiên thường, Quan Thích Đản trước mặt bà con trong phòng hội đại gia đình trước bàn thờ tổ trang nghiêm, hương đăng trà quả cùng lễ vật dâng cúng dẫy đầy trên mấy cỗ bàn hai bên chánh điện thờ, đọc diễn văn khai mạc, chào mừng thân nhân tông tộc về đảnh lễ, bổn tộc theo thứ tự dòng họ lễ bái nhịp nhàng trang nghiêm theo lễ nhạc tôn ty trật tự. Sau đó bà con thân nhân giới thiệu lớp trẻ, nhìn nhận thân nhân cật ruột với nhau, theo vai vế có nhiều người nhỏ tuổi có cháu lớn tuổi hơn nhiều, nhờ truy lục gia phả hoàn toàn chính xác. Thủ tự viên mang gia phả ra ghi thêm số người mới sinh thêm cùng số người thất lộ trong năm qua, luôn giữ cả họ tên cho khỏi trùng tên họ tổ tông.
Đồng thời ghi thêm công trạng của tông đồ tử tôn làm nên danh phận, quyền tước vinh sang, thương gia đại phú, cùng những trại chủ nông, ngư, lâm, súc phú cường, được tuyên dương lên như một thành tích vinh dự cho tông tộc.
Ngày thứ nhì lễ bái Chánh kỵ có đọc văn tế do Quan Thích Đản kể lại công đức tằng tổ, để con cháu tưởng niệm lại công danh sự nghiệp tổ tiên đã dầy công tô điểm nên. Mọi người chúc tụng nhau vui vẻ, ăn uống tiệc tùng ca nhạc chuyện trò thân mật cho tới buổi chiều tái lễ, Quan Thu Hương trình bày phương án khuếch trương công kỹ nghệ và công danh sự nghiệp. Cuối cùng để có phần tài chánh yểm trợ cho phương án, Thu Hương đề nghị truy tầm kho tàng của tổ tiên còn lưu lại ở Việt Nam. Mọi người quan tâm theo dõi cho đến hết bài diễn văn hấp dẫn do phát ngôn viên thanh nhã, lãnh lót du dương làm say mê mọi người lắng đọng tâm tư hiểu thấu mọi ý nghĩ của nữ thiếu chủ Quan Gia Trang. Dứt bài diễn văn mà âm hưởng còn kéo dài cho đến một lúc sau mới vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt.
Đến phần thảo luận, trên bàn chủ tọa đoàn, những vị trưởng lão uy nghi trong lễ phục, chấp hành nghiêm chỉnh trình tự thảo luận: Người đề nghị cho vay tiền tông tộc để khuếch trương công kỹ nghệ, người tình nguyện trả lại số vốn đã vay mượn năm rồi, để cho người khác tiếp nối, người thừa tiền đóng góp vào tông quỹ chi tiêu trong mọi việc quan hôn tang tế, hay cho vay mượn tạo lập sự nghiệp, người đề nghị đóng góp tu bổ Từ Đường rộng lớn thêm lên cho đủ tiện nghi tối thiểu cần thiết cơ ngơi cho con cháu tựu hội về mỗi lần giỗ oải lớn hay Tết nhứt, lại có người đề nghị mở ra ngôi trường đào tạo thế hệ nối tiếp về văn chương và võ thuật với những bậc thầy tài giỏi trong kiến họ.
Phương án quan trọng nhứt trong phần thảo luận về khuếch trương công kỹ nghệ và công danh sự nghiệp, cần số vốn đầu tư quá lớn, ngân sách tông tộc không gánh vác nổi.
Quan Thích Đản nêu lên ý kiến theo di chúc kiến họ còn một kho tàng tổ tiên còn ở Việt Nam, thủ lãnh viên Bí Mật Đồ truyền tử lưu tôn trong vùng dân tộc Nùng thượng du Việt Bắc có lẽ còn canh chừng kho tàng không để ai khai phá, đến nay không còn liên lạc về Quan Gia Trang nữa, có lẽ do biến cuộc chiến tranh hay gì đó. Có người đưa ý kiến truy tầm ra thân thích thất lạc gom về cho biết tông tộc. Một câu hỏi hóc búa là ai dám đứng ra lo việc truy tầm lại thân nhân ở Việt Bắc?
Mọi người im phăng phắc không ai dám đảm nhiệm trách vụ thiêng liêng nầy cũng do phần nào thiếu bản lãnh.
—Tôi, Quan Thích Đản, nếu quí vị thân nhân bận rộn sinh kế gia đình, không thể gánh vác sứ mạng nầy, tôi xin đứng ra lo chu toàn phần hành nầy.
Một tràng pháo tay nổ vang đội cả hội trường cũng là nhà tiệc vui chơi hỉ hạ.
—Kế tiếp, tuy là phận nữ nhi, tôi cũng xin tiếp bớt phần nào trọng trách của bào huynh, Quan Thu Hương xin tình nguyện chung sức với bào huynh trên bước đường vạn dậm truy tầm thân nhân và kho tàng tổ tiên để lại.
Một tràng pháo tay lại nổ vang lên nữa với bao ánh mắt thán phục anh em Quan Thích Đản dấn thân vì đại nghĩa của gia đình tông tộc.
Đến ngày thứ ba lễ bái Hậu thường, mọi người lo thanh toán tiền nong vay trả, đóng góp vào ngân quỹ Tông tổ, cùng đệ nạp những đồ án dự trù sẽ triển khai, để ban lãnh đạo gia trang nghiên cứu. Xong rồi, lần lượt mọi người từ giã cất gánh trở về bổn quán tiếp tục sinh kế, sau khi chúc tụng anh em Quan Thích Đản:
«Kỳ khai đắc thắng Mã đáo thành công và tai qua nạn khỏi».
Hai anh em lo tiễn đưa thân nhân ra về hết, sắp đặt công việc ở gia trang chu toàn, giao trách nhiệm bảo vệ gia trang và thúc đẩy việc làm thường xuyên.
Anh em khăn gói lên đường xuôi về miền Nam, vùa đi vừa lo học tiếng Nùng theo sách vở mang theo chẳng mấy ngày đã đến biên giới Việt Trung chia làm hai ngã: Thích Đản đi xuống Lạng Sơn đổ ngược ra Mong Cái, còn Thu Hương xuyên qua Đông Hưng xuống Trà Cổ đến Móng Cái, bắt đầu theo biên giới trở về Cao Bằng, Lạng Sơn.
–––– o0o ––––
II. TRANH HÙNG CÙNG ÁC THÚ
Quan Thích Đản lặn lội trong rừng sâu núi thẳm, tra tìm nơi những gia đình người Nùng, hỏi thăm tung tích nhóm họ Quan, nhưng họ chỉ có biết họ Ninh, Nông, Woòng, Chênh... chớ chưa thấy họ Quan.
Ngày đi đêm nghỉ, ngủ nhờ nhà đồng bào Nùng. Cả mấy tháng trường rong ruổi cực nhọc, nhưng không nản lòng khi nghĩ đến câu em gái đã khuyến khích: “Hoàng thiên bất phụ hiếu tâm nhơn”, mặc dầu nhiều lúc phải ngủ bên bờ suối hay trên cành cây, có khi phải ngủ trong hang động thâm u lạnh lẽo, thực phẩm chỉ có trái cây hay thịt thú rừng nướng ăn, đôi khi phải ăn cá bắt từ các dòng suối.
Trong một buổi chiều tà bên bờ suối, nhìn quanh không thấy ngọn khói lam chiều của cư dân, ngồi trên tảng đá, nhìn bầu trời hiu quạnh tĩnh mịch của buổi hoàng hôn, tai nghe ríu rít tiếng chim rừng về tổ ấm, trên cành cây kẽ lá, thả mộng hồn về tận quê nhà xa xăm, giờ nầy gia quyến quây quần bên bữa ăn thịnh soạn, tưởng đến em gái dặm trường bao chướng ngại chực chờ không biết đối phó ra sao? Có tìm được tông tích thân nhân chưa? Hay vẫn lặng lẽ một hình một bóng lãng du trên bước đường vất vả gian truân.
Đang nằm thoải mái lim dim đôi mắt tính tới cuộc nghỉ đêm nay phải ở tại bờ suối nầy dưới màn sương lạnh... Bỗng nghe tiếng gầm dữ dội của chúa sơn lâm trong cuộc ác đấu với cường địch... Thích Đản giựt mình tỉnh mộng, vụt đứng phắt dậy, hướng về phía tiếng hổ gầm phóng mình lao đi như tên bắn...
Chỉ một chập sau đến gần vách núi, thấy rõ hiện trường gay cấn giữa một thiếu nữ lanh lợi với ác thú quần thảo nhau mãnh liệt. Chàng dừng lại ngắm xem cuộc «tranh hùng cùng ác thú» của cô thôn nữ bạo dạn, vững vàng trong mọi tư thế né tránh hay tấn công con cọp to tướng. Cô ung dung lượn qua lượn lại như đi chợ chiều giữa những gian hàng đang dẹp tiệm, làm cho cọp lồng lộng lên phóng tới tấn công chỉa những đòn trảo công bén nhọn sắc sảo. Nàng tránh đòn trong đường tơ kẽ tóc, còn ra chiêu hoành cước vào hạ bộ cọp thần tốc, cọp đau điếng, gầm to tiếng lên, hoành mình vươn móng chụp xuống đùi cô gái, chỉ chờ cho chân cọp xuống gần tới, nàng rút chân lại ra sau một bước nhanh nhẹn, sẵn đà cọp đang lỡ trớn vuốt hụt, chúi nhủi tới trước chưa kịp định thân, nàng tấn một quyền dũng mãnh vào cổ cọp, đồng thời một phi cước nối tiếp vào mông cọp đạp nó té nhào tới trước lăn một vòng, nàng vẫn theo đà cho thêm một phi cước nữa vào ba sườn cọp, cọp hộc lên dữ dội, chụm bốn chân lấy trớn phóng mình lên, nhưng đã trễ, nàng theo đòn phi thân theo tống một quả đấm thôi sơn vào mạng hông cọp, khiến nó hoằn mình lại rơi xuống đất dợm bỏ chạy, nhưng Thích Đản vừa buộc miệng khen:
—Hảo thủ! Nữ hùng đả hổ! – Vừa phóng tới chận đầu cọp giáng xuống một chưởng quyết liệt vào đầu cọp, làm cọp thun mình lại từ từ run run ngã xuống.
—Ông nầy kỳ không? Việc giỡn chơi của bản cô nương có gì va chạm
quyền lợi của ông đâu mà xáng xả đập chết con cọp đang là trò trò chơi của bản cô nương?
—Xin lỗi cô nương! Tại hạ sợ nó chạy trốn mất, cô nương thất công truy tầm mệt nhọc, hơn nữa trời cũng gần tối rồi, nên dứt trận chiến cho sớm đặng cô nương về nhà nghỉ ngơi trong bữa cơm chiều ấm cúng.
—Ai cầu ông xía vô chuyện của bản cô nương? Việc nghỉ ngơi hay giỡn chơi với ác thú là quyền của bản cô nương ở nơi đây, chắc ông muốn trêu chọc bản cô nương để thử tài cao thấp chớ gì?
—Giang sơn nào, anh hùng nấy! Tại hạ xin thành thật nhận lỗi, xin quí cô nương cho biết quí danh để kính cẩn tạ lỗi phá đám cô nương.
—Ông nầy mới nhiều chuyện! Đã thiếu lịch duyệt với phụ nữ, còn vô lễ tra hỏi lý lịch, tại sao không tự xưng tên tuổi trước đi, rồi mới tiện thị hỏi đến tên họ người ta sau theo đúng lễ nghi phép tắc?
—Tại hạ quá khờ khạo trong lề lối giao dịch, xin thành thật nhận phần sái quấy, cầu mong cô niệm tình kẻ quê mùa tha thứ nhứt phen.
—Ông sao nham nhở quá! Không chịu xưng tên họ còn dang ca mãi, thôi bản cô nương không cần nói chuyện với hạng người không nghiêm túc, chỉ bông đùa.
Nói xong cô ả phóng mình băng qua núi rừng bỏ Thích Đản ngẩn ngơ một thời gian cho sự ngu xuẩn, đến chừng sực tỉnh, cô ta đã biệt dạng sau lớp rừng âm u tịch mịch. Bàng hoàng tự trách mình sao không tế nhị để do la tông tích kiến họ Quan, bây giờ mới ân hận thời sự đã rồi. Đường đi không rành, chọc giận người ta bỏ mình chơ vơ lạc lõng. Thiệt là ngu xuẩn trong lối đối nhân xử thế, nhứt là thiều tế nhị với phụ nữ nữa...
Than thở một hồi, leo lên một cây cổ thọ đến chán ba, chuẩn bị bẻ nhánh cây làm tum ngủ đỡ qua đêm... Bỗng nghe tiếng la thất thanh từ xa vọng lại của một người bị thương hay thọ nạn, vội vã tụt xuống phóng mình về hướng tiếng la vừa qua, mặc cho gai góc dưới chân, nhánh cây quẹt trên thân mình, cố gắng càng nhanh càng tốt, đến hiện trường cạnh sườn núi, thấy thấp thoáng bóng người đang gục đầu, khòm lưng rên xiết bên một tảng đá to. Tức tốc chạy nhanh tới, trong ánh sáng chập chờn mập mờ, cô thôn nữ ban nãy đang ôm chân thống khổ rên xiết, chàng liền phóng tới chụp đại vào chân nắm chặt chận những huyệt mạch ở cổ chân, hối hả hỏi:
—Cô bị gì mà rên xiết như vậy?
—Bản cô nương bị con độ xà cắn nhằm do bất cẩn.
—Không sao đâu, tại hạ có thuốc trị! Xin cô nương vén ống quần lên cho thấy vết răng cắn của rắn.
Cô gái ngồi bệt xuống cát, vén ống quần lên, nhờ cặp mắt cú vọ, Thích Đản thấy hết vết răng sâu vào bắp chân trái quầng thâm, chàng vội móc trong bọc áo lấy ra chai Long Đàm Mật, mở nắp, mùi thơm thoang thoảng, lấy ngón tay trỏ rà vào miệng chai dốc xuống cho Long đàm mật chảy ra chút ít trên đầu ngón tay, lật chai trở lại đậy nắp bỏ vào bọc, đoạn rà Long đàm mật vào hai vết răng tới lui ba lượt cho thấm vào vết thương, chàng dồn nội lực ấn xuống đẩy Long đàm mật chạy theo mạch máu triệt tiêu hết nọc rắn đang dấy động trong mạch máu.
Một khắc sau, cô gái thấy hết đau, mạch máu điều hòa trở lại, không còn vặn vẹo rên la nữa. Nàng hết còn kênh kiệu, tuy nét mặt mới trải qua cơn nguy kịch, nhưng vẻ đẹp giúp tăng thêm phần đài các, phong nhã.
—Kính thưa ân nhân! Tiện thiếp hoàn toàn hiểu sai ý tưởng của ân nhân, có mắt mà không có tròng để hiểu biết đâu là chánh nhân quân tử, từ trước đến giờ chỉ gặp bọn lục lăng thảo khấu, tiện thiếp đối xử không được nhã nhặn, có phần xúc phạm tôn giá, xin thành tâm nhận lỗi.
—Không có chi! Tại hạ khen ngợi cô nương tài ba xuất chúng, tranh hùng cùng ác thú, làm trò tiêu khiển, trên đời dễ có mấy ai!
—Những món quyền cước nơi miền sơn cước thô thiển có chi đáng giá với cả một rừng võ công trác tuyệt của Trung Nguyên, nội một chưởng nhẹ cũng đã vỡ sọ cọp rồi, một kỳ công trọn đời thiếp chưa được thỉnh giáo, bấy giờ thiếp tự hổ thẹn múa búa trước cửa Lỗ Ban, nên trốn chạy, nào ngờ trí óc còn ganh tị bất cẩn để rắn cạp nong cắn phải vào lúc chạng vạng rời hang đi tìm mồi. Thiếp mất nội lực khi đùa giỡn với cọp nên không còn đủ sức vận chuyển triển khai huyệt đạo ngăn chận nọc rắn, chỉ chờ chết thôi, may nhờ ân nhân không tị hiềm hờn giận, kịp thời đến giải cứu, thật vô vàn ghi đậm thâm ân cứu tử, hoàn sanh tái tạo, kính xin ân nhân vui lòng quá bộ đến tệ trang để cả gia đình thiếp tạ lỗi và tạ ơn.
—Tại hạ tên Quan Thích Đản, mấy tháng nay lặn lội trong rừng sâu núi thẫm cố tìm thân nhân họ Quan đã thất lạc từ nhiều đời.
—Tiện thiếp tên Linh Bửu Ngọc, gia trang ở bên sườn núi mờ mờ trước mắt đó, nhưng bị thương chân chưa bình phục có thể đi chậm một chút, xin ân nhân niệm tình tha thứ.
—Không gì trở ngại, cô nương cừ tùy tiện, nếu mệt thời nghỉ dưỡng sức, rồi tiếp tục đi nữa có sao đâu!
Cả hai vừa di chậm rải vừa trò chuyện võ thuật tương đắc lắm, đường đi bình thường chỉ khinh thân một khắc, nhưng khoan thai cuốc bộ chậm rải mất tới gần ba khắc mới tới nơi.
Thích Đản thấy gia trang rộng lớn nằm trọn trong thung lũng eo hẹp, bốn phía núi cao chớn chở, một dòng suối ngoằn ngoèo chảy lững lờ phản chiếu ánh trời đêm, lấp lánh giống như con rắn to lớn nằm uốn khúc, xuyên qua gia trang, cuối ghềnh một nhịp cầu cây nho nhỏ có lan can và những trụ treo lồng đèn lập lờ mờ tỏ, qua khỏi cảu, cái cổng uy nghi chễm chệ chân ngang đường đi vào gia trang, cửa đóng then gài, hai bên bờ cổng hàng rào lũy tre âm đềm óng ả, lả lướt những ngọn tre cao vút gụt gặt lên xuống theo từng cơn gió thoảng qua ngất ngưởng như những chiến binh phất cờ xung trận...
Đến cổng, Bửu Ngọc huýt sáo làm hiệu, cổng từ từ mở ra, hai vệ binh tuốt trần vũ khí nghiêm chỉnh đứng chào đón. Bửu Ngọc nói lên mật khẩu đáp ứng mật khẩu của hai vệ binh, lập tức hai vệ binh lui lại hai bước nhường lối cho Thích Đản và Bửu Ngọc song hành qua cổng, khom lưng cúi rạp chào kính. Cả hai khép cổng lại và trình báo:
—Kính Linh cô nương, Trang chủ đang chờ cô nương nơi hội trường.
—Bản cô nương biết rồi.
Bửu Ngọc vẫn thong thả sóng vai cùng Thích Đản đi thẳng vào bên trong, quẹo sang hội trường. Nơi đây đèn đốc sáng choang, cả hội trường im phăng phắc lắng nghe lời nói sang sáng dõng dạc của một vị đạo mạo lão thành, râu ba chòm ngồi trên bàn chủ tọa, hai bên có hai thanh niên cường tráng oai vệ nghiêm chỉnh ngồi với đôi mắt sáng rực trông xuống hội trường đông đảo thành viên ngồi theo thứ tự lớn nhỏ. Bửu Ngọc kéo Thích Đản đi vòng ra phía sau, khẽ hỏi hộ vệ viên:
—Buổi họp khai mạc lâu chưa?
—Kính thưa cô nương đã trên ba khắc rồi!
—Có phải họp về việc chống làng Tày bên cạnh không?
—Dạ đúng, chuyện đối phó với làng Tày về việc tuyên chiến giải quyết tranh chấp quyền lợi về giới địa săn bắn và đào củ mài.
—Gia gia có nhắc tới ta không?
—Dạ thưa nhắc nhiều lần rồi, còn dự định sai nhị vị công tử đi tìm cô nương nữa sau buổi họp nầy.
—Được rồi! Anh hãy vào thông báo cô nương đã về có thêm trợ thủ Trung Nguyên. Nhớ cho người đến khiêng thây con cọp nằm chết bên bờ suối Lũng Tây.
—Xin vâng!
Anh ta chạy vội vào kề tai nói nhỏ với Trang chủ. Lập tức Trang chủ ngưng ngay cuộc thảo luận, đứng dậy nghiêm nghị tuyên bố:
—Tiểu nữ đã về tới, có thêm trợ thủ Trung Nguyên. Xin toàn thể nghiêm chỉnh tiếp nghinh thượng khách!
Mọi người đồng loạt đứng lên nghiêm trang, trong lúc Trang chủ cùng nhị vị công tử ra cửa vái chào Quan Thích Đản, chàng vội vã thi đại lễ cúi mọp xuống ra mắt Trang chủ, khiến ông ái ngại vội vã bước tới đỡ Thích Đản lên
—Thật là một vinh hạnh cho thiểm trang được đón tiếp đại hiệp Trung Nguyên, xin thứ lỗi trễ tiếp nghinh.
—Kính xin lão bá lượng thứ cho tài hèn sức mọn thiếu trọn lễ cùng lão bá.
—Kính mời đại hiệp vào phòng hội để toàn dân bản trang chiêm ngưỡng trợ thủ Trung Nguyên.
—Dạ không dám!
Tất cả tươi cười, Trang chủ sánh vai cùng Thích Đản đi vô trước, kế đó nhị vị công tử và Bửu Ngọc theo sau. Cả hội trường vỗ tay reo hò hoan nghinh rộn rã.
—Tại hạ kính chào toàn thể chư liệt vị! – Thích Đản giơ hai tay lên chấp lại vái chào tứ phía đáp lễ.
Đến bàn chủ tọa, đã có sẵn thêm hai cái ghế, phân vai chủ khách cùng ngồi.
Trang chủ ngồi giữa Thích Đản và Bửu Ngọc, nhị vị công tử ở hai bìa:
—Kính chưa toàn thể quí chiến hữu, chúng ta đã từng chung lưng đấu cật nhau chống trả mọi áp bức của những bản làng khác trong vùng rừng thẳm núi non hiểm trở nầy, phép vua thua lệ làng, triều đình không có phương tiện giúp đỡ chúng ta, tự chúng ta phải chiến đấu bảo vệ từng khu rừng, từng con suối, từng mảnh đất để sinh tồn, truyền tử lưu tôn từ thuở nào đến bây giờ. Hôm nay, chúng ta hân hạnh đón tiếp một trợ thủ Trung Nguyên đang giá lâm trên đường hành hiệp giang hồ, thật là một vinh hạnh to tát cho toàn thể bản làng chúng ta. Bây giờ tôi xin trân trọng giới thiệu cùng quí vị một bực kỳ tài của đất Trung Nguyên Quan Thích Đản đại hiệp.
Thích Đản bất đắc dĩ phải đứng lên vòng tay thi lễ đáp lại bao tiếng hoan nghinh, pháo tay vang dội, chờ cho lắng đọng lại mới lên tiếng:
—Kính thưa Trang chủ, kính thứa cô nương Bửu Ngọc, kính thưa nhị vị công tử, kính thưa toàn thể quí liệt vị, thật là một vinh dự lớn lao cho tại ha trên bước đường truy tìm thân nhân họ Quan đã thất lạc từ lâu đời, được quí vị tiếp đãi hàng thượng khách, tại hạ muôn phần cảm kích, câu chuyện của quí vị đang lấm trận, cũng là của tại hạ trong thời gian tạm trú nơi đây. – Một tràng pháo tay vang dội tán thưởng ý kiến cao đệ và xác thực. – Bản làng nào đều có qui định ranh giới, không thể xâm phạm được, giang san nào, anh hùng nấy, tại hạ xin góp phần nào vào cuộc chiến nầy đền đáp lại tấm thạnh tình của quí vị đã đãi ngộ tại hạ. Thành thật cảm tạ và kín chào quí vị trong tinh thần đoàn kết và quyết thắng.
Một tràng pháo tay vang lên, với tiếng reo hò hoan nghinh tinh thần hào hiệp.
—Quí vị còn ý kiến nào nữa không? Nếu không, tôi xin tuyên bố bế mạc cuộc họp và xin nhắc lại lần nữa là mong quí vị hoàn thành kế hoạch đã soạn thảo. Kế tiếp xin kính mời toàn thể quí vị vui lòng dời gót ngọc, thọc tay vàng sang phòng Khánh tiết tham dự với chúng tôi một tiệc rượu trước tiên là vinh danh tinh thần võ sĩ của toàn thể quí vị, sau là đón chào thượng khách của chúng ta. Kính mời!
Mọi người tươi cười vui vẻ sang phòng Khánh tiết phân ngôi thứ ngồi vào bàn nhập tiệc vui vẻ.
—Ân nhân không rõ ý định của tiện thiếp là bắt sống con cọp về trình làng, làm lễ tế cờ vào ngày mai xuất quân. Nhưng ân nhân lại nông nổi vỗ nó chết đi, nên tiện thiếp nổi giận bỏ đi, mong tìm con cọp khác bắt sống đem về trình làng.
—À ra thế! Hèn chi tại hạ không thấy hạ độc thủ. Lỡ rồi xin niệm tình ngu xuẩn thứ lỗi cho.
—Bây giờ có lỗi phải gì cũng bằng thừa! Xin ân nhân bỏ qua những vụn vặt nầy, để cần yếu cho đại sự ngày mai.
—Như vậy cô nương chân còn yếu, xin nhường tại hạ việc bắt con cọp khác có được không?
—Ân nhân chê tiện thiếp đến mức nầy là hết ý. Có phải ân nhân khích tướng hay chăng?
—Cô nương không biết đó thôi, nọc rắn tuy đã giải trừ, nhưng một số hồng cầu và bạch cầu cần có thời gian tính thanh lọc lại cho sạch phải mất cả ngày mới xong.
—Cần gì lâu chỉ cần một khắc ân nhân chuyền nội lực thanh lọc là khỏi ngay.
—Thiệt ý đàn bà muốn là trời muốn! Sau màn tiệc tùng, tại hạ gắng sức một phen thử coi ra sao!
—Ân nhân quá đắn đo đi thôi!
Cả hai cười xòa vui vẻ nhập tiệc, mọi người ăn uống chúc tụng nhau nhiều cam ngôn mỹ từ, nhưng chưa biết ngày mai lâm chiến ai còn ai mất tang thương sắp đến.
—Bửu Ngọc con!
—Dạ! Con xin ứng hầu!
—Con lãnh sứ mạng bắt con cọp về làm lễ tế cờ vào ngày mai xuất quân, sao cha không thấy con cọp đâu?
—Kính thưa cha! Cọp bị thương nặng quá đã chết rồi, con đã cho người ra mang xác về để sử dụng trong việc lương thực. Sáng mai con sẽ bắt con khác về thay thế.
—Được rồi! Con liệu cho kịp trước giờ Thìn (bảy tới chín giờ sáng), lễ tế cờ xuất quân đó nghe!
—Dạ! Con xin tuân lịnh!
—Thế nầy là tại hạ hại cô nương rồi. Bây giờ làm sao tìm ra con cọp khác đây?
—Không sao đâu! Ân nhân không phải thổ địa tài thần bổn cảnh, e ngại là phải, chớ còn tiện thiếp bản địa, biết rõ chỗ cọp nghỉ, cả giờ giấc đi về, săn mồi.
Cứ yên chí lớn, miễn sao cơ thể thiếp bình phục là mọi việc xuôi chảy hết. Mãn tiệc, Bửu Ngọc dẫn Thích Đản về thư trai phòng để Thích Đản chuyền nội lực vào tiếp sức từ huyệt Song Long và sau đó là huyệt Kiên Tĩnh, chỉ trong vòng một khắc, Bửu Ngọc tươi rói xinh đẹp bội phần, không còn yếu đuối nữa, trở lại bình thương. Nàng dẫn Thích Đản vào hậu phòng ra mắt thân mẫu, nói rõ trường hợp gặp Quan Thích Đản, mặc dầu đã khuya rồi, nhưng Bửu Ngọc xin phép mẹ đi bắt con cọp khác về cho cha làm lễ tế cờ vào sáng ngày mai khi xuất quân.
Thích Đản cùng Bửu Ngọc khinh thân vào màn sương như đôi bóng ma chập chờn mất hút sau rặng cây rừng bên ngoài chiếc cầu gỗ. Bửu Ngọc đi trước Thích Đản theo sau bén gót. Đến trước một cái hang sâu thăm thẳm, phảng phất mùi tanh tưởi của những xương khô rải rác từ miệng hang trở vô.
—Cọp đi tìm mồi chưa về.
—Nhờ đâu cô nương biết?
—Với mùi tanh tưởi của xương khô, biết cọp có ở trong hang hay không do phân biệt mùi tanh pha lẫn mùi máu cũ hay mới. Cũ có mùi tanh khoăm khoẳm khó ngửi do máu đã khô, còn mới chỉ có mùi tanh thoang thoảng thôi. Có khi cọp tha mồi về hang nằm ăn cho khỏi bị những con khác tranh giành, nhiều khi ăn mồi tại chỗ, song râu mép còn dính máu có mùi vị tanh của máu dễ biết lắm. Ân nhân nên nhớ, dù hang sâu cách mấy, cọp không bao giờ thích ở trong sâu, thông thường cách miệng hang một khoảng ngắn, một là thoát ra ngoài cho kịp khi bị tấn công, hai là tránh hỏa công do người thợ rừng thường dùng trị cọp, ở trong sâu chạy ra không kịp, cọp đành chịu chết cháy thành cọp quay. Thông thường giờ đi tìm mồi của cọp lúc trời vừa tối, ban ngày cọp thích ngủ, ở trong hang giỡn chơi với cọp con, tới gần sáng cọp mới về hang, có khi sớm hơn khi bắt được mồi sớm. Bây giờ chúng ta ở đây chờ nó về ra tay bắt nó không khó, còn đi tìm nó tốn công, không biết ngả nào mà tìm.
—Cô nương rành sáu câu quá rồi, tại hạ mới học nghề nghe giảng bài bắt cọp lý thú quá.
—Ân nhân cứ ngạo thiếp hoài, một vài tiểu xảo làm sao qua mặt được ánh thái dương, ân nhân cao cả trượng nhân, còn thiếp mỏng mảnh cánh chuồn làm sao dám sánh cùng ánh thái dương. Suýt!
Bửu Ngọc đưa ngón tay búp măng lên miệng khẽ suỵt, đôi mắt long lanh ngời sáng nhìn vào màn đêm của rừng rậm đến tận vách núi. Thích Đản cũng ngưng thần dồn nội lực lên nhãn tuyến nhìn xuyên qua bóng đêm lờ mờ ánh sáng của những chòm sao nhấp nháy, che khuất lốm đốm bởi tàng là cây rừng. Từ xa một cặp linh quang xanh lè lung linh hướng về miệng hang. Bửu Ngọc chỉ về hai ngọn lân tinh di động ngập ngừng chậm rải từng bước nhẹ nhàng trên lá đẫm hơi sương. Cả hai thủ thế hai bên miệng hang, không động đậy, mở dây thắt lưng ra chuẩn bị để cột cổ cọp dẫn về.
Nhưng cọp tinh thông, không đi vào hang, lại rẽ sang bên trái đi thẳng tới bờ suối, khòm đầu xuống uống nước bằng lưỡi cuốn nước lên nghe tróc trách... Bửu Ngọc vội khinh thân nhẹ nhàng theo sau cọp, làm Thích Đản cũng phóng theo, cả hai không hẹn cùng tung chưởng một lượt vào bàn tọa cọp đang uống nước.
Chưởng lực quá hùng hậu đẩy cọp bất thần lãnh hai qua đập vào mông đít, sụm đít xuống, đầu chúi nhủi xuống nước hụp hử rán cơi lên cho khỏi bị ngộp nước, chỉ chờ có thế, Bửu Ngọc nhanh nhẹn nhảy phóc lên lưng cọp, thò sợi dây thắt lưng lòn tréo xuống vai và cổ cột lại thành cái gút chắc chắn, đoạn vỗ một chưởng xuống bên hông cọp quá mãnh liệt, khiến cọp lật ngang qua gầm lên dữ tợn, hai chân trước bơi bơi quậy nước.
Thích Đản nhảy xuống cột đầu mối dây vào cái gút trên lưng cọp, đồng thời vỗ một chưởng vào bản họng cọp khiến nó hết gầm gừ. Thuận đà tống một cước vào ức cọp, làm cọp bị tung đầu lên, sẵn trớn Bửu Ngọc bồi thêm một cước nữa, khiến cọp hộc máu miệng ra, toàn thân bị đẩy ngược lên bờ suối nằm ngửa quơ bốn vó lên không, bơi bơi bún bún trong khoảng không. Thích Đản vội kéo rịt sợi dây, làm cho cọp bị lật úp xuống, mới chỏi bốn chân đứng lên được, hai chân sau yếu đuối run run. Thích Đản kéo mạnh sợi dây, trong lúc Bửu Ngọc vỗ một chưởng vào lưng đau điếng, cọp riu ríu bước theo sợi dây kéo thẳng. Thích Đản đổi chỗ cho Bửu Ngọc đi trước dẫn đường, còn chàng đi sau tập hậu. Cọp không dám cãi nữa, mỗi lần khựng lại là lãnh một chưởng xuống lưng đau thấu Ngọc Hoàng, dẫn cọp đi nhởn nhơ nhưng luôn luôn thủ thế, sợi dây giữ thẳng thừng.
Trong màn sương đêm bóng hình chập chờn của cuộc dẫn độ cọp về rất linh động xa trông như hai người dẫn một con chó to đi dạo mát nhởn nhơ dung giăng dung giẻ trong buổi chiều tà mát mẻ.
Về tới nhịp cầu nho nhỏ bắt ngang qua dòng suối trời mới hừng đông. Vệ sĩ mở cổng đón chào thấy Bửu Ngọc ung dung dẫn cọp đi ngao du lấy làm thích thú cười vang, báo hiệu cho nhiều người khác chạy ra xem màn «Dẫn cọp về làng tao nhã».
Trang chủ Linh Hải hãnh diện thấy con gái mình dũng lược không thua nam nhi, đem cọp cột tại cột cờ, cả hai luôn canh chừng túc trực không dám đi đâu đề phòng bất trắc. Trẻ con túa ra xem cọp bị bắt như thể con mèo to lớn, ngồi chồm hổm đầu ngoẻo qua ngoẻo lại, thỉnh thoảng lãnh một chưởng do muốn bứt dây phóng chạy, đành chịu trận để cho lũ trẻ chế nhạo đủ điều, thiệt khổ thân cho tên bại trận đang sắp sửa làm vật tế thần xuất quân.
–––– o0o ––––
III. TRẬN CHIẾN KHỐC LIỆT GIỮA CÁC SẮC TỘC BIÊN GIỚI
Đầu giờ Thìn, đội ngũ chỉnh tề, Linh đông Hải y phục võ tướng uy nghiêm chỉ huy cuộc hành quân có trợ tá nhị vị công tử uy nghi võ phục hai bên và Thích Đản cùng Bửu Ngọc, đứng trước mọi người dõng dạc tuyên bố «Quyết chiến» mọi người rút binh khí giơ lên tuyên thệ trung thành tuyệt đối với bản làng.
Linh đông Hải từng bước đến cột cờ rút gươm ra hươi ba vòng thi lễ tế cờ và vung gươm chém bay đầu con cọp, máu vọt ra có vòi, ông trương lá cờ bản làng do thị binh cầm cờ trao cho múa mấy vòng ngang qua vọt máu cọp thấm đỏ cả lá cơ, trong lúc thân mình cọp từ từ ngã xuống trong một trang trọng uy nghi của tướng soái Linh Đông Hải phất ngọn cờ ra lịnh xuất quân, đoàn quân bắt đầu vừa vung vũ khí vừa nhịp bước theo giàn âm nhạc kèn trống do Linh Đông Hải dẫn đầu kế bên là thị binh mang cờ phát tới sau đó nhị vị công tử và các đầu mục bản làng, cuối cùng Thích Đản cùng Bửu Ngọc đi tập hậu.
Đoàn quân hùng dũng tiến qua khỏi cầu gỗ, tiếp tục tiến bước quân hành, đằng đằng oai dũng hướng về phía Tây trực chỉ. Đoàn quân kéo dài trên một dậm đường đi hàng đôi, mỗi đội có 50 người với một đầu mục chỉ huy cùng các phụ tá, tất cả 10 đội quy luật nghiêm chỉnh, Thích Đản cùng Bửu Ngọc đốc chiến đi đoạn hậu.
Khi đoàn quân ra khỏi cổng hết, đàn bà và các vệ binh có trách nhiệm lương thực và tải thương, lo việc nấu nướng và làm thịt hai con cọp làm đồ ăn vĩ vèo thêm bò heo cho đầy đủ lương thực do bà Đông Hải chủ trì.
Đoàn quân đi đến giờ Ngọ đến địa điểm ranh giới tranh chấp giữa hai sắc tộc, Đông Hải dàn trận xong đối diện với trận địa của sắc tộc Tày, cũng cờ xí trống phách ỏm tỏi.
—Kính xin quí vị lãnh đạo sắc tộc Tày, – Đông Hải lớn tiếng dõng dạc —Kính xin quí vị xây đắp tình hòa khí giữa hai bản làng chúng ta, hơn là phải giải quyết bằng võ lực. Chúng ta co thể giải binh hội họp nhau giải quyết những va chạm giữa hai sắc tộc.
—Giang san là của chung, mạnh thời giữ vững cơ đồ, yếu thời rút đi nhường chỗ cho công cuộc phát triển kinh tế sắc tộc. Nếu không thỏa thuận điều kiện tiên yếu nầy, thời chỉ có võ lực mới giải quyết tranh chấp.
—Như thế quí vị không còn giữ hòa khí từ trước đến giờ nữa rồi.
—Mạnh được yếu thua lẽ hẳn nhiên rồi, không thể chịu nhục nhã bồi thường gì cả.
—Quí vị ép chúng tôi vào bước đường cùng rồi!
—Đương nhiên! – Một chuỗi cười ngạo nghễ... —Tiến! Sát!...
Tiếng trống trận vang rền, hai bên binh khí vung lên lăn xả vào nhau chém giết. Linh Đông Hải đi dầu oai vệ lưỡi gươm lia tới đâu từng thây người gục ngã, đầu rơi máu chảy lênh láng với phụ lực của Linh Đông Sơn và Linh Đông Vân hết sức uy vũ, cả hai vị công tử hăng say vung kiếm chém tả chém hữu, tiến bước mãnh liệt oai hùng, Linh Bửu Ngọc và Quan Thích Đản hùng dũng tiến tới đâu máu đổ thịt rơi đến đó.
Các tướng lãnh Tày cũng phương cường tiến tới cho tới khi gặp đối thủ mới thấy cục diện linh động hãi hùng giữa hai bên: Thủ lãnh Tày gồm có mười tay kiếm sĩ dương oai diệu võ với bên Nùng chỉ có năm người, trận chiến ác liệt tung hoành giữa trận tiền gay cấn nhứt.
Thích Đản huy lộng thần kiếm phi thân đến chém ngã được hai người, trong lúc tám người kia đang vây hãm cha con Đông Hải, quân Tày đông hơn nên cứ chết và ngã lớp nầy đến lớp khác tiến tới do Chúa tể Tày thúc quân chỉ huy trận chiến. Thích Đản hiểu rõ tình thế, vội phi thân đến hươi kiếm chém chúa tể Tày, khiến cho ông ta phải ngưng dùi trống thúc quân đưa đao ra đỡ và chiến đấu dữ đội với Thích Đản.
Tình thế chuyển biến thế thượng phong cho bên Nùng, là không có tiếng trống thúc quân của Chúa tể, hậu bị quân Tày đang chờ lịnh, tức tối khi thấy đồng bạn ngã gục càng lúc càng nhiều, nhưng chưa có trống lịnh, đành đứng ngó thảm thương cho đồng bạn cứ bị tha hồ cho binh Nùng sát phạt.
Chúa tể Tày nhìn thấy rõ cục diện nhưng bị Thích Đản dồn dập tấn công ráo riết không có tướng nào ra hỗ trợ do đã xáp trận với cha con Đông Hải, bị ngã hết ba người, chỉ còn lại năm người đương đầu với kiếm pháp uy vũ của đối phương.
Chúa tể Tày chém một đường đao độc hiểm mong phá vỡ đường kiếm Thích Đản hầu chém vè, nhưng Thích Đản đã biết rõ ý định, muốn bớt đổ máu thêm nữa vì thế thượng phong đã ngã về bên Nùng hết bảy phần rồi, nên giả bộ loạn xị tung kiếm đỡ gạt cầm chừng, nhờ thế Chúa tể Tày phóng mình vọt đi đến bên cái trống do một vệ binh ôm giữ, khua lên hồi trống rút quân. Lập tức tất cả quân Tày đương chiến đấu hăng say cũng ngưng chiến rút bỏ chạy theo chúa tể ra khỏi vòng chiến, trong lúc hậu bị quân vẫn đứng bảo vệ cho toàn quân rút ra khỏi trận chiến, giàn quân một mặt trận án ngữ.
Linh Đông Hải cũng truyền trống lịnh thâu quân lui lại, giàn quân phòng thủ.
Lúc bấy giờ đã sang giờ Thân, đoàn tiếp tế lương thực đã đến từ lâu sẵn sàng lo bữa ăn chu đáo chờ đợi. Đoàn tải thương lo săn sóc thương binh, và đoàn tải thi lo khuân xác đồng đội mang về gia trang tẩn liệm quàng ở phòng hội. Mọi người giải lao ăn uống ngon lành lấy sức, kiểm điểm lại thấy bị thương hai mươi bảy người, chết hết mười bốn người trong lúc trên trận tiền trên hai trăm xác chết của quân Tày nằm la liệt cùng với thương binh máu chảy dầm dề nơi bãi chiến, nhưng quân Tày chưa chịu bãi binh, nên Đông Hải truyền lịnh cho các đội trưởng sắp xếp canh tuần phòng thủ nghiêm nhặt.
—Con xin đề nghị với cha, cho con cùng Quan ân nhân đi thám thính, xem động tĩnh ra sao, sẽ trở về trước khi tối.
—Cha đồng ý! Nên thận trọng đừng sơ suất, cố tránh giao chiến vọng động.
Thám thính cần tính toán kỹ lưỡng, khi ẩn khi hiện, xuất kỳ bất ý theo đúng chiến thuật.
—Con xin ghi nhớ lời cha dặn.
Cả hai nghiêng mình kính cẩn chào Đông Hải, phóng đi nhanh nhẹn, đến chiều tối trở về:
—Thưa cha! Con thấy đối phương tập hợp thêm nhiều thanh niên thiếu nữ bổ sung vào đội quân sắp xuất trận, có lẽ tối nay chúng phản công dữ dội và có thể tử chiến một trận nữa.
—Kính thưa Trang chủ, binh quí do thần tốc, kính xin Trang chủ cho tại hạ một cánh quân nhỏ mai phục bên đường, chờ chúng sáp thiến, toán mai phục của tại hạ sẽ tung ra đánh thốc từ sau lưng địch, lưỡng đầu thọ địch, chúng hoang mang là quân ta nắm chắc phần thắng.
—Thưa cha! Theo những thương binh địch bị bắt làm tù binh khai, thủ lãnh Tày nhứt định đánh mãi cho đến khi nào toàn thắng mới chấm dứt chiến tranh.
—Được rồi, tương kế tựu kế, tối nay mình lẻn tới bản làng của chúng tấn công vô, vì lực lượng chúng kéo hết ra trận chiến tối nay, chúng sẽ nguy khốn hết còn tiếp cứu lẫn nhau, thế là chúng hoàn toàn bại trận cho xem!
—Con nghĩ đúng! Vậy ai dám lãnh phần đánh vào bản làng của chúng tối nay?
—Hai con xin lãnh phần nầy, chỉ cần năm mươi người là đủ và chúng con sẽ tự soạn thảo kế hoạch tấn công chu toàn.
—Được! Cha hài lòng về cương quyết của các con, cha phân các đội Tiền phong tiến binh đánh bản làng Tày. Đội Hậu tập phục kích đánh bọc hậu. Năm đội giàn mặt trận, còn ba đội hậu bị quân tiếp ứng các đội kia.
Đội Tiền phong và đội Hậu tập lặng lẽ âm thầm bí mật kéo đi, chỉ có năm đội giàn mặt trận kèn trống oai vũ, cờ xí chỉnh tề lo giàn mặt trận sắp đặt cung tên núp vào các gốc cây làm chỗ dựa, ba đội hậu bị quân nghỉ ngơi cho khỏe hầu tiếp ứng kịp thời. Các đạo quân dàn trận chuẩn bị đuốc để xáp trận vào đêm khi truy lùng địch quân.
Quả đúng theo dự tính, đến nửa đêm, toán quân hùng hậu của Tày kéo tới đông đảo, tấn công dữ dội, bị giàn xạ tiễn quật ngã nhiều tên đi đầu, nhưng chúng ỷ đông vũ bão tiến tới tràn ngập bãi chiến trường hung hăng chém giết loạn đả, nhưng bất ngờ hàng ngũ rối loạn do bị đám phục kích nhứt tề từ sau đánh tới, chém chết rất nhiều, khiến chúng mất hết tinh thần chiến đấu, phần trời tối mờ mờ, chém giết lẫn lộn với nhau, riêng đội phục kích ở trần dễ nhận ra nhau nên không bị hại nhiều, lúc bấy giờ hậu bị quân ứng chiến tiến lên, đuốc cháy sáng rực xông xáo vao trận, khiến đạo quân Tày tan rả, mạnh ai nấy chạy rút về bản làng. Nhưng dân chúng già trẻ đàn bà con nít nhốn nháo nhau kéo chạy như đàn ong vỡ tổ, nhìn về bản làng xa xa ánh lửa bốc lên sáng rực góc trời, cả bọn bị truy binh Nùng tấn công ráo riết cho tới sáng, chúng chạy lên tới núi dừng binh chống trả.
Linh Đông Hải truyền lịnh dừng binh chờ động tĩnh. Linh Đông Sơn và Linh Đông Vân dẫn quân đến tiếp vây chân núi, kế đó Thích Đản cùng Bửu Ngọc cũng tiến tới hùng hổ toan đánh lên núi. Nhưng quân Tày kéo cờ trắng đầu hàng.
—Kính thưa cha! Mình nên rộng lượng đừng đòi hỏi bồi thường gì cả, theo con thấy tổn thất của địch gấp mười lần bên ta, bản làng đã bị đốt hết, thương binh và tử sĩ của họ cũng quá nhiều
—Cha tán thành! Nhưng cha bắt buộc chúng nó phải tuyên thệ không xâm lấn bờ cõi nữa mới được, để hai bên giảng hòa và chung sống với nhau.
Quan Thích Đản vướng vòng trận chiến khốc liệt giữa các sắc tộc, còn Quan Thu Hương, thân gái dậm trường ra sao?
–––– o0o ––––
IV. THÂN GÁI DẶM TRƯỜNG
Sau khi chia tay ở ngã ba, Quan Thu Hương đơn thân chiếc bóng lầm lũi đi về phía Đông Hưng tiến sang lãnh thổ Việt Bắc, rừng núi trùng trùng điệp điệp xuyên qua Thập Vạn Đại Sơn đến làng Trà Cổ gần bờ biển, Thu Hương bắt đầu chuyển hướng qua Móng Cái. Đi tới đâu, gặp người Nùng, đều dọ hỏi tông tích của họ Quan, nhưng chỉ được biết họ Woòng, Ninh, Nông, Dịp, Linh, U, Bái... Vẫn không nản chí, cứ ngày đi đêm nghỉ, ngủ trọ chỗ nấy chỗ kia, có khi ngủ trong hang động, hay leo lên cây ngủ tạm.
Đi tới Hải Ninh, bỗng thấy nhiều người hốt hoảng bỏ chạy ngược trở lại, lính quýnh té lên té xuống, già trẻ bé lớn đèo bồng dắt díu nhau đi... Thấy cảnh lạ muốn rõ ngọn nguồn, Thu Hương chạy cặp theo một người hỏi:
—Có chuyện gì xảy ra mà quí vị bỏ chạy tất bật như thế nầy?
—Cô nương không biết nên không hoảng sợ bằng chúng tôi, vì một con hắc báo dữ tợn tới vùng trên chỗ chúng tôi đang bình an sanh sống. Nó hoành hành hung tợn, mỗi ngày móc họng hết người nầy tới người kia, chúng tôi chống trả không nổi nó, vì nó xuất nhập như ma quỉ, khi ẩn khi hiện, khiến cho mấy chục mạng bị chết mất thây, nên tốt hơn bỏ trốn tránh đi tai họa.
—Không có thợ săn trừ khử nó à?
—Chính mấy thợ săn kiệt hiệt đã bị nó đớp, móc họng ráo hết, thế mới hãi hùng. Cô nương không nên đến đó làm chi chết uổng mạng.
—Cám ơn lời khuyến cáo của tỉ tỉ, tôi sẽ tìm nó để giết nó cứu nạn cho quí vị.
—Trời! Thân cô yểu điệu như thế nầy làm sao chống trả nổi sức lực mạnh bạo của con hắc báo?
—Tôi có cách trừ khử nó, nên tôi không sợ nó đâu!
—Cô nương muốn chết, cứ đi còn chúng tôi sợ lắm rồi, chúng tôi phải tránh nó một thời gian, đến khi nào nó bị hủy diệt mới dám trở về.
—Yên trí đi! Kính chào!
Thu Hương khinh thân ngược chiều đoàn người thiểu não đổ xô nhau chạy lánh nạn. Khi gần đến chân núi, không còn thấy ai chạy nữa, đường sá vắng tanh, nhà cửa im lìm bỏ mặc, Thu Hương cảm nghĩ đã đến vùng hắc báo hoành hành.
Nàng bắt đầu đề phòng thận trọng nhìn trước ngó sau, liếc qua liếc lại hai bên đường, nàng đã thừa biết hắc báo chạy nhanh, leo trèo giỏi, vồ mồi và móc họng thần tốc với móng vuốt kinh tởm và hàm răng bén nhọn. Theo bài bản nhiều người cho biết hắc báo ở trong tận thâm sơn cùng cốc, chẳng chịu thua con thú nào, ngay cả với cọp nhiều lúc còn thúc thủ với nó, mỗi con hùng cứ một phương, ít khi nào xuất hiện nơi chốn đông người ở do nó sợ hỏa công. Nó chỉ đi tìm nơi khác làm địa bàn hoạt động khi bị ruồng đuổi do một thế lực mạnh mẽ hơn nó.
Như vậy con hắc báo nầy ở chỗ khác mới đến lập căn cứ địa, hung hăng không chừa bỏ một ai. Trừ khử nó cứu khổ cho nhơn loại là tâm niệm của nàng.
Nàng càng cẩn thận từng bước dò la tông tích hắc báo. Đến xế chiều, vẫn chưa thấy động tịnh gì, Thu Hương lấy lương khô ra ăn và uống nước suối, ngồi nhìn trời chiều hiu quạnh, gió thổi rì rào trên cành cây kẽ lá, chim chiều lần lượt nhịp cánh quay về tổ ấm, thấy có một ngôi nhà tranh nhỏ vội đi đến đó, thấy cửa bỏ ngỏ, nhà vắng tanh, thử bước vào bên trong xem ra sao, thấy vết máu còn trên sàn nhà, chứng tỏ nhà này bị hắc báo giết hại, mang xác đến nơi khác xé thịt banh xương ra ăn no nê. Thu Hương tiếp tục đi theo vết máu nhiễu dài theo con đường thâm đen, đến gốc một cây đại thọ, dấu máu còn vương dài theo thân cây lên tới cháng ba, chứng tỏ nó tha xác chết lên cháng ba ăn cho thoái mái.
Thu Hương tiếp tục đi đến chạng vạng đến một khoảng trống cây cối to lớn xum xuê phủ bao chung quanh, nàng lượm một đống cây khô dự trữ đốt cho đến sáng, bắt đầu nhúm lửa đốt lên, kê bọc hành lý trên đầu nằm kế bên đống lửa, chân tréo chữ ngũ, nhịp nhịp ngâm vịnh vài bài thơ cổ rung động theo cảm hứng buổi hoàng hôn giữa rừng núi quạnh hiu, liên tưởng đến bước đăng trình của bào huynh đang tiến hành tới đâu rồi. Chốc chốc nàng thêm củi vào đóng lửa bằng những nhánh cây to cho cháy lâu hầu đề phòng hắc báo tấn công.
Màn đêm buông xuống, nàng lim dim đôi mắt, tịnh thần cho khỏe chớ chua ngủ, bỗng cảm giác như có ai rình mò, ngồi dậy ngó chung quanh thật kỹ không thấy gì hết xuyên qua bóng đêm đen tối dày đặc, khều đẩy mấy khúc củi to vào đống lửa cho ngọn lửa cháy bùng lên, nhìn một vòng về phía bìa rừng, thấy hai đốm tinh quang xanh lè đang chiếu rọi về đám lửa, nàng biết chính xác đấy là cặp mắt của loài ác thú săn đêm, chưa rõ con gì, nhưng nó sợ lửa nên không dám lại gần, yên trí nằm nghỉ thêm một hồi nữa, thấy đống lửa cháy gần tàn, lấy thêm những nhánh củi to đút vào cho đám lửa bừng cháy sáng rõ hơn, cho có hơi ấm nhiều hơn trong lúc sương đêm bắt đầu ướp lạnh bầu trời rừng về khuya, thấp thoáng thấy hình dáng hắc báo đang đứng nép bên bụi rậm nhìn về đóng lửa.
Nàng biết chắc chắn đã gặp hắc báo rồi, chờ sáng mới động thủ được, vì ban đêm rất khó xạ tiễn chính xác. Ngồi theo dõi con beo, nó đứng ngó vào một lúc rồi đi vòng quanh đến gốc cây cổ thọ trèo lên cháng ba, nằm dài chỉa cặp tinh quang xuống đám lửa quan sát hình bóng Thu Hương. Nàng định thần ngồi vận công điều tức, không nghĩ gì đến hắc báo nữa.
Cho đến khi trời hừng sáng, con beo vẫn còn nằm trên cháng ba chưa leo xuống. Nàng lấy cái nỏ nhỏ trong bọc ra, nhắm ngay con beo buông một phát, mũi tên bắn xuyên qua lưng con beo, quá đau đớn, nó gầm thét lên dữ đội, tụt nhanh xuống, chạy tới tấn công, nàng nhanh chóng cho thêm một phát nữa trúng nhằm vai trái, beo mất thăng bằng, chân trái trước bị ảnh hưởng vết thương, nó phải dừng lại, lấy đà ba chân phóng tới, nhưng đã trễ, mũi thứ ba cắm sâu vào ức nó, khiến nó té lăn xuống đất bún bún mấy chân và hả miệng ra có thở hơi mệt nhọc cố lật mình nằm sấp xuống, trong lúc Thu Hương tiến tới gần quan sát coi nó hết chưa, nhưng nó vẫn còn sức tung lên lần chót vương chân mặt nhào tới mong móc họng nàng, Thu Hương vội né sang một bên, sẵn trớn phóng ra một chưởng vào mạng sườn nó, làm nó lật nhào xuống hộc máu miệng ra, dẫy lên mấy cái nữa mới từ từ im lần chết hẳn trong tư thế nằm sấp bụng xuống đất.
Nàng ung dung nhổ ba mũi tên chùi máu vào bộ lông đen mướt của nó cho sạch sẽ, bỏ vào túi nỏ nhét vào bọc hành lý, trở lại con đường cũ gặp ai cũng cho biết con hắc báo đã đền tội rồi. Mọi người chưa tin nên nàng phải dẫn họ đến tận nơi con hắc báo nằm chết cho họ thấy. Họ vui mừng thoát nạn xúm lại bầm thây con hắc báo ra nát như tương mới hả dạ thân nhơn họ đã bỏ mạng bởi nó mà quên đi ân nhân đã rời xa hiện trường trên con đường rừng núi hiểm trở, họ lo đi tìm những bộ xương rải rác gom về lập một ngôi mộ tập thể lo tế lễ xong xuôi mới nhớ chực lại ân nhân, không còn thấy bóng dáng đâu nữa với tư tưởng bội phục cô gái tài ba xuất chúng, thi ân bất cầu báo. Họ vẽ lại bức ảnh truyền thần của Thu Hương tôn kính thờ phượng nơi nhà mồ ngôi mộ tập thể để mỗi lần viếng mộ là mỗi lần chiêm ngưỡng nữ hiệp tế khổn phò nguy cho toàn dân địa phương.
Thu Hương tiếp tục con đường đi tới Hải Ninh, hỏi thăm kiến họ Quan cũng hoài công thôi, nên tiếp trở sang con đường hướng về hướng Tây theo quy ước với bào huynh hầu mong có chút ít tin tức gì không?
Tới làng Hương Canh thấy ngôi chùa cổ, nơi cổng chùa có tên Tích Thiện Tự, nằm trên đỉnh đồi cao giữa nhiều bản làng người Nùng, nàng vào lễ Phật, cúng dường và tham dự bữa cơm chay thân mật cùng bổn đạo đến cúng chùa.
Thu Hương cũng theo những người lễ Phật đến bàn thờ Hậu tổ vong linh, nhiều người tìm bài vị thân nhân đem ra lau chùi sạch sẽ, đem đặt vào y chỗ cũ.
Động tánh tò mò, nàng thấy có mấy bài vị cũ nằm sát bên trong vách bàn thờ, bụi bám đầy không ai chăm sóc, hình như lâu đời lắm, có nhiều bài vị giấy đã phai màu mực, chỉ còn lờ mờ nét chữ không rõ, nàng cố gắng đem ra từng cái lau chùi bụi bậm cho sạch sẽ, bất ngờ với cặp mắt tinh anh, nàng thấy lò mò họ Quan, cố gắng dò lần tới tên thấy có Quan Long Thanh, Quan Long Hiệp, Quan Long Mỹ, Quan Long Xương... mới nhớ lại trong gia phả ghi đến đời cao tổ có chi Cao Bá Tổ tên Quan Long Thanh là hết, như vậy có thể Quan Long Hiệp, Quan Long Mỹ, Quan Long Xương là hậu duệ của Quan Long Thanh, để gặp lại bào huynh bàn tính lại mới được, nàng đặt y lại vị trí cũ và cúng lễ hậu hĩ thêm cho quỹ Phước sương của chùa, bái từ quí vị sư vội vã lên đường, không mất thì giờ dò la tông tích kiến họ Quan nữa.
Nửa tháng sau đến vùng trận chiến khốc liệt xảy ra giữa hai bản làng, máu vẫn còn vương lại trên những gốc cây tảng đá sầm sì, thi thể đã mang đi hết rồi, lấy làm lạ tìm người hỏi thăm mới biết có trợ thủ Trung Nguyên, tài ba xuất chúng đã giúp bản làng thắng trận vẻ vang, với tên cung kính Quan đại hiệp, hiện ngụ tạm tại Linh Gia Trang, họ chỉ đường đến Linh Gia Trang cho Thu Hương vào xin bái yết Linh Trang chủ.
—Kính thưa Trang chủ, bào huynh Quan Thích Đản còn tạm trú nơi đây không?
—Quí nương là ai mà biết Quan đại hiệp?
—Kính thưa, tiện nữ là bào muội của Quan Thích Đản.
—A! Nói vậy quí nương là Quan Thu Hương đấy à?
—Đích thị!
—Quí nương tìm Quan đại hiệp có việc chi?
—Kính thưa, trong chương trình truy tầm kiến họ quá xa Quan, anh em tiện nữ có giao ước ai truy ra tông tích thân nhân họ Quan phải tìm gặp nhau thông báo, nay tiện nữ đã phanh phui ra được, nên vội vã đi tìm bào huynh thông đạt.
—Đúng rồi! Quan đại hiệp có cho lão gia biết việc truy tầm kiến họ Quan, nên phải lên đường trực chỉ về hướng Đông cách đây hai ngày rồi.
—Kính cảm ơn Trang chủ chỉ dẫn, tiện nữ kính xin giã từ truy tầm bào huynh!
—Chúc quí nương thành công!
Nàng ngày đi đêm nghỉ, vất vả dặm trường, lòng nơm nớp lo ngại bào huynh đi quá xa khó tìm gặp lại, tới làng Hà Cối, hỏi thăm người ta được biết mới rời khỏi ngày hôm qua, sau khi giết chết con rắn mãng xà phá hại dân làng, Quan thiếu hiệp tới đâu cũng dò hỏi kiến họ Quan thất lạc từ nhiều đời, đã lên đường trực chỉ về hướng Đông. Nàng mừng lắm tức tốc đuổi theo vì đã thâu ngắn được khoảng cách một ngày đường.
Tới làng Bình Liêu, hỏi thăm không ai nghe thấy dấu vết của Quan Thích Đản, một thiếu hiệp trang nghiêm oai phong lẫm liệt cả, khiến cho Thu Hương nhớ lại từ hôm rời làng Hà Cối ra đi tới ngã ba, có một ngả quẹo lên vùng rừng núi để đến làng Đầm Hà, như vậy mình đã đi lạc đường sang ngã Bình Liêu, vội vã trở lại ngã ba rẽ sang ngã Đầm Hà, như thế đã làm trễ mất tới ba ngày xa cách. Nàng càng nôn nóng bao nhiêu chân càng bước nhanh bấy nhiêu, vượt suối trèo đèo, leo dốc cheo leo hẻo lánh, chim rừng tỏa cánh bay về tận mút chân trời xa thẫm...
Tới làng Đầm Hà, hỏi thăm được biết Quan đại hiệp đã rời nơi đây trên ba ngày, sau khi đã giúp dân bản làng triệt hạ con cọp bạch dữ dằn, họ còn đem khoe bộ da cọp mới phơi khô xong làm kỷ niệm trận tranh hùng cùng ác thú, phần thắng vẻ vang cho Quan đại hiệp. Thu Hương kiên nhẫn hỏi thăm đường đi của bào huynh, bương bả chạy theo mãi. Nhơn ngày rằm trăng tỏ, nàng cố gắng đi cả ban đêm, bóng hình trải dài trên lộ đá sỏi hy vọng thu ngắn quãng đường xa cách, chỉ nghỉ ngơi khi dừng bước ăn uống, vận công điều tức bình phục sức khỏe, lại tiếp tục ruổi rong, nơm nớp lo sợ thất lạc bào huynh truy tầm khó nhọc.
Trong lúc đó Quan Thích Đản vẫn thong dong tiến bước và gặp ai cũng hỏi thăm kiến họ Quan, nghỉ đêm dưỡng sức. Một buổi chiều tà đến bìa rừng, nhìn trước sau không thấy khói lam chiều ẻo lả, cảnh vật đìu hiu vắng vẻ, chim rừng bắt đầu về tổ líu lo chuyện trò trên cành cây kẽ lá, Thích Đản chọn một cây cổ thụ, leo lên bẻ nhánh cây kết tum ở cháng ba nằm nghỉ, mơ màng tưởng lại những việc làm vừa qua, mới nhận thấy «Đi một ngày đàng, học một sàng khôn».
Có lưu lạc giang hồ, mới rõ cái khốn khó của kiếp sống giang hồ kỳ hiệp, không sướng ích gì, dầm sương dãi nắng, đội gió tắm mưa, nhưng bù lại thu hoạch được nhiều kinh nghiệm quí báu, hiếu biết nhiều phong tục tập quán của từng vùng, với bao ân oán giang hồ, với bao tình cảm đậm đà thắm thiết, nếu không vì sứ mạng thiêng liêng cao cả, nằm trụ với nàng tiên sơn nữ an hưởng, hạnh phúc biết bao!
Những trận chiến hãi hùng, máu chảy thịt rơi, đầu bay thây ngã, những cuộc tranh hùng cùng ác thú giúp đỡ dân chúng bản làng tránh tai ương thảm khốc, gây nhiều biệt cảm với sắc dân Nùng, đã trên sáu tháng qua chưa tìm ra tông tích thân nhân, còn em mình không biết bây giờ đi đến đâu rồi, có phanh phui manh mối gì chưa? Bỗng nghe tiếng động chân thú chạy từ xa vọng lại trong bóng đêm mờ mờ, chàng vội vàng tụt xuống gốc cây đứng thủ thế, tay lườm lườm lưỡi gươm bén đề phòng, nhìn trước ngó sau quan sát kỹ lưỡng, mới thấy một con hoẳng chạy hết tốc lực coi bộ gần đuối sức, đàng sau một con beo đen thùi lùi không rõ loại beo gì, đuổi theo ráo riết. Chàng thương hại con hoẳng hiền lành thường bị làm mồi cho ác thú ăn thịt, vọt ra hươi kiếm chận đường con beo, chém một nhát thần tốc vào đầu beo khi nó vừa chớp đến, nó vội nhảy tránh sang bên khi nhác thấy ánh quang kiếm chớp lòe, vô tình tránh được đường kiếm hiểm nguy, nó hoành lại cặp mắt tinh quang xanh lè chiếu thẳng vào Thích Đản, chàng đã có tiêu điểm tấn công, vội phi thân tới chém nhứ một đường kiếm, khiến con beo nhảy sang phía tả để tránh, nhưng nó không ngờ chàng hoành kiếm nhanh nhẹn phạt về cánh tả một nhát, chém bay miếng da trên lưng con beo, miếng da tung lên ra xa, như miếng vải rách bị ném đi. Con beo bị thương máu ròng róng chảy ra, nó điên tiết lên không còn tránh né gì nữa hết, phóng mình vào tấn công ráo riết mong giành thế thượng phong, chàng định thần nhìn kỹ cặp mắt xanh lè làm đích điểm vừa né tránh vừa chém tới tấp vào giữa cặp tinh quang nhiều nhát kiếm, con beo phóng qua phóng lại nên chưa có nhát nào trúng đích, chàng đổi thế, thân mình nó thon dài, bóng đen thậm thọt có thể làm đích điểm hơn cặp mắt, nên chém vào thân mình beo có hiệu quả hơn, một nhát trúng vào cạnh sườn, khiến beo đau đớn nhảy lui dứng thủ thế, không còn hung hăng tấn công nữa.
Tương kế tựu kế, phóng tới chém nhứ mấy nhát bên trái, con beo nghe hơi gió nhảy sang bên phải tránh đòn, nhưng chậm mất rồi, lưỡi kiếm bẻ quặt sang bên phải thọc sâu tới, cũng vừa đúng lúc con beo nhảy tới lãnh trọn ngọn gươm vào yết hầu, giẫy lên dữ dội, muốn xệ cánh tay, chàng vội rút mạnh lưỡi gươm ra, nhảy sang một bên tránh đòn cuối cùng của con beo chồm tới vươn móng móc họng với tàn lực, không trúng vào đâu cả chỉ vớ vào vạt áo rách toạc một đường dài, sẵn trớn chàng hoành kiếm thọc mạnh vào hông beo trúng ngay quả tim, khiến nó ngã xuống máu tràn ra run rẩy vài chập và im lìm với thân hình lù lù một đống, đưa tay rờ vào vạt áo bị tét ra làm hai, kéo lên buộc thắt vào lưng, suy nghiệm về một bài học quí giá về vố cảm tử trước khi chết của con beo. Ngồi dựa gốc cây định thần vận chuyển nội lực điều tức lại sức khỏe, đoạn leo lên cây nằm nghỉ, nhìn xuống thấy bóng dáng con hoẳng đã không trốn chạy, còn trở lại đến bên thi thể con beo, sát thủ của nó, ngắm nghía, dường như hả dạ, hay thầm cảm tạ an nhân đã cứu tủ cho nó. Tần ngần một hồi lâu, nó từ từ đi khuất dạng trong màn sương rừng dày đặc.
Chàng nằm dưỡng thần và lịm vào giấc ngủ an nhiên tự tại cho tới sáng, những tia sáng thái dương xuyên qua kẽ lá chiếu thẳng vào mặt chàng, giựt nình thức giấc, ngó xuống chỗ con beo chết hồi hôm, không còn thấy xác nó nữa, đinh ninh thân xác đã bị chó sói hay cọp đến tha di mất rồi, cũng chẳng bận tâm, tụt xuống đi tìm dòng suối mát lạnh tươi tỉnh lại, súc miệng rửa mặt, uống vài ngụm nước suối trong vắt, bỗng nhiên chàng có cảm giác như ai đang nhìn trộm mình, vội ngẩng đầu lên, thấy bên kia bờ suối nơi bụi rậm lá cây còn nhúc nhích vội vã lên tiếng:
—Kính mời vị nào đó ra mặt để tại hạ thi lễ tương kiến sơ giao.
Phía sau bụi rậm từ từ đứng dậy một thiếu nữ nhoẻn nụ cười tươi thắm:
—Kính chào bào huynh!
—Ồ bào muội! Em làm sao biết anh ở đây mà tìm đến? – Vừa nói vừa phi thân ngang qua dòng suối, đến bên Thu Hương mừng rỡ, bắt tay em hớn hở vui cười.
—Em vẫn khỏe khoắn như vầy anh thầm phục em lắm.
—Tiểu muội lặn lội theo anh suốt nửa tháng nay muốn hụt hơi, từ bản làng Bình Liêu, chạy theo anh, chỉ sợ lạc bước không gặp anh, hoài công sức vô ích
—Như vậy em đã ghé Linh Gia Trang rồi à?
—Đúng vậy! Em đi ngang qua bãi chiến trường đẫm máu của hai bản làng kịch chiến nhau nữa. Thiệt anh cũng là tay chọc trời khuấy nước, đi tới đâu làm hùm làm hổ tới đó. Người ta đã nói cho em nghe sạch không trơn, lại còn tôn xưng anh lên Quan đại hiệp nữa, hách dữ vậy sao anh?
—Có gì đâu mà hách xì xằng như em tưởng, chẳng qua là ra sức giúp người thôi, cũng để rút tỉa kinh nghiệm giang hồ kỳ hiệp. Còn chuyện của em ra sao mà bỏ đi tìm anh?
—Có chuyện em mới lặn lội đi tìm anh chớ.
—Chuyện gì nói cho anh nghe coi!
—Em đi tới chùa Tích Thiện Tự, tìm gặp những bài vị cũ của Cao Bá Tổ cùng hậu duệ cũng họ Quan mà không được biết vì trong gia phả không có tên.
—Có phải Quan Long Thanh không?
—Đúng rồi! Em đã từng cùng anh giở gia phả ra thấy ghi tông chi tới Cao Bá Tổ Quan Long Thanh là hết, như vậy tử tôn của Cao Bá Tổ chắc là những người kế tiếp theo các bài vị mà em không biết đến.
—Như vậy, chúng mình gấp rút trở về Tích Thiện Tự, truy tầm kiến họ Quan, không cần phải dò la vất vả nữa.
Cả hai anh em thẳng đường trở lại Hải Ninh lên tới Tích Thiện Tự vào lễ bái quí sư trong chùa:
—A Di Đà Phật! Quí thí chủ đến hành hương tam bảo quí giá vô cùng.
—Kinh thưa sư cụ, bài vị Quan Long Thanh ở Hậu tổ vong linh ngày trước có làm tông đồ cho chùa không ạ?
—Đúng đấy! Quan Long Thanh ngày xưa là đệ tử bổn đạo của chùa, thường lo tiếp giúp trùng tu, làm công quả, con cháu tiếp nối Quan Long Hiệp, Quan Long Mỹ, Quan Long Xương vẫn tiếp tục công quả đắc lực cho chùa, nên sau khi mãn phần, nhà chùa đưa linh và đem bài vị về thờ nơi Hậu tổ vong linh.
—Bạch sư cụ, gia đình họ Quan ở đâu, xin chỉ giùm?
—A Di Đà Phật! Nhà rất dễ tìm, nội vùng nầy chỉ có Quan Gia Trang là cổ kính hơn hết, cố cựu nhứt, nhị vị hỏi ai cũng biết danh tiếng kiến họ Quan khí phách hùng anh đã từng giúp dân bổn địa trừ khử cướp bóc được mọi người kính nể, chỉ cách đây hai mươi dặm về phía Tây Nam, tuy nhiên ít người bén mãng đến do có nhiều thú dữ và độc xà cùng con quái long dữ tợn. Dân chúng bản địa kính cẩn Quan Gia Trang lắm vì quí vị họ Quan đều là những anh hùng hảo hớn, cứu khổn phò nguy, danh tiếng nổi như cồn. A Di Đà Phật! Kính chúc nhị vị thí chủ thành công!
–––– o0o ––––
V. QUÁI LONG ĐẦM
Hai anh em từ giã nhà chùa, theo hướng Tây Nam trực chỉ, đi mới trên mười dặm đường, nghe tiếng cọp hùm béo dữ dội, không hẹn cả hai cùng nhanh chóng phóng mình về phía cọp gầm, qua khỏi rặng cây rừng, đến bờ đầm, thấy một cô thôn nữ đang lả lướt quần thảo với cọp như đùa giỡn. Cô gái tránh né những vố chụp, móc, hoành, vồ của cọp thần tình và nhanh nhẹn, tà áo phất phơ theo từng động tác thao diễn ngoạn mục.
Thu Hương toan nhảy vào tiếp tay thanh toán gấp cuộc chiến, nhưng Thích Đản ngăn lại ra dấu chờ xem. Thích Đản ngạc nhiên không thấy cô gái hạ độc thủ, cố ý giỡn chơi với cọp giống như Linh Bửu Ngọc lúc trước, khiến cọp điên tiết lên gầm gừ dữ tợn, như muốn xé tan cô gái ra trăm mảnh, cô gái vẫn ung dung né tránh mãi thật là tuyệt kỹ, thân mình uốn lượn tới lui quanh con cọp như mèo vờn chuột, không lộ vẻ gì mệt nhọc cả, vội buộc miệng khen:
—Hảo thủ! Xứng danh nữ kiệt núi rừng đả hổ!
—Ai đó! Xin đừng động thủ, để bản cô nương bắt sống đem về dùng kê toa thuốc dầu thang phục dược cho mẫu thân.
—Quí mẫu đau bịnh gì mà phải có cọp kê toa thuốc, xin cô nương cho biết, để có thể giúp cô nương hoàn thành sở nguyện.
—Thân mẫu bị chứng huyết khiếm do trúng độc trùng cần phải có hổ huyết trợ dược diệt độc trùng.
—Á ra thế! Tại hạ cảm phiền cô nương tha cho con cọp sống lập thiện duyên chữa trị bịnh của quí thân mẫu.
—Các hạ có phải là Hoa Đà tái thế không mà dám làm chuyện cải tử hoàn sanh cho nhơn thế?
—Hoa Đà đâu không biết, tại hạ có bầu Long Đàm Mật quí hiếm với y lý trị liệu Trung Nguyên, xin cô nương tha cho con cọp đi, tại hạ nguyện giữ đúng lời hứa «Nhứt ngôn ký xuất, tứ mã nan truy» của nam nhi chi chí!
—Như vậy, bản cô nương bằng lòng tha cho con cọp nầy nhút phen theo lời thỉnh cầu của các hạ. – Tự nãy giờ vừa đối đáp vừa đối phó với cọp tránh né nhanh nhẹn qua đường tơ kẽ tóc. —Nè! Tránh mắt ta cho rảnh! – Vừa nói vừa tống một phi cước vào mong con cọp, nó hộc lên một tiếng lớn té lăn quay vòng ra phía trước hoành thân đứng vững ngó đối thủ với cặp mắt đỏ ngầu giận dữ sùi bọt mép, gầm lên một tiếng phóng chạy biến vào rừng mất dạng.
—Phước đức vi chủ! Cô nương đã gieo hạt giống thiện điền, thời cô nương sẽ hướng phước điền là lẽ đương nhiên.
—Kính thưa nhị vị! Giáng lâm có điều chi chỉ biểu?
—Có chuyện phải hỏi, vô sự hơi đâu lo chuyện bao hàm. Xin lỗi cô nương, tại hạ Quan Thích Đản, còn em gái Quan Thu Hương, quê quán ở Hà Bắc lãnh sứ mạng truy tầm thân nhân thất lạc đa lâu đời, kính xin cô nương niệm tình chỉ cho biết Quan Gia Trang ở đâu để chúng tôi đến xin bái yết và nhờ hướng dẫn truy tầm thân nhân.
—Bản cô nương cũng họ Quan tên Long Thùy Ninh, còn thân phụ tên Quan Long Định, kính mời nhị vị vui lòng cùng bản cô nương về Quan Gia Trang. Hân hạnh!
Nói xong Thùy Ninh vọt mình đi trước, hai anh em khinh thân nối gót theo sau, trong khoảnh khắc, cả ba về tới cổng Quan Gia Trang, một cảnh trí đẹp vô cùng trang nhã.
Gia trang nằm cạnh một dòng suối, lơ ngơ tơ liễu dài theo hai bờ rũ nhành thướt tha, soi bóng rập rờn tạo thành một bức tranh thủy mạc tuyệt vời bao quát cả rừng núi chập chững phía sau, với nhịp cầu nho nhỏ bắt ngang qua rọi bóng lung linh xuống dòng nước chảy lững lờ thoáng qua, những con cá vàng bơi lội nhởn nhơ thong dong đớp mấy cọng rong rêu bám noi dòng suối với vẻ vô tư lự, thỉnh thoảng vài bóng chim chằn chài xanh biếc phóng xuống, như mũi tên xẹt, làm mặt suối lăn tăn gợn sóng rập rình luôn bóng dài của hàng dương liễu rủ cành soi bóng nước.
—Phong cảnh hữu tình thơ mộng quá! Quan Gia Trang ở Hồ Bắc chỉ bằng một góc ở đây thôi!
—Các hạ quá khen, nơi quê mùa sơn dã, làm gì dám sánh cùng thập tuyệt Trung Nguyên. – Thùy Ninh huýt sáo ra hiệu —Hơn nữa lại bé nhỏ làm sao so bì với Quan Gia Trang của các hạ?
Vệ sĩ ra mở cổng, cúi mọp kính chào nữ chủ cùng tân khách, hai anh em vội vàng thi lễ đáp lại. Vào bên trong, đường đi trải đá sỏi trắng, cẩn đá riềm bờ với những luống hoa tưng bừng rực rỡ chào đón ánh dương quang, tỏa hương thơm thoang thoảng, làm ngây ngất lòng viễn khách.
Vào nhà, phân ngôi chủ khách mời ngồi, gia nhân rót trà thết đãi, xuất hiện một ông lão quắt thướt bước ra tươi cười, hai anh em vội vã quì xuống thi đại lễ:
—Chúng con xin bái yết tôn nhân!
—Ha! Ha! Lão phu đức bạc tài hèn, đâu xứng cho nhị vị khiêm nghinh đại lễ, không dám, không dám... kính mời!
Hai anh em bình thân đứng đợi cho ông lão an vị, mới nhỏ nhẹ ngồi xuống thủ lấy khoanh tay thưa:
—Kính thưa tôn nhân, chúng con lặn lội đường xa ngàn dậm truy tầm tông tích thân nhân thất lạc đã lâu đời, nay được biết tôn danh Quan Long Định, chẳng hay tôn nhân, xin lỗi, có biết Quan Long Thanh không?
—Quan Long Thanh là tằng tổ của lão phu.
—Như thế tôn nhân là bá phụ của chúng cháu đây. Kính xin bá phụ vui lòng nhận đại lễ ra mắt của hậu sinh.
Hai anh em bước xuống thì thụp lễ bái tám lễ trang nghiêm.
Long Định vui mừng vuốt chòm râu bạc dễ hả lắm, đưa hai tay ra đỡ hai anh em Thích Đản lên:
—Hai cháu có lòng truy tầm thân tộc, thật là quí giá lắm thay!
—Thưa cha! Con đã sắp đặt yến tiệc xong, con cũng đã thông báo thân mẫu, thân mẫu vui mừng lắm, tươi tỉnh lại, đang chuẩn bị ra bàn tiệc cung hỉ thân nhân quyến tộc.
—Kính thưa bá phụ! Xin phép cho chúng cháu vào bái yết bá mẫu, vấn an và có thể quan sát hiện trạng bệnh tình của bá mẫu ra sao để kịp thời cứu chữa.
Chữa bịnh như chữa lửa, còn yến tiệc chừng nào chả được.
—Các cháu muốn thế cũng tốt thôi, cứ tự tiện. Thùy Ninh con đưa hai em vào vấn an mẹ con đi.
—Dạ thưa vâng!
Thùy Ninh dẫn hai anh em vào hậu liêu tiến đến cửa phòng mẹ, gõ cửa nhè nhẹ chờ lịnh.
—Ai đó?
—Dạ thưa con và hai em con vào vấn an thân mẫu.
—Cứ tự nhiên!
Cả ba bước vào phòng, sực nức mùi quế khâu ấm cúng, một bà lão tiều tụy, da nhăn nhíu, má cóp, đầu tóc bạc phơ lưa thưa, tay chân run bây bẩy, chỉ còn cặp mắt linh động chứng tỏ đã từng là nữ kiệt oai hùng trên rừng núi.
—Chúng con kính chào mừng bá mẫu!
Cả hai thì thụp đại lễ sáu lễ kính nghiêm, Thùy Ninh khoanh tay ứng hầu bên mẹ.
—Các cháu quá tận tâm đại lễ, già càng ái ngại muôn phần! Thôi hãy bình thân.
—Kính thưa bá mẫu, xin bá mẫu nằm xuống cho phép cháu chẩn mạch, tìm hiểu triệu chứng bịnh tình do chị Thùy Ninh đã nói cho cháu biết, vì cha cháu đã truyền ngả võ y trị liệu cho cháu và quí dược Long Đàm Mật.
Thùy Ninh vội đỡ mẹ nằm xuống, lấy gối nhỏ đặt bên cạnh, kéo cánh tay còn da bọc xương, nổi gân máu chằng chịt trông thảm não lắm, đặt lên đấy để cho Thích Đản ngồi xuống ghế chẩn mạch hết sức kỹ lưỡng.
—Kính thưa bá mẫu, độc trùng đang hoành hành trong huyết mạch của bá mẫu tới hồi dữ dội, chúng đã tiêu diệt hồng cầu và bạch cầu nhiều quá, chúng đang tiến dần về tim, xin bá mẫu sau khi uống thuốc Long đàm xong, để đại tỉ và em cháu đỡ bác ngồi dậy cùng tiếp với cháu chuyền công lực sang tẩy trừ độc trùng phụ hoa với thuốc mới chóng bình phục.
Chàng liền lấy chai Long Đàm Mật ra, nhờ Thùy Ninh lấy cái chung nhỏ rót ra chín giọt, hòa với thuốc tán mang theo sẵn, mùi thơm của Long đàm mật tỏa rộng ra át cả mùi quế khâu, khín bà lão thở ra hít vào nhẹ nhàng, không còn khó nhọc như trước, Thùy Ninh lại chạy đi lấy chai rượu ngũ gia bì tửu chế vô hòa cùng với thuốc cho lỏng ra, đưa vào miệng bà lào uống hết, lại còn tráng sơ cho hết thuốc trong chung bằng nước trà sâm uống thêm.
Thích Đản ra dấu cho hai chị em đỡ bà lão ngồi dậy, mỗi người vận nội lực truyền công lực vào hai huyệt Song Long ở bả vai, còn Thích Đã vận toàn bộ công lực chuyền vào huyệt Kiên Tĩnh sau lưng ngang với trái tim. Cả ba luồng chân lực chuyển vào huyệt mạch đẩy thuốc chuyển đi từ bao tử qua ruột non, xuyên qua hấp khẩu di chuyển trực tiếp vào huyết mạch chạy khắp châu thân, tấn công mãnh liệt độc trùng, khiến bà lão cảm thấy toàn thân một luồng điện gợn sóng tới đâu biết đến đó, tức là thuốc nhờ hùng lực tấn công, xung kích độc trùng từ ổ nầy đến ổ khác khắp ngũ tạng lục phủ làm cho da thịt và tay chân mình mẩy bà lão giựt lên từng cơn, lúc đầu còn nhiều, từ từ giảm dần cho đến lúc yên tịnh trở lại, độ một khắc sau nữa toàn thân mới thoái mái, bà lão không con uể oải nữa, mở mắt ra mỉm nụ cười tuy héo hắt nhưng đầy thỏa mãn, độc trùng không còn hoành hành trong cơ thễ nữa.
Thích Đản ra dấu cho hai chị em ngưng chuyền nội lực, rút tay ra, để chàng điều nghiên lần chót, đến khi nhận thấy huyệt mạch điều hòa, mới ngưng truyền nội lực, rút tay ra, ra dấu cho bà lão nằm xuống tịnh dưỡng. Cả ba đều qua phòng khác ngồi vận công điều tức lấy lại công lục trong hai khắc mới ngưng.
Bà lão vui mừng ngồi dậy, xỏ chân vào đôi hài đi chầm chậm tới bên Thích Đản đã đứng dây:
—Bác thành thật ngợi khen y tài của cháu không thua Hoa Đà.
—Dạ, bá mẫu dạy quá lời, cháu đâu dám sánh cùng Hoa Đà bậc danh y?
Trong lúc đó, Long Định cũng vừa bước vô tới, thấy vợ thoát qua cơn bịnh ngặt nghèo, mừng lắm, nắm tay khen rối rít kéo qua phòng ăn nhập tiệc, đồng thời bà lão cũng cùng hai chị em Thùy Ninh vui vẻ ngồi vào bàn tiệc chuyện trò thân mật.
—Thưa bá phụ, ở Tích Thiện Tự có những bài vị Quan Long Thanh, Quan Long Hiệp, Quan Long Mỹ, Quan Long Xương vai vế thân tộc ra sao?
—Quan Long Thanh, Tằng tổ của bác, Quan Long Hiệp, Tổ phụ, Quan Long Mỹ, thân phụ, Quan Long Xương, bào huynh.
—Thưa bác, trong gia phả Quan Long Thanh, Cao Bá Tổ của cháu, còn Quan Thích Nghi, Tằng tổ là hậu duệ bốn đời của Quan Long Tùng. Bác có nghe di tích của ngài Quan Long Tùng để lại cho con cháu không?
—Khi thân phụ còn sinh tiền có cho biết dòng họ ở Trung Nguyên, khi xưa ở Nam Kinh vì bị giặc giã bỏ chạy di đâu thất lạc, không tìm về được nữa, nên Tằng tổ phải về lập thêm Quan Gia Trang nầy để làm tròn sứ mạng nhận lãnh từ thời Tổ phụ của ngài Quan Long Thanh, tức là Quan Long Điệp, trưởng nam của ngài Quan Long Tùng. Theo đúng sứ mạng là canh giữ bí mật kho tàng chôn giấu khi sang làm quan ở An Nam Quốc, bị Bình Định Vương An Nam Quốc đánh đuổi gấp rút quá, không thể chuyển tài sản về Trung Nguyên kịp, tính ra tới nay trên bốn trăm năm, phải lập ra kho tàng kỳ bí và để con ở lại gìn giữ, tính sau nầy sang khai quật mang về thụ hưởng cho toàn kiến họ Quan.
—Thưa bác, theo lời gia truyền, kho tàng có Bí Mật Đồ hết sức kỳ bí đã giao cho ngài Quan Long Điệp gìn giữ. Nhưng vì cuối đời nhà Minh, giặc Mãn Châu tiến đánh thất lạc tông tộc, cho tới bây giờ kho tàng vẫn nằm yên tại chỗ, Bí Mật Đồ do ngài Quan Long Điệp cất giữ, bây giờ ra sao?
—Theo chỗ bác biết, Tằng tổ Quan Long Thanh khi về Trung Nguyên tính giao trả Bí Mật Đồ cho trưởng tộc kiến họ Quan để khỏi phải canh giữ nữa vì quá khốn đốn với người ngoại cuộc, nhưng không gặp ai cả, đành mang về cất giấu kỹ Bí Mật Đồ, có làm những dấu hiệu đặc biệt di chúc phải lưu truyền cho con cháu biết để sau nầy gặp lại tông tộc cùng nhau khai quật đem về làm gia bảo, giúp đỡ kiến họ chấn hưng lên hầu giữ phẩm giá trong xã hội. Sứ mạng nầy rất đặc biệt thêm là thực thi kế hoạch bảo quản kho tàng tuyệt đối bí mật, nuôi rắn độc, hổ báo vòng ngoài để bảo vệ kho tàng chu đáo. Đến nay rắn độc đã làm hang ổ chung quanh bên trong, còn bên ngoài, những đàn cọp beo, heo rừng hung tợn không cho ai bén mãng đến vùng cấm địa. Đã có nhiều người bỏ mạng khi cố tình hay vô ý đến vùng cấm địa của kho tàng.
—Nói vậy kho tàng ở gần đây thôi à?
—Đúng vậy! Nhưng còn vào tới trong là bỏ mạng với thiên linh cái, ma chành, thần tài giữ kho tàng. Chính bác cũng chưa dám bén mãng đến nữa, có lần theo gót thân phụ, bác thấy xương người rải rác, ngán lắm. Vùng nầy ít người đi săn bắn, hay du hành ngang qua, họ phải tránh xa đi vòng qua ngã Hải Ninh, nếu muốn liên lạc giữa Lạng Sơn và Móng Cái.
Hôm sau, trong lúc uống trà đàm đạo chuyện thân tộc, Thích Đản cầu xin với Long Định dẫn đi tìm bí mật đồ. Cả hai bác cháu lặn lội ra đi từ sáng sớm, theo triền núi đi dốc lên những mỏm đá cheo leo tới một cái đầm rộng có rất nhiều sen mọc rải rác gần bờ đang chuẩn bị sang hè trổ bông. Đầm rộng lớn nằm giữa những dãy núi cao vút, nhiều nơi trên mặt có mọc như trên mặt đất, với những bụi cây nho nhỏ, thường là bẫy cho những con vật háo mồi ra xa bị lún xuống chết làm mồi cho cá. Ở đầm cá rất nhiều, không ai dám đến câu hay đánh lưới do ác thú, rắn độc thị uy dữ dằn.
—Cháu nên nhớ, mặt đầm trầm lặng, đừng tưởng nó hài hòa, vì còn con quái long do tiên tổ nuôi dưỡng đến nay trên bốn trăm năm, to lớn lực bạo khủng khiếp, thỉnh thoảng nó trườn lên bờ đầm rình bắt thú vật rừng kiếm ăn quanh bờ hay ra uống nước kể cả ác thú và voi nữa. Biết bao người táng mạng với nó nơi bờ đầm, do lòng tham muốn chiếm đoạt kho tàng hay du ngoạn hoặc săn bắn, cho nên người ta gọi là Quái Long Đầm và kiêng nể lắm, vì chưa có ai chống trả nổi quái long nầy. Thân thể nó to lớn dềnh dàng với lớp vẩy cứng bao phủ như tấm giáp sắt, đao kiếm không thủng qua được, chỉ có hai mắt và các nách, háng da mềm hơn thôi, móng vuốt và răng bén nhọn dễ sợ lắm, nội lực nó có thể lên tới mấy trăm thành công lực của con người, không thể quật ngã nó được. Hơn nữa cái đuôi có thể quật mạnh làm gẫy cây cối, rủi trúng ai kể như bỏ mạng.