watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Thuyền Đắm Giữa Khơi-Phần II - tác giả Tràm Cà Mau Tràm Cà Mau

Tràm Cà Mau

Phần II

Tác giả: Tràm Cà Mau

Nằm trên nhánh cây, tôi suy nghĩ, sắp đặt chương trình hành động đối phó với các trường hợp có thể xảy ra. Cùng lắm là bị bắt, khi đã chấp nhận có thể bị bắt rồi, thì lòng tôi lắng xuống. Nếu nơi đây có người ở, và có chính quyền Cộng Sản, thì tôi phải tiếp tục trốn tránh, rồi tìm cách, lấy một chiếc thuyền đi về đất liền, nhưng giờ thì phải tránh sao cho khỏi bị bắt trước đã.



Đã ở tù Cộng Sản một lần rồi, tôi ngán lắm. Trưa hôm đó, tôi leo lên đỉnh đá cao nhìn xuống, thấy xa xa bên kia, có bóng cây dừa, và hình như có bãi cát bằng. Tôi cẩn thận đi về hướng bãi dừa, đi rất chậm, nhìn quanh dò xét đặt từng bước, vạch cây, vén lá, cố không để lại dấu vết nào. Khi qua một quãng đất trũng, tôi thấy cả một vường khoai mì, có vẻ như mọc hoang, nhưng nhiều gốc mì trốc đất nằm ngổn ngang. Đúng là đảo có người ở. Tôi yên lặng nằm sát đất có cây cỏ cao che kín, đợi chờ xem có gì lạ không. Chỉ có tiếng chim kêu và mấy con sóc chuyền từ cành này qua cành khác.


Tôi ra rìa đá, nhìn xuống xa xa, thấy có căn chòi lá nhỏ, và một bóng người thấp thoáng. Tôi yên lặng quan sát và rình xem sinh hoạt động tĩnh. Bóng người đi vào căn chòi rồi khuất dạng. Tôi chờ đợi thêm nhiều tiếng mà không thấy gì, bèn đi vòng quanh, cố tìm hiểu dân số và tổ chức chính quyền trên đảo. Nhưng hình như chỉ có căn chòi duy nhất đó mà thôi. Tôi quay lại vườn khoai mì, dùng nhánh cây nhọn đào được mấy củ lớn, bóc vỏ và ngâm vào vũng nước cho bớt chất nhựa, rồi cẩn thận ăn thật ít, ăn thật chậm. Kinh nghiệm ở tù cho tôi biết say khoai mì có thể tán mạng dễ dàng. Thế này thì cũng không lo đói. Tôi leo lên nhánh cây có lá phủ kín nhìn xuống căn chòi, biết đâu đó là trạm canh gác của công an biên phòng Cộng Sản. Không biết vùng này thuộc lãnh thổ nước nào, Việt Nam, Cao Miên hay Thái Lan? Buổi chiều, khi nắng phai màu, tôi thấy có thêm hai bóng người nữa đi về căn chòi. Ba người ngồi trên tảng đá, hình như họ đang ăn và nói chuyện. Bóng chiều xuống dần, tôi tự họi, không biết mấy người này làm gì trên hoang đảo, họ là ai, có nhiệm vụ gì.



Hoàng hôn dần dần phủ lấp hải đảo. Khi trời tối hẳn, tôi lom khom đi về phía căn chòi, cố gắng để không gây tiếng động. Cố thở thật nhẹ, và chỉ di chuyển khi có gió gây tiếng động xào xạc trong tàn lá. Tôi nằm yên nghe ngóng. Họ đang nói chuyện, tôi chỉ nghe loáng thoáng tiếng nói mà không biết họ dùng ngôn ngữ nào. Khi ba bóng người đi vào căn chòi, thì tôi cũng quay trở lại hướng núi đá cao, tìm một nơi ngủ qua đêm. Gió quá, tôi lần xuống bãi cát đào một cái hố chắn gió, và nằm ngủ ngon giấc. Suốt một ngày lo lắng, mệt nhọc, tôi ngủ thật say, gió biển lành lạnh. Sóng đập rì rầm, tôi nằm mơ thấy mình đang đi ngữa Sàigòn vào thời Cộng Sản chưa chiếm đóng.



Sáng dậy, tôi xoá dấu tích của mình trên cát, và vào rừng cây rậm ẩn nấp. Cái phao nhựa thành bình đựng nước. Tôi đập vỡ một số sò bám trên mặt đá, ăn với khoai mì sống đã được ngâm nước từ hôm qua. Leo lên dốc đá, tôi nhìn xuống căn chòi rình rập. Mấy cây dừa sai trái, thân cao vút, làm tôi thèm lắm, nhưng không biết làm sao hái được. Đã là dân thành thị không biết leo trèo, lại còn phải ẩn nấp dấu diếm, thì mong chi có dừa ăn. Nhưng dù sao đi nữa, đêm nay tôi sẽ cố gắng, tìm cách leo thử. Hình như đã có lần tôi thấy người ta dùng một vòng dây máng vào hai chân, móc quàng qua thân cây mà leo lên dần. Tôi cẩn thận đi vòng xuống bãi bên kia, thấy rau lang và giàn dưa leo. Tôi hái dưa ăn, dưa thơm và ngọt lịm như tôi chưa từng ăn bao giờ, tôi bỏ thêm mấy trái vào túi quần và thử mò xuống cát xem khoai lang đã có củ chưa, nhưng chỉ thấy toàn dây và rễ nhỏ.



Có lẽ vì ăn quá nhiều khoai mì sống, buổi trưa tôi thấy say say và buồn ngủ. Tôi nằm dài trên tảng đá bằng phẳng, đánh một giấc ngon lành, không biết ngủ được bao lâu. Đang nằm ngủ mê man, bỗng tôi chợt thức giấc và có linh cảm như ai đang nhìn mình. Tôi vùng ngồi dậy khi thấy có đôi mắt nhìn sát vào mắt tôi. Tôi chợt nhận ra một chú bé chừng mười lăm tuổi. Nó hốt hoảng thối ui, và vấp chân té ngửa. Nhanh như chớp, một viên đá lớn từ xa bay đến đánh bốp vào đầu tôi, làm tôi ngã xuống, hai tay ôm đầu rên rỉ, máu chảy ướt tay. Trán tôi sưng vù như quả ổi, đầu nhức nhối, cố gắng chống tay dậy, nhưng không dậy nổi. Chuyện gì xẩy đến đây. Dân làng họ có bắt tôi giao cho chính quyền không? Tôi chợt ân hận đã hớ hênh nằm ngủ quên. Tôi nằm quằn quại trên tảng đá. Thôi thì đành liều. Có bị bắt thì sẽ tính sau. Tôi nghe đối thoại bằng tiếng Việt, giọng rất khó nghe, mới hiểu rằng, chị cậu bé tưởng tôi tấn công, nên ném đá yểm trợ cậu em. Một lúc sau có tiếng đàn ông, và tôi được đắp lá nhai dập lên vết thương. Tôi hé mắt nhìn, thấy một người đàn ông tóc tai phủ ra sau vai, râu ria xồm xoàm như người vượn, mặt sạm đen, đóng một cái khố nhỏ bằng da thú, chỉ có đôi mắt sáng đợm ánh lạ kỳ. Cả ba người đều đóng khố, thân trên để trần. Có lẽ thổ dân trên đảo, hoặc giống dân thiểu số trong vùng này. Khi bớt đau đớn, tôi cho họ biết là bị đắm tàu, dạt vào đây. Họ dìu tôi về căn chòi mà hôm qua tôi rình rập dò xét. Chú bé đưa cho tôi nước uống trong chén vỏ dừa. Người đàn ông tự giới thiệu là ông Tư, sinh quán trên đảo này. Ông nội của ông Tư ngày xưa làm quan võ, phò tá vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở. Khi vua bị Tây bắt, ông cụ cùng một nhóm quan sĩ tiếp tục kháng chiến theo hịch cần vương. Sau đó, theo cụ Phan Đình Phùng khởi nghĩa kháng chiến trong nhiều năm. Cuối cùng, khi tan rã, cụ nội đem gia đình và một nhóm thuộc hạ xuống thuyền đi Xiêm La, nhưng gặp bão giữa đường, phải ghé lại đảo này. Sau đó không đi được vì thuyền chìm. Ban đầu có bốn gia đình lập cư. Dần dần chết hết, chỉ còn ông Tư và hai người con. Bà Tư trẻ hơn ông Tư chừng hai mươi tuổi, nhưng mất sớm.



Trên tường đá treo mấy cây kiếm và bao kiếm chạm trổ rất tỉ mỉ và đã hoen ố bụi thời gian. Không là chuyên môn, tôi cũng đoán ra được đó là những thanh bảo kiếm. Ông Tư cho biết, một trong những thanh kiếm là của ông Tôn Thất Thiệp, kiếm phò vua. Mấy đời cha ông, mong có cơ hội trở về đánh đuổi giặc Tây ra khỏi nước. Khôi phục gian sơn. Ông nói rằng, có lẽ đời ông không làm gì được nữa, chờ cho thằng Ba lớn lên, mong nó nối mộng cha ông. Ông thở dài não ruột. Thì ra, ông không biết gì về tình hình thế giới, tình hình đất nước trong gần tám mươi năm qua. Tôi chậm rãi cho ông biết, Tây đã về nước hơn hai mươi năm rồi. Bây giờ thì Cộng Sản cai trị đất nước, họ còn tàn bạo, khắt khe và áp bức hơn cả giặc Pháp. Nhân dân đau khổ và đói rét hơn cả thời nô lệ ngoại bang. Có lẽ ông Tư không hiểu nhiều về những lời tôi nói vì không lẽ dân mình cai trị nhau mà khắt khe tàn bạo hơn ngoại quốc thực dân. Nhưng ông cũng vui khi nghe giặc Tây đã ra đi, và theo ông, thì nay không còn băn khoăn, cánh cánh bên lòng vì lời di huấn của tổ tiên. Yên tâm sống. Ông không còn sợ tuyệt tự, không còn ai nối chí cha ông. Tôi cảm thương tấm lòng của ông Tư. Giấc mơ đuổi giặc Tây đã truyền qua ba đời mà vẫn chưa nguội lạnh. Tôi cũng mang một giấc mơ tương tự, đuổi giặc Cộng ra khỏi quê hương. Chính ông Tư cũng không biết tuổi tác của ông và cả hai con ông. Ngày tháng cứ trôi đi, không ai để ý đến thời gian. Cô Hai, theo tôi đoán thì xấp xỉ trên dưới hai mươi, và chú Ba, thì khoảng mười lăm. Thân mình cô Hai mảnh khảnh, chắc như tượng đồng. Mái tóc đen dài thả lỏng trên lưng. Vầng trán cao, bóng. Đôi mày cong che đôi mắt long lanh sáng, trong mắt như có nụ cười. Hai làn môi thanh tú. Cổ cô dài nối liền tấm ngực mà hai vú lớn cong ngược lên. Lưng thon, mông chắc chắn, đôi chân dài. Cô Hai chỉ đóng cái khố da thú nhỏ che ngang người. Chú Ba thì như con gà mới lớn, lỏng thỏng, dáng dấp vụng về, chỉ có đầu tóc dài không cắt làm cho thêm phần hoang dã.



Tôi được gia đình này đón nhận với lòng hoan hỉ. Ông Tư tường nhìn tôi với ánh mắt tràn đầy tình cảm dịu dàng. Cậu Ba quấn quýt quanh tôi, không rời nửa bước, và hỏi, nói đủ thứ chuyện. Phần cô Hai, thì rất tự nhiên, không có chút e lệ nào, hình như không biết phân biệt trai gái và có những đụng chạm cùng tôi, mà đôi khi tôi ái ngại. Để hoà hợp, tôi chỉ đóng cái khố nhỏ qua người. Tham gia sinh hoạt trong gia đình này. Tôi từ từ kể cho ông Tư nghe về diễn biến lịch sử xảy ra cho đất nước từ khi Tây chiếm Việt Nam, những phong trào khởi nghĩa chống Pháp, Đệ Nhất, Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản vào, rồi Pháp trở lại, chiến tranh dành độc lập, Pháp rút về, tiếp theo là cuộc nội chiến gần 20 năm, Cộng Sản miền Bắc thắng. Dân niềm Nam không chịu nổi chính sách hà khắc bỏ nước ra đi. Ông Tư thì còn hiểu nhiều, chú Ba và cô Hai thì nghe, mù mờ, ngơ ngác. Tôi cũng bỏ nước trốn đi như ngày xưa cụ tổ của gia đình này, vì không chịu được giặc Pháp. Không phải chỉ mình tôi, cả nước muốn trốn đi, tránh cái chế độ khắt khe chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.



hết
Thuyền Đắm Giữa Khơi
Phần I
Phần II