Hồi 14
Tác giả: Vương Độ Lư
Lúc ấy Du Tú Liên thấy Phí Bá Thân chết, bèn bảo La Tiểu Hổ tạm giấu xác Phí Bá Thân đi, lại khuyên Dương Lệ Phương: “Xong rồi! Bây giờ đã trả được thù rồi! Anh em ngươi lại gặp nhau rồi, các ngươi tuy từ nhỏ mang họ khác nhau, nhưng quả thật là cùng một mẹ sinh ra. Lúc ở Bắc Kinn anh ngươi không biết ngươi lấy Văn Hùng, nếu không y đã không gây ra chuyện ấy, chuyện ấy cũng đã qua rồi, ngươi cũng không nên nhớ nữa. Lệ Phương, không phải ngươi vẫn nói là anh ngươi mồ côi cực khổ sao? Bây giờ ngươi lại có một người anh ruột rồi!”.
Dương Lệ Phương nghe Du Tú Liên nói thế lại càng khóc nức nở, vừa rơi nước mắt vừa làm lễ với La Tiểu Hổ. La Tiểu Hổ lại càng xấu hổ! Lúc ấy y kéo xác Phí Bá Thân vào rừng, lại quay vào bức tường đỏ huýt một tiếng sáo, Hoa Kiểm Hoan bên trong chạy ra. La Tiểu Hổ bèn sai y lấy cuốc đào hố chôn xác Phí Bá Thân, dắt ngựa vào miếu. May là chỗ ấy rất vắng vẻ, lại cách xa đường cái, nên họ làm gì cũng không ai nhìn thấy.
Lúc ấy vì Du Tú Liên hỏi La Tiểu Hổ vì sao cũng tới đây, La Tiểu Hổ lại không ngừng thở dài, mời Du Tú Liên và Dương Lệ Phương vào trong nghỉ ngơi một lúc. Y bèn kể lại đầu đuôi lý do y tới đây, cho tới tình hình trong miếu, những chuyện mình tính toán mấy hôm nay, cảm khái kể ra hết.
Ngôi miếu Tam Thanh này là hạ viện của Ẩn Tiên quá ở Tây thành Bắc Kinn, cũng là do đạo sĩ từng tu hành trên núi Võ Đang mộ quyên xây lên. Hiện phương trượng trong miếu chính là sư đệ của vị đạo sĩ ấy. Người này đạo hiệu là Thận Tu, tục danh là Từ Kế Hiệp, người huyện Lãng Trung Tứ Xuyên, vốn là cháu nội hiệp khách Lãng Trung hiệp Từ Nhạn Vân, đã chết, lúc còn sống là bạn thân của lã hiệp Giang Nam Hạc.
Từ Kế Hiệp lúc nhỏ học được võ nghệ gia truyền, luyện kiếm pháp Võ Đang, lại giỏi sử dụng một ngọn thiết côn. Vì y có ba anh em, y là em út, lúc trẻ tuổi ngông cuồng vô tri, đắc tội với hương dân trong làng, lại vì tranh giành một người đàn bà mà giết người nên y mới trốn ra ngoài, phiêu bạt nam bắc hơn hai mươi năm, cư trú ở Hà Nam lâu nhất, cũng có giao tình với Dương Báo. Y luyện tập nội công chứ không luyện tập thuật phi thiềm tẩu bích nên không có việc gì nổi tiếng xa gần, lại tính tình cô độc, vì thế không có bao nhiêu người biết tên y. Về sau y mỏi mệt chuyện giang hồ, lại hối hận những lỗi lầm lúc trẻ, mới được lão đạo sĩ ở Ẩn Tiên quán đưa vào đạo môn, ở đó tu hành.
Nơi đây vốn là chỗ bọn cường đạo trên Ngũ Hồi lĩnh qua lại, lúc đầu ngôi miếu này còn là hang ổ giặc cướp,, bất kể người có đạo hạnh cao thâm thế nào cũng không thể ở đây được. Từ khi đạo sĩ ở Ẩn Tiên quán tới, bọn cướp biết đạo sĩ biết võ nghệ mới không dám tới cướp bóc. Sau đó đạo nhân Thận Tu này tới trụ trì, ngọn thiết côn của y đánh ngã mấy tên cướp, lại khiến bọn chúng sợ vỡ mật! Từ đó quanh miếu một dặm không có tên cướp nào dám bén mảng tới.
Nhưng năm rồi, lúc Phí Bá Thân trên núi Ác Ngưu nghe danh tiếng của y bèn tới thăm, bố thí cho miếu một ít tiền đèn hương, còn ở lại đó khoảng nửa tháng, giao du với Thận Tu đạo nhân rất thân thiết. Phí Bá Thân là người tư văn nho nhã, khéo ăn nói, biết ứng thù, lại tam giáo cưu lưu không gì không biết, viết phú làm thơ cầm bút là thành, vì thế Thận Tu đạo nhân rất khâm phục y.
Sau khi Phí Bá Thân đi hơn một tháng, lão đạo sĩ ở Ẩn Tiên quán lại tới, hai sư huynh sư đệ ngẫu nhiên nhắc tới tên Gia Cát Cao, lão đạo sĩ ở Ẩn Tiên quán không kim được cười khẽ. Nguyên là vị đạo sĩ này qua lại nam bắc lâu ngày, các hạng người ở các nơi y đều biết rõ. Phí Bá Thân xuất thân thư lại, kết giao với bọn cướp, quen dùng âm mưu thì càng không che giấu được y. Lai lịch của Phí Bá Thân y đều biết rõ, bèn kể lại cho sư đệ, dặn từ nay trở đi không gần gũi với loại người như thế, nhưng Phí Bá Thân cũng không trở lại nữa.
Lão đạo sĩ ở Ẩn Tiên quán quá biết Phí Bá Thân quen biết với bọn cướp trên núi Ác Ngưu, lại muốn độ hóa La Tiểu Hổ cắt đứt nhu tình buông bảo đao xuống làm đạo sĩ như đã độ hóa Từ Kế Hiệp, nên mới đưa y từ Bắc Kinn tới đó. Ngôi miếu này rất gần núi Ác Ngưu, nếu La Tiểu Hổ ở đây lâu ắt có cơ hội gặp mặt Phí Bá Thân. Lão đạo sĩ chỉ có ý muốn La Tiểu Hổ yên ổn tu hành, nhưng không cản trở y báo thù, lại cố ý bảo y mau kết thúc chuyện này, để mượn đó trừ khử một gã đại ác trên đời.
La Tiểu Hổ lúc ấy lòng tàn ý lạnh, Thận Tu đạo sĩ dành hai gian điện bên cạnh cho ba người bọn y ở. Sa Mạc Thử và Hoa Kiểm Hoan biết gần đây có giặc cướp, nói ra thì cũng là đồng đạo, có điều không cùng đường, ngay cả tiếng lóng cũng khác nhau. Họ sợ bị người ta coi rẻ, mình người ít thế cô, nếu ra ngoài gây sự thì chống không nổi. Cho nên đều không dám ra khỏi cửa miếu, hàng ngày chỉ quanh quẩn với “lão gia” của họ, ngoài việc ăn uống ỉa đái thì chỉ nằm ngủ.
La Tiểu Hổ hàng ngày nói chuyện phiếm với Thận Tu, Thận Tu nhắc tới Phí Bá Thân, La Tiểu Hổ không kim được nổi giận, nói: “Tên họ kẻ thù của gia đình ta, ta vốn không hiểu rõ lắm. Hai năm trước đây ân nhân Cao Lãng Thu của ta mắc bệnh chết, ở ngoài thành Thả Mạt Tân Cương có một tấm ván bia do y đích thân viết, trên nói tới tên họ của kẻ thù gia đình ta, theo đó là họ Hạ. Nhưng tháng chạp năm rồi ta từ Tân Cương về, qua ngang huyện Y Thị tỉnh Sơn Tây, gặp một bọn khách người Hà Nam trong khách điếm, trong đó có hai người quê Nhữ Nam, ta bèn hỏi họ chuyện kẻ thù của Dương gia. Họ nói kẻ thù của Dương gia không chỉ có một người, ngoài gã Tri phủ phủ họ Hạ, còn có Phí Thân gì đó”.
“Lúc ấy ta chưa nghe rõ, lại hỏi kỹ họ, họ lại cười nói qua chuyện khác. Họ đối với chuyện cũ thê thảm này dường như không muốn bàn nhiều, lại có chút kiêng kỵ, đại khái là sợ họ Phí quen biết nhiều bọn lục lâm. Bây giờ tên lão tặc mà đạo gia ngươi nói tới ấy nhất định là kẻ thù của ta, chỉ là y đã đổi tên thành Gia Cát Cao, nhưng ta nghe nói người này hiện đang ở kinh đô, tiếc là bây giờ ta đã lười lên Bắc Kinn rồi!”. Lúc ấy La Tiểu Hổ vội phái Sa Mạc Thử trở lại kinh đô, dặn y hỏi thăm xem lão Gia Cát Cao giúp đỡ Lỗ Quân Bội kia có phải là họ Phí không. Nếu đúng là họ Phí thì mau báo tin cho Đức thiếu phu nhân để tiện trả thù.
Sa Mạc Thử đi rồi, La Tiểu Hổ vẫn tinh thần uể oải, có lúc một mình ngân nga hát bài “Trời đất tối tăm sinh tai ương”, lại không ngừng thở than cảm khái, lại tự tức giận mình! Vì y tự mình hiểu rất rõ, tại sao một hán tử to lớn, một thân võ nghệ, hát bài hát ấy hơn mười năm mà lại không thể đi báo thù! Y biết toàn là vì tình cảm nữ nhi khiến y trở thành như thế, nếu không phải có chuyện Ngọc Kiều Long thì y ngay cả đao cũng ngại cầm tới! Rời khỏi Ngọc Kiều Long, y tâm thần đều bất định. Hiện tại y đã làm xong chuyện Ngọc Kiều Long rồi, giống như tất cả đều đã là quá khứ, tất cả hi vọng đều đã mất hết.
Y suốt ngày mê man mệt mỏi, ngụ lại ở đó không có ai tới quấy rầy y, y lại cảm thấy rất vui thích. Nhưng đạo sĩ Thận Tu bảo y đội mão tu hành, y lại không muốn! Vì y biết y nhất định y tu hành không được. Nào là ngồi xếp bằng đọc kinh, luyện đan, những chuyện ấy y quyết không làm được. Nhưng trong đó thỉnh thoảng hiện ra cảnh sa mạc ở Tân Cương, một đêm ân ái với Ngọc Kiều Long, đó là chuyện qua rồi. Chuyện mới là một đêm mưa gió ở Ẩn Tiên quán, dáng vẻ buồn bã khóc lớn của Ngọc Kiều Long lúc chia tay ở Ngọc phủ, y không hề quên chút nào. Cho nên y thường mở to mắt như ngây ra, cơ hồ thành một phế nhân. Nhưng bảo đao nỏ tiễn thì y luôn mang bên người, một là vì thói quen, hai là vì biết chung quanh nơi này có nhiều giặc cướp, y lại có nhiều tiền bạc, có bảo đao, nên không thể không đề phòng.
Chuyện hôm nay vốn là tình cờ, sáng sớm y ra khỏi miếu, đang bồi hồi trong rừng, rút nỏ tiễn rình bắn chim khách trên cây để giải khuây. Không ngờ thấy ngoài rừng có một con ngựa phóng tới, trên ngựa là một lão già, y vốn không nhận ra, nhưng y nhận ra thiếu phụ cầm thương đuổi theo phía sau là Dương Lệ Phương em gái mình. Sau một lúc kinh ngạc, y bèn đoán lão già ấy ắt là Phí Bá Thân, nhất định bị Dương Lệ Phương đuổi tới mức không còn đường trốn chạy, mới định vào đây nhờ Thận Tu đạo nhân giúp đỡ. Y bèn đem phóng tên ngầm bắn Phí Bá Thân ngã ngựa, sau đó mới trong rừng bước ra, anh em gặp nhau. Khi Du Tú Liên đuổi tới, y liền mời hai vị nữ khách vào trong miếu nghỉ ngơi,Hoa Kiểm Hoan chôn Phí Bá Thân xong, trở vào nấu nước pha trà mời họ.
Du Tú Liên lại hỏi La Tiểu Hổ rất nhiều chuyện, La Tiểu Hổ trả lời rất ít, chỉ là lúc nói tới Ngọc Kiều Long, y buông tiếng thở dài, Dương Lệ Phương tuy là em gái y, nhưng y gặp Dương Lệ Phương lại có vẻ bị bó buộc, cứ cúi xuống, cảm thấy không có mặt mũi nào nhìn em gái. Dương Lệ Phương nói: “Ca ca, anh lấy lại họ Dương đi, đổi dùng tên khác, sắp tới tìm một chỗ xuất thân được không? Nhà em và nhà Khâu hầu gia sẽ ra sức cho anh, nếu không anh có thể tới tiêu điếm của cha nuôi em làm tiêu đầu”. La Tiểu Hổ lắc đầu không trả lời.
Dương Lệ Phương lại lau nước mắt, nói tới chị nàng là Lễ Anh làm thiếp của Khương Tam Viên Ngoại ở phủ Bảo Định, y cũng không để ý lắm, Dương Lệ Phương cảm thấy anh nàng giống như một gã ngây. Nàng cùng Du Tú Liên nghỉ ngơi một lúc, Sử Bạn tử đã tới, mời họ trở về ngôi nhà kia ăn cơm. Y gặp La Tiểu Hổ,vỗ vỗ gọi: “Hổ gia” rồi nói: “Ta hiểu ý lão nhân gia ngươi, Lý Mộ Bạch năm trước cũng cớ tật xấu như ngươi, nhưng hiện y đã khác rồi”.
Du Tú Liên nghe câu ấy, dường như hơi đỏ mặt. Sử Bạn tử lại nói: “Hay thế này đi! Lão ca ngươi chẳng bằng cứ xuất gia ở đây, qua vài hôm ta sẽ bảo Hầu nhi thủ tới làm bạn với ngươi. Được cái loại người như các ngươi mà xuất gia thì không cần đọc kinh, vẫn giấu đao trong tay áo được”.
Du Tú Liên thấy thần thái của La Tiểu Hổ rất trầm uất mà Sử Bạn tử lại chọc ghẹo như thế, sợ y nổi nóng, lại sợ Dương Lệ Phương thấy anh nàng trở thành như thế lại đau lòng, nên vội nói “Chúng ta đi thôi! Chuyện vây giờ đều đã xong rồi, chúng ta về đó ăn cơm rồi còn phải đi ngay. Nếu Lệ Phương ở ngoài lâu ngày cũng có nhiều chuyện không hay!”. Lại nói với La Tiểu Hổ: “Hẹn gặp lại! Sau này nếu có chuyện gì khó khăn, cứ tới Hùng Viễn tiêu điếm ở huyện Cự Lộc tìm ta, nhất định ta sẽ giúp ngươi”. Dương Lệ Phương lại làm lễ từ biệt, Sử Bạn tử thì vỗ vỗ vai y cười nói: “Hẹn gặp lại!”. La Tiểu Hổ đưa ba người bọn Du Tú Liên ra cửa, ánh nắng mặt trời chói chang soi lên mặt y, nhưng vẻ mặt y vẫn vô cùng lạnh lẽo buồn thảm.
Du Tú Liên, Dương Lệ Phương, Sử Bạn tử ba người cùng lên ngựa, chắp tay chào La Tiểu Hổ rồi vung roi thúc ngựa phóng đi. Họ qua rặng núi, trở lại gian nhà kia, Tôn Chính Lễ và gã lâu lúc ấy được thả cùng người đàn bà họ Quách đều ăn cơm trong viện. Người đàn bà ấy hôm nay cũng không có vẻ độc ác như hôm qua, chỉ xin Du Tú Liên tha mạng, lại nói: “Tôi xin theo người về làm lão má, chỉ xin người đừng giết tôi!”.
Du Tú Liên nói: “Vốn bọn ta không có ý giết ngươi, chỉ muốn ngươi từ nay trở đi đừng chung đụng với bọn giặc cướp nữa là được. Lão má thì bọn ta không cần!”. Nói xong nhìn nhìn Dương Lệ Phương cười cười. Gã lâu lúc ấy kia tự cho rằng mới rồi dẫn đường cho họ có công, đã biết mấy người này không đến nỗi giết y nên rất yên tâm, ăn to nói lớn, lại nói: “Nếu từ nay trở đi mà tôi còn làm giặc cướp, thì cứ cho trong óc tôi mọc ung nhọt!”.
Sử Bạn tử nói: “Bọn ta đi xong cái nhà này cũng bỏ không, ngươi cứ sống với bà này qua ngày cũng được”. Tên lâu la nói: “Ái chà, tôi không dám! Quách đại nương lớn hơn tôi hơn chục tuổi, tôi không muốn có thêm một bà mẹ nữa! Mà nói lại gian nhà này ai muốn tới ở thì tới, chứ tôi không dám, tôi sợ cái hầm lớn dưới đất!”.
Họ đang trò chuyện, Du Tú Liên, Dương Lệ Phương xuống nhà bếp ăn cơm, chợt nghe ngoài bức tường thấp có một tràng tiếng vó ngựa dồn dập, Tôn Chính Lễ lập tức trợn mắt, ném bát đũa, vó thanh đại đao, Sử Bạn tử cản y lại nói: “Này, này, đừng lỗ mãng!”. Tiếng vó ngựa dừng lại, bên ngoài có một người mặt sẹo bước vào, chính là Hoa Kiểm Hoan. Sử Bạn tử cười nói: “Sao ngươi lại tới đây? Hay ngươi muốn theo bọn ta về Bắc Kinn?”. Hoa Kiểm Hoan lắc đầu nói: “Không phải! Lão gia chúng tôi bảo tôi đuổi theo Du cô nương và Đức thiếu phu nhân, có một chuyện muốn nhờ”. Du Tú Liên trong nhà bếp nói: “Ngươi cứ đứng ngoài cửa nói đi!”.
Hoa Kiểm Hoan bèn đứng giữa viện lớn tiếng nói “Lão gia chúng tôi nhờ Du cô nương hoặc Đức thiếu phu nhân nếu về tới Bắc Kinn gặp Ngọc Kiều Long, xin nói lại cho cô ta biết chỗ lão gia chúng tôi đang ở. Nếu cô ta có thể tới, thì mời cô ta ngàn vạn lần nên đi một chuyến, gặp lão gia chúng tôi lần nữa. Cho dù tám năm mười năm, Ngọc Kiều Long có tới lão gia chúng tôi nhất định cũng sẽ đợi cô ta ở đây. Còn một câu nữa! Bảo cô ta đừng quên chuyện trên sa mạc thảo nguyên, có bấy nhiêu thôi!”. Du Tú Liên trong phòng nói vọng ra: “Được rồi, sau khi bọn ta về Bắc Kinn, nhất định sẽ đem những lời này nói lại với Ngọc Kiều Long!”.
Sử Bạn tử đẩy Hoa Kiểm Hoan một cái nói “Lão gia các ngươi tới bây giờ vẫn còn mong mỏi sao?”. Hoa Kiểm Hoan lắc lắc đầu, thở dài nói: “Không có cách nào!”. Y lại vào ba gian phòng kia nhìn một vòng, trở ra cười nói: “Không phải kém! Sau này ai ở đây thế?”. Sử Bạn tử nói: “Ngươi ở đây được không? Ở đây lại còn có vợ sẵn nữa!”, rồi chỉ người đàn bà kia, lại chỉ Hoa Kiểm Hoan nói với người đàn bà: “Y có nhiều tiền, ngươi đừng khinh y dáng vẻ như thế”.
Người đàn bà cũng ngẩn nên nhìn Hoa Kiểm Hoan một cái, Hoa Kiểm Hoan sờ sờ vết sẹo trên mặt cười nói: “Sử lão gia đừng đùa, tôi muốn hỏi người một câu nghiêm chỉnh, mấy con vịt trong ao có chủ không vậy?”. Sử Bạn tử nói: “Thế thì ngươi có chỗ trút giận! Tại sao chỉ nhớ có vịt của người ta không thế? Chắc theo lão gia ngươi ở trong miếu đạo sĩ bấy nhiêu ngày, thèm rồi phải không? Được rồi, ngươi cứ bắt một con về mà ăn chay!”. Hoa Kiểm Hoan mừng rỡ bước ra.
Giây lát mọi người ăn cơm xong, Du Tú Liên cho tên lâu la và người đàn bà một ít tiền, khuyên họ từ nay trở đi đừng làm chuyện xấu, rồi tất cả cùng lên ngựa. Họ tới huyện Phòng Sơn, thấy trong một khách điếm có quàn một chiếc quan tài, nguyên là Hạ Tụng đã bị thương mà chết, quan tài quàn lại ở đó, người đánh xe về báo tin. Họ đi về phía đông, trên đường lại gặp Dương Kiện Đường, Hầu nhi thủ theo Lôi Kính Xuân dẫn đường định tới núi Ác Ngưu, hai bên gặp nhau, bèn tìm một khách điếm ngủ lại, Du Tú Liên kể lại tất cả mọi chuyện ở núi Ác Ngưu, Ngũ Hồi lĩnh hai hôm nay, sau đó quyết định đường đi của từng người. Du Tú Liên không muốn trở lại Bắc Kinn, định xuống nam về huyện Cự Lộc, Dương Lệ Phương lại muốn tới phủ Chính Định thăm chị nàng. Du Tú Liên nói: “Bây giờ ngươi đã trả được mối thù của cha mẹ rồi, lại tìm được một người anh, cũng nên tới nói với chị một tiếng. Vậy mời Dương sư phụ đưa ngươi đi tới Hà Nam một chuyến, tới Chính Định thì chúng ta chia tay, ngươi thăm chị xong, lại nhờ Dương sư phụ đưa ngươi về kinh”. Dương Kiện Đường cũng ưng thuận, hiện chỉ có Lôi Kính Xuân không có chỗ nào đi, vả lại y cũng không có nơi ăn chốn ở.
Dương Kiện Đường bèn nói: “Ta có thể mời ngươi làm tiêu đầu ở Toàn Hưng tiêu điếm, Tôn huynh đệ cứ về trước với y! Đầu tháng sau bọn ta ắt vè kinh gặp nhau”. Lúc ấy mọi người nghỉ lại ở khách điếm một đêm, hôm sau lần lượt lên đường. Sử Bạn tử lúc nào trong túi cũng có tiền nhưng không lúc nào có chỗ ở nhất định, Hầu nhi thủ lẽ ra cũng phải trở lại Bắc Kinn nhưng sợ Lý Mộ Bạch bèn lấy lòng Sử Bạn tử. Cho nên Tôn Chính Lễ, Lôi Kính Xuân lên bắc, Du Tú Liên, Dương Kiện Đường, Dương Lệ Phương cùng về nam. Sử Bạn tử và Hầu nhi thủ lại đi về phía tây, vì Sử Bạn tử là người Sơn Tây, cũng theo Hầu nhi thủ về nhà cha y ngụ lại.
Đến bây giờ tính ra việc chém giết đã chấm dứt, thù hận đều tiêu tan, người nhẹ ngựa nhàn. Dương Lệ Phương ở lại nhà chỉ nàng tại phủ Chính Định, bế cháu chơi đùa vài hôm, vừa buồn vừa vui kể lại tất cả mọi chuyện cho chị nàng, rồi theo Dương Kiện Đường lên bắc. Đi mấy ngày, hôm ấy tới vòm cổng Chương Nghĩa Môn, Dương Kiện Đường trước tiên tìm một khách điếm bảo Dương Lệ Phương vào nghỉ một lúc, y thì cưỡi ngựa vào thành. Lát sau, một cỗ xe do tiêu điếm của y thuê tới đón Dương Lệ Phương vào thành về nhà Đức gia.
Dương Lệ Phương rời nhà khoảng nửa tháng, lúc bấy giờ trở về, cả những bụi bặm, vừa đen vừa gầy, nhưng tinh thần lại rất sảng khoái. Hai hàng lông mày của nàng trước kia thường nhíu lại, lúc ấy đã giãn ra. Gặp cha mẹ chồng nàng sa nước mắt cảm kích, kể lại mọi chuyện trên đường, nhưng không kể một cách quá ghê gớm, quá thê thảm. Lại nén đưa mắt nhìn chồng nàng, vẻ mặt tươi cười.
Đức Đại phu nhân bèn nói: “May là hôm nay ngươi về! Nếu không ngày mai lại khiến người ta ngờ vực là mấy hôm nay ngươi không có nhà. Phu nhân của Ngọc phủ mất rồi! Quan tài quàn ở nhà chín ngày, ngày mai là ngày Bạn túc, hôm sau nữa thì đưa đi, định quàn ở chùa Quảng Duyên ngoài Đức Thắng Môn. Ba hôm nay ta đều tới thăm viếng, vì ngươi không đi với ta nên rất nhiều người hỏi thăm ngươi, ta nói ngươi bị bệnh, ở nhà không thể ra ngoài. Người ta lại cho là ngươi có tin mừng”. Dương Lệ Phương đỏ bừng mặt.
Đức Đại phu nhân lại nói: “Hôm nay ngươi cứ nghỉ ngơi một ngày cho khỏe, sáng mai ta đưa ngươi tới Ngọc phủ viếng tang, để thân hữu đều thấy mặt ngươi, chuyện ngươi ra ngoài bấy nhiêu ngày cũng có thể che giấu được”. Dương Lệ Phương vâng dạ, thật ra hôm ấy nàng hoàn toàn không nghỉ ngơi, thay quần áo và trang sức, hầu hạ mẹ chồng, hầu hạ chồng, lại có phấn chấn hơn ngày trước. Đêm ấy trong phòng dưới đèn, nàng lại kể lại tình hình nàng ra ngoài trả thù, hạ giọng kể lại một lượt với chồng, Văn Hùng cũng thấy vui mừng vì thấy vợ anh hùng.
Hôm sau, ăn cơm trưa xong, nàng và mẹ chồng theo lệ của thân thích Ngọc phủ, đều mặc áo tàn bằng vải, tuy hai bên đầu vẫn đeo nữa trang, nhưng không cài hoa, trên mặt cũng không đánh nhiều phấn, ngồi xe nhà tới Ngọc phủ. Lúc ấy tuy trời còn rất nóng, nhưng từng trận từng trận gió thổi tới đã có không khí mùa thu.
Tới trước cổng Ngọc phủ, thấy trên gò cao có bài phường, lụa trắng phất phơ, trước cổng có nhiều xe trắng ngựa trắng đỗ lại, người ra vào đều mặc áo tang. Bên trong trống nện thì thùng, nhạc trỗi ai oán, không khí ảm đạm thê lương, khác hẳn lúc Ngọc tiểu thư lấy chồng ba tháng trước. Dương Lệ Phương được bộc phụ dìu xuống xe, theo mẹ đi vào trong, trước tình cảnh ấy trong lòng cũng không khỏi xốn xang, lại nghĩ: “Lúc ra về mình có nên nói với Ngọc Kiều Long lời La Tiểu Hổ anh mình nhắn không?”.
Lúc ấy tiếng trống thê lương, tiếng nhạc ai oán đưa người vào viện trong. Viện trong che rạp rất cao, bốn vách treo liễn và trướng viếng tang, toàn là của các vị quan lớn đưa tới, đều dùng những từ ngữ như “Hạc phản Dao Trì”, “Phúc thọ song quy”. Ở giữa là linh cữu, có màn vải trắng che kín, trước quan tài bằng gỗ nam mộc có ba cái bàn và hoa trắng, bạc trắng vân vân. Nền trắng soi sáng, khói hương nghi ngút, phía trong bước màn trắng vang ra tiếng khóc làm người ta đứt ruột.
Dương Lệ Phương theo mẹ chồng dâng rượu một lượt trước linh cữu, làm lễ xong có nữ bộc mặc áo tang ra đỡ họ lên. Người đỡ Dương Lệ Phương là một a hoàn, lại làm Dương Lệ Phương giật nảy mình! Vì nàng biết đó chính là Tú Hương theo Ngọc Kiều Long ra ngoài, giả làm vợ Ngọc Kiều Long. Bất giác tự nhủ “Tại sao cô ta lại về đây?”. Tú Hương lại hơi gật đầu cười nói: “Đức thiếu phu nhân người khỏe chứ? Mời người vào trong này nghỉ!”. Đức dpn trên mặt cũng lộ vẻ kinh ngạc nghi ngờ.
Mẹ chồng con dâu họ theo Tú Hương bước vào sau tấm màn trắng, đó là ba gian phòng, chính là phòng ở của Ngọc phu nhân trước kia. Gian bên trái là bọn Bảo Ân, Bảo trạch và các cháu trai quỳ, bên phải là nữ quyến, Đại thiếu phu nhân, Nhị thiếu phu nhân và các cháu gái. Huệ Từ vì bị thương thành bệnh, tình hình nguy ngập, không có ở đó.
Ở đầu giường có một người ngồi, người này thấy khách tới cũng không đứng lên. Người này chải tóc theo kiểu thiếu phụ Bát kỳ, đầu cài trâm bạc, vòng tai bằng bạc, lại đội một cái mũ tang. Theo tang phục mà nhìn thì biết là con gái người quá cố, tiểu thư của bản phủ. Đó là Ngọc Kiều Long, nàng sắc mặt xanh xao, tiều tụy, nên hai con mắt lại càng to, một tay đặt trên chiếc bàn bằng gỗ hồng mộc, tay kia cầm khăn lau nước mắt.
Đức Đại phu nhân và Dương Lệ Phương trò chuyện, an ủi hai vị thiếu phu nhân suốt nửa ngày, Ngọc Kiều Long vẫn không đứng lên, cả mí mắt cũng không ngước lên, đến khi Tú Hương bước tới hạ giọng nói: “Đại phu nhân và Thiếu phu nhân của Đức phủ tới, người nhìn kìa!”, Ngọc Kiều Long lúc ấy mới uể oải đứng lên.
Đức Đại phu nhân bước tới nắm tay nàng nói: “Cô cũng bớt phiền não đi! Lão phu nhân tuổi tác cũng đã cao, con cái cháu nội đông đúc, cũng chẳng có gì không yên tâm nữa. Cô cứ nghĩ xem, sức khỏe của cô mới quan trọng!”. Ngọc Kiều Long lại ứa nước mắt, tinh thần bạc nhược, ngại cả nên tiếng trò chuyện, người khác khuyên gì nàng cũng gật đầu. Tú Hương luôn bên cạnh nàng, hai chị dâu của nàng đều ở trước mặt, các nữ quyến thân hữu ra vào tấp nập. Dương Lệ Phương ở đó là vai nhỏ hơn, trong lòng tuy có lời muốn nói, vả lại còn là những lời Ngọc Kiều Long sốt ruột muốn nghe, nhưng nàng không có cơ hội nói ra, trong lòng vô cùng sốt ruột. Lát sau lại được đám bộc phụ mời các nữ khách vào phòng nghỉ ngơi, trong đó có rất nhiều người quen, phần lớn là đội khăn trắng, mặc áo tang, uống trà, hút thuốc, Lỗ phu nhân thông gia thì không tới. Đức Đại phu nhân cùng một người trò chuyện một lúc, Dương Lệ Phương thì trò chuyện với đám nữ khách cùng vai vế ở một phòng khác.
Lúc ấy khách khứa bên ngoài nhao nhao vào viếng tang, tiếng nhạc khi trên sạp tụng kinh cũng bắt đầu trỗi lên, tiếng tụng kinh vang lên. Tiếng chuông vang lên leng keng leng keng, tiếng tụng kinh chậm rãi không có gì là du dương, các sư đọc xong một lượt, lại có các ni cô cất giọng trong trẻo tụng kinh, kế là giọng tụng kinh âm vang rõ ràng của các đạo sĩ.
Dương Lệ Phương và mấy vị phu nhân nhỏ tuổi đều từ cửa kính nhìn trộm ra, thấy có chín đạo sĩ, đều mặc áo thủy điền thêu hoa, có người tay cầm bảo kiếm, có người tay cầm như ý, chuông khánh cùng khua vang, cùng cao giọng đọc kinh, đi vòng quanh linh cữu một vòng, lại trở lên trên cái đài rất cao có dải lụa trắng phất phơ, kế đến lại là các nhà sư phiên Thích Ma, đều đội mũ vàng, thổi một loại kèn dài hơn một trượng, tiếng ồm ồm như trâu rống, đánh trống da tròn cái lớn cái nhỏ, thỏi tù và bằng vỏ ốc tu tu, cất tiếng đọc kinh như sóng gió vang rền.
Khách đàn ông trong viện ra vào tấp nập, ít người mặc áo tang mà nhiều người mặc quan phục trên mũ có gắn hoa linh, nhưng không thấy Ngọc đại nhân. Chỉ thấy Lỗ Quân Bội mặc một chiếc áo tang rộng thùng thình, được hai người tớ trai dìu, y mắt và miệng đều hơi méo, cử động rất khó khăn, nếu không có người dìu thì chắc không bước đi được.
Vì thế rất nhiều người bên cạnh đều thì thào bàn tán, vốn là chuyện có liên quan tới hai nhà Ngọc Lỗ trước đây hầu như không ai biết, chẳng qua chỉ là oán trách sau lưng Ngọc Kiều Long “Nếu không phải là cô ta thì hai nhà không đến nỗi trở thành như thế này, Lỗ cô gia cũng không đến nỗi thành bán thân bất toại như thế, Huệ Tử cũng không đến nỗi bị cường đạo làm bị thương. Ngọc đại nhân chẳng phải vì chuyện con gái mà bị bãi quan, làm gì mà đến nay vẫn mắc bệnh không tiếp khách được! Ngay Ngọc phu nhân cũng không phải vì chuyện con gái mà đau lòng qua đời hay sao?”.
Chợt Khâu Thiếu phu nhân vào, làm lễ trước linh sàng xong, cũng vào gặp Ngọc Kiều Long. Sau đó lại tới phòng nữ khách, trò chuyện với mọi người ở đó một lúc lại đi tìm Dương Lệ Phương, vội vội vàng vàng kéo tay Dương Lệ Phương, hạ giọng hỏi: “Ngươi về lúc nào? Sự tình xong cả rồi chứ?”. Dương Lệ Phương giật nảy mình, mặt đỏ lên, gật gật đầu nói: “Đã xong cả rồi!”, rồi nói rất khẽ: “Cháu mới về hôm qua”. Khâu Thiếu phu nhân lại hỏi: “Du Tú Liên có về không?”. Dương Lệ Phương nói: “Không! Du cô cô chia tay cháu ở nhà chị cháu tại phủ Chính Định, về huyện Cự Lộc rồi”.
Khâu Thiếu phu nhân gật gật đầu, quay người định đi, Dương Lệ Phương lại gọi: “Thím Khâu!”. Khâu thiếu phu nhân quay lại, Dương Lệ Phương vội bước tới, chỉ ra ngoài cửa sổ vừa kinh ngạc vừa cười cười hỏi: “Tại sao Tú Hương cũng tới đây? Nghe nói cô ta theo tiểu thư của họ ra ngoài, không biết ở nơi nào mà?”.
Khâu Thiếu phu nhân hạ giọng trả lời: “Vốn là họ đi rất xa, tới tận thôn Liễu Hà, ngụ lại trong nhà một nông dân họ Chúc. Lão thái thái nhà này vốn là Chúc má trong nhà ta trước đây, người này thì ngươi không biết, nhưng mẹ chồng ngươi đã gặp. Ngọc Kiều Long an trí Tú Hương ở đó, còn cô ta thì ra ngoài gây chuyện. Nhưng Tú Hương chờ tiểu thư trong nhà họ Chúc quá lâu không thấy trở về, cô ta cũng không thể đi đâu, không biết làm sao, gần đây nhất Lý Mộ Bạch đột nhiên tới nhà họ Chúc, nói tiểu thư của cô ta lại về làm Thiếu phu nhân nhà họ Lỗ. Cô ta bèn nhờ con trai của chúc má đưa về Bắc Kinn, trước tiên tới nhà ta, ta mới biết tất cả mọi chuyện họ làm bên ngoài, đó là chuyện hôm trước. Bây giờ con trai của Chúc má, lão Chúc vẫn đang ở nhà ta chưa về!”.
“A hoàn Tú Hương này rất có lương tâm, cô ta nghe phu nhân của họ bệnh mất nên vội về phủ điếu tang, giúp đỡ. Hôm trước cô ta nghỉ lại ở nhà ta một ngày, ta phái người qua nói với Đại thiếu phu nhân ở đây, Ngọc đại thiếu phu nhân ưng thuận cho cô ta về, sáng nay cô ta mới tới. Lo xong mọi viêc, ta nghĩ người trong nhà họ thế nào cũng hỏi han cô ta một phen, nhưng không biết cô ta có chịu nói thật hay không! Dù sao thì chuyện Ngọc Kiều Long biết phi thiềm tẩu bích, có một thân bản lĩnh giang hồ, cũng không giấu ai được nữa rồi, chuyện cô ta với Tiểu Hổ mọi người cũng đều đã biết”.
“ Nghe nói Ngọc Đại phu nhân chết tự nhiên là vì bệnh, nhưng cũng là vì tức giận. Bà ta không ngờ con gái mình, một vị thiên kim tiểu thư lại đi yêu một tên cướp. Bây giờ La Tiểu Hổ ngàn vạn lần đừng xuất hiện ở kinh đô. Rất nhiều quan lớn đều phái người đi bắt y để hai phủ Ngọc Lỗ được hả giận. Còn nữa, a hoàn Ngâm Tự ở đây bây giờ đã khỏi bệnh, đã nói được rồi, hiện ở viện trong hầu hạ Huệ tiểu thư, cô ta không dám gặp Ngọc Kiều Long. Hôm động phòng hôm trước Ngọc Kiều Long dùng thủ pháp điểm huyệt gì đó điểm huyệt cô ta, Ngọc Kiều Long trốn đi thế nào, một câu cô ta cũng không chịu nói với người ngoài”.
“Ngươi không thấy à? Những nữ khách hôm nay tới đây có ai dám tới gần Ngọc Kiều Long đâu? Mọi người nửa sợ cô ta, nửa là bất mãn, khinh thường cô ta. Sắp tới hai người anh của cô ta cùng đinh ưu, cha cô ta mà chết thì ta thấy không còn ai lui tới nhà cô ta đâu. Nhà chồng tuy chưa đuổi cô ta, nhưng cô ta cũng không mặt mũi nào tới đó ở, ta thấy cô ta vừa đáng trách vừa đáng thương! Trước đây lúc cô ta mới tới Bắc Kinn mới vinh dự làm sao! Bao nhiêu người hâm mộ cô ta, bây giờ thì họ đều thỏa mãn rồi!”. Đang nói thì có một nữ khách bước tới, Khâu thiếu phu nhân lập tức im bặt, Dương Lệ Phương cũng đi qua hầu hạ mẹ chồng nàng.
Khách khứa già trẻ tới càng lúc càng nhiều, tiếng tụng kinh, tiếng chuông trống đợt sau ầm ĩ hơn đợt trước, tiếng khóc của họ hàng càng lúc càng thê thiết. Đến lúc Tống thánh buổi tối, ra ngoài đốt rất nhiều lầu gác xe ngựa bằng vàng mã, có người thấy Ngọc Kiều Long thủy chung vẫn ngồi đó, suốt ngày nàng không nói câu nào với bất cứ ai. Đến khi trời tối thì ngoài những người chí thân, những khách như Đức Đại phu nhân, Dương Lệ Phương, Khâu thiếu phu nhân đều đã ra vè hết.
Sau canh hai, người trong gia đình bắt đầu làm lễ động quan, tiếng khóc vang lên ầm ĩ. Ngọc Kiều Long quỳ trước linh cữu khóc tới mức ngất đi hai ba lần, phải đốt ngãi cứu cho mới tỉnh. Nhưng nàng vẫn không nói câu nào. Đến khuya Ngọc Kiều Long vẫn ở trong phòng ngủ của nàng trước kia, cửa sổ phía sau và cánh cửa xoay trong phòng, nơi trước kia giấu bảo kiếm, quần áo dạ hành, cái hộp nhỏ đựng bộ “Cửu Hoa quyền kiếm toàn thư”, tất cả đều khiến nàng nhìn tới là đau nhói.
Những bức tranh vẽ chữ viết trên đầu giường vẫn còn bị lửa nến làm sém vàng. Chữ thì bút lực cứng rắn, họa thì thanh nhã tú lệ, con dấu “Ý Vân Hiên chủ nhân” vẫn còn đỏ như mới. Ý tức ức Vân chính là Bán thiên vân, điều này chỉ có một mình nàng biết. Gã Bán thiên vân chà đạp tuổi xuân của nàng, quấy nhiễu cuộc sống khuê phòng yên tĩnh của nàng! Nhưng đám mây hùng tráng, mạnh mẽ, thô bạo, kích ngang khẳng khái ấy lại vương vấn có tình khiến nàng bất giác lên giường, nằm sấp trên gối, lại hu hu khóc lớn.
Lúc ấy có bộc phụ Tiền má hầu hạ bên cạnh, Tiền má là bộc phụ hầu hạ Ngọc phu nhân trước đây, xưa nay rất được tin cậy. Lúc Ngọc phu nhân qua đời, từng dặn tiểu thư của họ “Hài tử! Những chuyện trước đây không trách móc gì ngươi, mà chỉ trách ta quản giáo không nghiêm. Ngươi phải lấy môn hộ nhà ta làm trọng!”. từ lúc ấy tiểu thư không ngừng rơi nước mắt, đến nay đã tròn chín ngày. Trong chín hôm ấy nàng không ăn uống gì, cũng không nói câu nào, ai khuyên cũng không được.
Lúc ấy nàng khóc càng nức nở, Tiền má má ở bên cạnh cũng không kìm được nước mắt, rất sợ tiểu thư lại vì khóc mà chết luôn! Bà ta bèn bước tới gần giường, dịu dàng khuyên giải, nói: “Tiểu thư đừng đau buồn nữa! Phu nhân của chúng ta nhất định sẽ tới tây thiên thành Phật! Ngươi nên bình tĩnh suy nghĩ lại mà xem, phu nhân nghe kinh trước Phật tổ Như Lai chúng ta ở Tây thiên, cũng rất yên lòng. Nếu không phu nhân sẽ không nhắm được mắt, linh hồn cũng thường nhung nhớ nhà này, người là người biết chữ, chẳng lẽ lại không hiểu đạo lý ấy sao!”.
Câu ấy của Tiền má, ngay bà ta cũng đã thuộc lòng, nói với tiểu thư không chỉ một lần, nhưng Ngọc Kiều Long vẫn như chưa từng nghe qua, cho dù người nào khuyên giải cũng không làm khuây khỏa được nỗi lòng đau thương tan nát của nàng. Tiền má ở bên cạnh hoảng sợ, vẫn không ngừng luôn mồm khuyên giải.
Đột nhiên cửa phòng mở ra, tấm rèm vén lên, một cô gái mặc áo tang bím tóc dài bước vào. Tiền má nhìn lại, thấy là Tú Hương, bèn thở dài nói: “Tú Hương cô nương, ngươi xem tiểu thư của chúng ta đấy, nếu cứ khóc thế này lại không chết mất sao? Ngươi đi bấy nhiêu ngày mới về, ngươi không biết à? Ồ, ta hầu hạ trong phủ này hơn hai mươi năm, từ Bắc Kinn hầu hạ tới Tân Cương, lại từ Tân Cương hầu hạ về kinh. Thật không ngờ trong vòng nửa năm nay, mà gia đình này lại trở nên như thế, bọn người dưới chúng ta cũng thấy đau lòng!”.
Tú Hương lại lén xua xua tay, nói: “Đừng vội! Như thế lại càng không xong, tính nết của tiểu thư bà không biết đâu, bà cứ đi nghỉ đi, để tôi khuyên giải có thể còn được!”. Tiền má má lau nước mắt nói: “Lúc trước lẽ ra ngươi không nên đi. Nếu ngươi cứ ở nhà, thì về sau cũng không có chuyện thế này!”. Tú Hương càng xua tay rối lên, hạ giọng nói: “Đừng nói thế nữa! Đi mau đi!”. Cô ta liên tiếp xô đẩy, bảo Tiền má má ra ngoài, rồi tiện tay đóng then lại, sau đó thong thả trở vào phòng.
Ánh nến trắng trong phòng leo lét ảm đạm, còn tối hơn cả ánh đèn dầu trong nhà họ Chúc ở thôn Liễu Hà, hoa đèn rất dài, cô ta cố ý không cắt đi, lại bước tới trước giường khẽ vỗ Ngọc Kiều Long một cái, nói: “Tiểu thư, chúng ta ở ngoài đã gặp rất nhiều tai nạn, nhưng đều vượt qua được. Bây giờ tuy phu nhân đã qua đời, nhưng ngươi còn trẻ, sau này ngươi muốn ở nhà mẹ thì ở nhà mẹ, muốn ở nhà chồng thì ở nhà chồng, nếu đều không muốn thì tôi lại theo người ra ngoài, người không muốn tới Hành Sơn sao?”.
Ngọc Kiều Long nghe Tú Hương khuyên mới lật người lại, hai con mắt sưng húp nhìn nhìn, đột nhiên ngồi dậy, hạ giọng nói: “Ta đang muốn hỏi ngươi đây! Ngươi ở nhà họ Chúc, không phải ta không để lại tiền cho ngươi! Ngươi lại rất thân thiết với nhà họ Chúc, tuy ta đi nhưng ngươi cũng nên ở lại đó. Nếu ngươi không muốn ở lại đó thì cũng nên trở về nhà ngươi ở Đào Cốc, cần gì phải về kinh làm phiền cho ta! Ngươi nghĩ người khác không biết ngươi đi theo ta à? Ta sợ là tới bây giờ cả bọn Tiền má má cũng đã biết rồi!”. Lại trừng mắt hạ giọng nói: “Cái hộp nữ trang của ta ngươi có mang về không? Bây giờ ngươi cất ở đâu? Chỗ cất giấu có kín đáo không?”.
Tú Hương lộ vẻ hoảng sợ, nước mắt thánh thót rơi xuống, run run nói: “Tôi cũng chính vì chuyện ấy mới vội về đây báo với tiểu thư. Nếu không, không có lệnh của tiểu thư thì tôi quyết cũng không dám rời khỏi nhà họ Chúc, mà bây giờ vẫn còn ở đó! Từ khi tiểu thư đi, bọn Chúc đại ca hàng ngày đi tìm con Tuyết Hổ, nhưng vẫn chưa tìm được!”.
Ngọc Kiều Long thở dài nói: “Một con mèo có mất thì cũng thôi, bây giờ ta cũng không cần nó nữa! Còn cái hộp nữ trang, chẳng lẽ ngươi không mang về hay sao? Hay là vẫn còn giấu trong cái hốc lò sưởi ở nhà họ Chúc?”. Tú Hương nói: “Tôi có mang về! Nhưng hôm mùng ba, có một người tới nhà họ Chúc ở thôn Liễu Hà, chính là người có ba chòm râu đen đã tỉ kiếm với tiểu thư”.
Ngọc Kiều Long nghe thấy lập tức biến sắc, vội hỏi: “Người nào? Là Lý Mộ Bạch à?”. Tú Hương nói: “Đúng! Y nói y họ Lý, người này rất có hòa khí. Y tới tìm tôi nói không có chuyện gì khác, mà đòi tôi bộ “Cửu hoa toàn thư” gì đó. Tôi nói tôi không biết, lúc tiểu thư chúng tôi đi, chỉ để lại quần áo chăn nệm, không có vật gì khác, y cũng không mè nheo gây chuyện mà bỏ đi, tôi cũng không để ý. Tối hôm ấy Chúc nhị tẩu và Chiêu Đệ mời tôi qua phòng họ đánh bài, lúc tôi rời khỏi phòng, thì khóa cửa phòng rất chặt”. Ngọc Kiều Long nghe tới đó, đập xuống giường hai cái nói “Ồ, ồ…”. Nàng hít sâu mấy hơi liên tiếp.
Tú Hương lại nói: “Lúc trở về, vì ống khóa không có dấu vết gì, nên tôi cũng không để ý. Cái hộp ấy chẳng phải tiểu thư dặn tôi thường để ý sao? Tôi nghĩ nhất định vẫn còn trong hốc lò sưởi, quyết không có chuyện gì. Tôi bèn đóng cửa phòng thật chặt, lại có Chiêu Đệ ngủ cùng, tôi vì lo lắng cho tiểu thư, nên suốt đêm không ngủ được…”. Ngọc Kiều Long sốt ruột nói: “Ngươi nói mau đi! Quyển sách trong hộp mất rồi phải không!”.
Tú Hương khóc gật đầu, nói: “Lúc ấy cái hộp nữ trang đã mất rồi. Sáng sớm hôm sau, họ Lý lại tới gõ cửa nhà Chúc gia, Y cầm cái hộp nữ trang của tiểu thư, nhưng đã bị mở ra. Y nói tối qua y lấy đi nhưng không đụng tới một món nữ trang nào trong hộp, nếu sau này phát giác bị mất thì y sẽ bồi thường. Nhưng trong hộp có mấy quyển sách, đó là của y, y đã lấy lại rồi. Chúc đại ca, Chúc nhị ca xô đẩy y không được, lại nghe y nói tiểu thư đã về Bắc Kinn làm thiếu phu nhân ở nhà họ Lỗ, rồi không nói gì nữa bỏ đi”.
“Bọn tôi sợ y có lai lịch, lại biết y bản lĩnh cao cường, nên không dám chọc giận y. Về sau lão Chúc thấy tôi ở trong nhà họ không hợp, cũng khuyên tôi về. Tôi cũng nghỉ phải đem chuyện sách bị người ta lấy đi cho tiểu thư biết, tôi bèn bảo lão Chúc thuê xe đưa tôi về! Chúc lão đầu hiện vẫn còn ở Khâu phủ chưa về, cũng muốn gặp tiểu thư làm gì đó. Nhưng hôm qua tôi ở Khâu phủ lại thấy Lý Mộ Bạch tới tìm Khâu tiểu hầu gia, giống hệt như quý khách, đại khái là dựa vào Khâu tiểu hầu gia, còn không cho tôi về đây, nói là sợ lại gây ra chuyện phiền phức gì khác. Khâu thiếu phu nhân lại dặn tôi là chuyện mấy quyển sách nếu tiểu thư không hỏi thì tạm thời đừng nhắc tới. Nhưng tôi nghĩ tuy phu nhân vừa mất, tiểu thư cũng không thể nghĩ tới chuyện đó, nhưng sách là do tôi làm mất, làm sao tôi dám giấu giếm tiểu thư!”.
Lúc Tú Hương nói, âm thanh vừa thấp vừa chậm, lại như sợ tiểu thư sẽ lập tức dùng hình phạt nặng nề với mình, nhưng Ngọc Kiều Long chỉ hỏi lại một câu: “Tất cả sách đều mất phải không? Không còn quyển nào trong hộp phải không?”. Tú Hương kéo vạt áo tang lau nước mắt, buồn bã nói: “Mất hết, chỉ còn bốn cái vòng, sáu đôi bông tai, mười chiếc nhẫn…”. Ngọc Kiều Long xua tay nói: “Không cần nói rõ, số nữ trang ấy ta cũng không cần, ta thưởng cả cho ngươi đấy. Ta hỏi ngươi, ngoài Lý Mộ Bạch còn có ai tìm tới ngươi không? Ngươi có gặp người nào họ La không?”. Tú Hương sửng sốt, lắc đầu nói “Không có!”.
Ngọc Kiều Long hít sâu một hơi, chỉ nói: “Ngươi hầu ta ngủ đi!”. Tú Hương vội cởi áo tang, kế cởi hài cho tiểu thư. Ngọc Kiều Long không cởi áo trong, nằm vật xuống chiếc giường gỗ, Tú Hương vội lấy chiếc khăn lụa màu lam đắp cho nàng, lại chải lại búi tóc cho nàng rồi búi cao hơn một chút. Dưới ánh đèn ban đêm, nhìn thấy Ngọc Kiều Long đã nín khóc, hai mắt mở to giống như đã chết. Tú Hương nhớ lại tiểu thư là một người như rồng như cọp, bây giờ lại trở thành thế này, không kìm được cảm thấy hơi sờ sợ, bèn khẽ khàng kéo màn lại, sau đó cầm đèn qua phòng kia ngủ. Lúc ấy dưới mái rạp ngoài cửa sổ vẫn còn ánh đèn, người canh gác ở đó thỉnh thoảng lại đốt giấy tiền vàng bạc, bốn bể yên ắng không một tiếng động.
Đêm ấy trôi qua, là đến ngày động quan, người trong phủ ai cũng tất bật. Bọn phu khiêng quan tài đã sớm tới ngoài cổng, dưới gò đã có tiếng lao xao, vang vào tới tận lớp viện lạc sâu nhất. Hòa thượng, ni cô, đạo sĩ, sư Phiên cũng đều tới tụng kinh, có điều hôm nay họ tụng kinh rất vội vã, mường tượng như giục linh cữu đi sớm một chút. Thân thích bạn bè cũng tới không ít, cũng đều đứng ngồi không yên.
Lát sau, tất cả già trẻ trai gái trong Ngọc phủ áo mũ trắng như tuyết, xúm quanh quan tài, nhất tề bật tiếng khóc lớn, cả bọn tôi tớ cũng rơi nước mắt. Ngọc đại nhân bảo một người đầy tớ dìu ra, cũng tới trước linh cữu giẫm giẫm chân, lại cao giọng nói: “Mau lên! Mau gọi người vào khiêng quan tài đi, tới chùa rồi các ngươi sẽ khóc tiếp! Để ta được rảnh tai, được nhìn thấy…cái khác, nếu không ta cũng chết mất thôi! Ôi! Nhà chúng ta bất hạnh quá!”, lại giẫm chân, cơ hồ giẫm gãy đòn khiêng quan tài. Vị lão tướng này một đời nhung mã, trước nay oai nghiêm hiển hách, không hề có dáng vẻ như vậy, giẫm chân xong, ông lại nước mắt lã chã rơi xuống ướt cả bộ râu bạc, khóc lóc như một đứa trẻ, các thân hữu đều bước tới khuyên giải. Bảo Ân, Bảo Trạch đều mặc quần áo đại tang quỳ trước linh cữu khóc cơ hồ ngất đi, nhưng không ai buồn tới khuyên giải họ.
Ngọc Kiều Long thì một mình ở trong phòng, chỉ có Tú Hương bên cạnh, nàng nghe tiếng khóc lóc, ầm ĩ bên ngoài, và tiếng khuyên giải ồn ào, sắc mặt trắng bệch từng chặp từng chặp, trắng như màu áo tang của nàng. Mấy hôm nay nàng đều dùng nước mắt rửa mặt, nhưng bây giờ trên khóe mắt nàng không hề có một giọt nước mắt, lát sau bấy nhiêu tiếng động tiếng ồn bên ngoài đều im bặt, lại hiện rõ một không khí nghiêm trang, bi thảm. Đám phu khiêng quan tài vào viện, dùng dây đỏ buộc quan tài lại rồi từ từ khiêng ra ngoài, làm lễ dập đầu, khi hương tàn mọi người đều theo quan tài ra đi. Đám bộc phụ cũng vào mời Ngọc Kiều Long, nói: “Tiểu thư! Mời người ra cửa lên xe thôi!”. Kiều Long ngay cả mí mắt cũng không ngước lên, đầu cũng không gật, nhưng Tú Hương bước lên đỡ nàng, từ từ đi ra viện trước. Có người còn chưa ra tới ngoài cổng, đã nghe ngoài cổng vang lên một tràng tiếng khóc lớn quả thật có thể làm người bằng sắt đá cũng tan nát ruột gan. Ngọc Kiều Long đột nhiên nấc lên một tiếng, hai tay run lên, Tú Hương vội đưa một chiếc khăn trắng mới cho nàng, Ngọc Kiều Long cầm lấy che mặt.
Lúc ấy quan tài Ngọc phu nhân đã đặt lên xe tang, trên có hoa văn, chạm rồng vẽ phượng rực rỡ, sáu mươi phu kiệu thay phiên khiêng đi, phảng phất như khiêng một chiếc đình to lớn hoa lệ. Phía trước là đội nghi trượng, mang thanh la, cờ xí, bài, lọng, quạt, kim qua, thiết phủ, triều thiên đăng, ưng, chó, lạc đà, ngựa, đơn câu, ảnh đình, kiệu nhỏ, tùng sư, tùng hạc, tùng đình mở đường, còn có rất nhiều tướng liễn, kế đó là đám tăng đạo giơ cao các loại nhạc khí.
Người đi đưa rất nhiều, đều là dạt quan quý nhân, các công tử, đương sai nổi tiếng ở kinh thành. Hai người con trai đi bộ trước linh cữu đều là Tri phủ, càng khiến mọi người ca ngợi, phía sau quan tài là nữ quyến đưa đám, đều ngồi trên xe lừa, tất cả hơn ba mươi chiếc xe phía trước đều là xư buông rèm trắng của người trong gia đình, trong đó có một chiếc của cô nãi nãi Ngọc Kiều Long.
Đoàn người đưa tang chiếm đầy một con đường lớn, đội thanh la mở đường đã tới Đức Thắng Môn mà chiếc quan tài và xe Ngọc Kiều Long phía sau chỉ mới rời khỏi cổng lớn không xa. Hai bên đường người xem đông nghịt, hàng vạn cái đầu chen chúc xem nhiệt náo, so với hôm tiểu thư lấy chồng lần trước còn nhiệt náo hơn. Vì lúc ấy Ngọc Kiều Long còn chưa có tiếng tăm như hôm nay, hôm nay thì đúng là có người cách đây mười dặm tới xe, mọi người đều muốn thấy mặt Ngọc Kiều Long một lần.
Nhưng Ngọc Kiều Long lúc đi ra khỏi cổng, một tay che mặt, một tay được Tú Hương đỡ, như một con thần long chớp lên một cái, rồi bước vào xe, ấn tượng để lại cho người chỉ là một cái bóng thanh mảnh mặc quần áo trắng. Dung mạo tuyệt thế của nàng thì người xem không có nhãn phúc, nhưng mọi người vẫn hồi hộp đi theo. Có người còn sợ hôm nay lại có một hán tử thô mãng xông vào, cầm cung tên bắn vào xe tang, nhưng tới tận chùa Quảng Duyên ngoài Đức Thắng Môn, dọc đường vẫn bình an vô sự.
Ngôi chùa này diện tích rất lớn, là một thiên lâm có danh, mà ở phía đông có gò cao nổi lên, trên có cây táo mọc dầy đặc, chim quạ tụ tập, đó chính là di tích của tường thành thời Liêu Kim, tục gọi là thổ thành. Năm trước Lưu Thái Bảo, Thái Tương Muội lần đầu gặp Bích nhãn hồ ly, Ngọc Kiều Long phóng phi tiểu đả thương Thái Cửu là ở chỗ này, đó là chiến trường của họ ngày trước. Đó là chỗ lần đầu tiên Ngọc Kiều Long để lộ mũi nhọn, dẫn tới hàng loạt những vụ tranh đấu, rắc rối, khổ não về sau. Ngọc Kiều Long lúc bước xuống xe trước cổng chùa, vừa đưa mắt nhìn qua, không kìm được cảm xúc dấy lên, nhưng hùng tâm sôi động lai tắt ngấm trong lòng, nghĩ cuộc đời mình kể như hết rồi chăng?
Linh cữu của mẹ nàng quàn ở giải vũ phía tây, hôm đó lại bày án tế điếu, tụng kinh đốt vàng, đến gần tối mọi người mới dần dần tan về, trong chùa mới trở lại yên tĩnh, chỉ có Ngọc đại thiếu gia Bảo Ân ở lại chùa giữ quan tài. Những người khác kể cả Ngọc Kiều Long nhân lúc trời còn chưa tối, vội lên xe vào thành về nhà. Lúc trên đường đi ngang Thổ thành, Ngọc Kiều Long ngồi trong xe vén rèm nhìn ra ngoài một cái, chỉ thấy mây đỏ như máu, gió chiều như đao, quạ kêu ầm ĩ, giống như đám lâu la thảo khấu giang hồ tụ họp. Gió thu nổi lên, bụi cát bay tung, một dải ruộng lúa mênh mông lại khiến nàng nhớ tới sa mạc và thảo nguyên rộng lớn. Mục đồng không biết ở nơi nào đang thổi sáo, bi thương thê thiết như khúc bi ca của kẻ hào sĩ, nàng trong lòng lại không kìm được chua xót.
Về tới Ngọc phủ, tiểu thư Ngọc Kiều Long vốn không phải là người ở đó, lẽ ra nàng chỉ được ở lại thêm một ngày hoặc ngay hôm ấy phải lên xe về Lỗ phủ, có một bộc phụ, một a hoàn bên Lỗ phủ đi theo hầu hạ nàng. Nhưng nàng không những không về mà còn cho cả bộc phụ, a hoàn của Lỗ phủ trở về. Nàng ở lại nhà mẹ, chỉ cho Tú Hương hầu hạ, nàng ngoài những lúc tới thăm cháu gái là Huệ Tử, đem thuốc chữa đao thương mà nàng cất giấu đích thân băng bó cho Huệ Tử thì không làm việc gì khác, cũng rất ít trò chuyện với hai người chị dâu. Vì tang lễ vừa xong, cha đã từ quan, hai người anh đều đinh ưu về nhà, nên cũng không có thù ứng gì với người ngoài, cổng lớn hàng ngày đóng chặt. Trạch viện sâu sâu, đầy không khí tịch mịch tiêu điều, bên ngoài có chuyện gì nàng cũng không biết. Lỗ phủ thỉnh thoảng có bộc phụ tới thăm hỏi, còn Lỗ phu nhân, Lỗ Quân Bội hoàn toàn không tới, mường tượng như tình thông gia giữa hai nhà vô hình trung đứt hẳn.
Mưa thu rồi gió thu, sương lạnh rơi thì tới tuyết lớn rơi, khí trời ngày càng lạnh dần, hơn trăm cây hoa cúc ở hành lang nở lúc nào tàn lúc nào cũng không ai để ý. Ngọc Kiều Long không những nhiều ngày không đọc sách, mà còn không luyện võ. Có một lần Tiền má má ôm tới một con mèo, toàn thân lông vàng, mắt tròn lông dài, dưới ánh mặt trời vuốt bộ lông một cái, toàn thân nó như bắn ra tia lửa, rất giống một con cọp con. Tiền má má vốn là mang tới cho cô nãi nãi khuây khỏa, Tú Hương cũng rất thích, nói là còn đẹp hơn Tuyết Hổ.
Nhưng Ngọc Kiều Long không nhìn tới một cái, xua tay nói: “mau đem ra ngoài, mau đem ra ngoài! Trong phòng ta đây không cần!”.
Nàng hàng ngày mặc quần áo màu xanh màu trắng, không đánh phấn, không cài hoa, sáng ra Tú Hương chải đầu cho nàng xong, nàng ngồi trên một chiếc ghế gỗ hồng mộc lót nệm dày. Trước mặt bày một cái lò sưởi bằng đồng chạm hoa, đặt tay lên đó, bên cạnh là một cái giỏ tre đựng than, nàng cầm cái que bằng đông gắp than, gắp than cho vào lò sưởi, đốt lửa lên, lại quạt lửa. Có lúc lại lấy mấy hòn than chất thành một cái phòng nhỏ để dễ cháy hơn. Có lúc lại cầm đũa vạch lên than, mường tượng như đang viết chữ, viết một lúc lại lại ứa nước mắt bật tiếng khóc. Có lúc chát một tiếng, ném cái que đồng ra trúng vào khóm hoa mẫu đơn trên cánh cửa xoay đầu giường, Tú Hương lại nhặt lên cho nàng, cứ thế nên Tú Hương cũng thường xuyên hồi hộp, thường xuyên run sợ.
Ngọc Kiều Long sống như thế, cơm nước đều mang tới mà nàng không ăn, không đem tới nàng cũng không đòi. Vả lại ăn uống cũng không sang trọng như trước, quần áo hài tất tuy vẫn cần sạch sẽ, nhưng không còn cần đẹp đẽ nữa.
Đến mùa đông, đã sắp đến tết, thương thế của Huệ Tử đã khỏi hẳn, bộc phụ Lâm má bế nó, lại có Ngâm Tự dắt em trai Huệ Tử là Cương Nhi bốn tuổi, nhưng Ngâm Tự không dám vào phòng. Lâm má nói: “Đại phu nhân bảo tôi bế Huệ tiểu thư tới thăm cô nương!”. Cương Nhi cũng kéo vạt áo Ngọc Kiều Long hỏi: “Cô cô ở trong phòng này có yên ổn không? Đi chơi trò đám ma với cháu có được không?’. Ngọc Kiều Long mỉm cười buồn rầu, kéo tay cháu trai rất thân thiết. Đột nhiên Huệ Tử lại hỏi: “Long cô cô! Lần trước cháu ngụ lại trong miếu đêm mưa gặp cướp, lúc ấy cô mặc quần áo thế nào? Nữ tặc làm cháu bị thương, người đã bắt được chưa?”.
Ngọc Kiều Long nghe thấy đột nhiên biến sắc, mặt mũi đỏ bừng.
Tú Hương vội tìm một quả cầu thêu đưa Huệ Tử chơi, định nói qua chuyện khác. Nhưng Cương Nhi ra sức bò lên ghế đứng, cao giọng nói: “Ta muốn học Long cô cô nhảy lên nóc nhà, ta cũng biết sử dụng phi tiêu!”. Tú Hương vội bế nó đi, bộc phụ Lâm má hoảng sợ nhìn sững suốt nửa ngày, sau cùng thở dài một tiếng.
Qua vài hôm, lại đến ngày giao thừa. Ngày này năm trước nàng đang căng thẳng với bọn Lưu Thái Bảo. Vào lúc này năm trước nàng đã nghĩ danh dự gia đình là trọng, thân phận của mình là quý, không thể khiến mẹ mắc bệnh, cha nổi giận, nên đã quyết định chôn vùi chuyện cũ, im hơi dấu vết. Nhưng không ngờ La Tiểu Hổ lại tới! “La Tiểu Hổ ở…”.
Nàng vừa nghĩ tới La Tiểu Hổ, không cảm thấy tức giận nữa mà cảm thấy đau xót, nàng không quên được thân tình của La Tiểu Hổ, càng không thể không khâm phục can đảm của chàng. Lại không thể không nhớ lại thảo nguyên, sa mạc, miếu cổ và việc y xả thân trượng nghĩa, cầm đao đốt chứng cứ, phong tư hơn người, trò chuyện sảng khoái, khẳng khái mà đi, lại thương xót y thân thế thất ý phiêu linh.
Nhưng vừa nghĩ tới La Tiểu Hổ, thì giọng nói yếu ớt lúc sắp chết của mẹ nàng lại vang lên cạnh tai: “Hiểu rõ đi con ơi! Ngươi phải lấy môn đệ nhà ta làm trọng!”, ý tứ là không muốn con gái lại gần gũi với tên cướp La Tiểu Hổ, chuyện lấy y làm chồng lại càng là ảo tưởng. Nhưng Ngọc Kiều Long nàng không sao gạt bỏ được hình ảnh tên cướp ấy ra khỏi đầu óc. Cửa phòng khuê không khóa được quả tim nàng rong ruổi, nước mắt không dập tắt được tình yêu nàng khơi dậy, tro tàn không vùi được mối sầu hận của nàng.
Lúc ấy Ngọc đại nhân cha nàng bệnh càng nặng, trên giường bệnh tức giận chửi mắng. Ông không chửi ai khác, chỉ chửi Cao Vân Nhạn, mường tượng như Cao Vân Nhạn và nhà ông có mối thù không đội trời chung. Thật ra chỉ có mấy người đầy tớ từng ở Tân Cương mới biết Cao Vân Nhạn là vị Cao cẩn, thích nói chuyện văn chương, chứ người khác không biết là y chửi mắng ai. Cao sư phụ đã chết ở thành Thả Mạt, tuy nói vợ y Bích nhãn hồ ly là một nữ tặc, nhưng có liên can bao nhiêu tới y đâu? Nhưng Ngọc đại nhân chửi mắng y mỗi ngày ít nhất phải mười lần, lại thề không gặp mặt con gái. Đám đầy tớ đều giấu giếm y, chỉ nói: “Cô nãi nãi về nhà chồng rồi!”.
Ngọc Kiều Long lại rất lo lắng về bệnh tình của cha, lại khiến nàng đau lòng và hối hận xấu hổ. Nàng nghĩ “Mẹ đã vì mình mà chết, không khéo mình lại khiến cha cũng vì mình mà chết”. Nhưng nàng không hiểu y thuật, lại không thể đích thân chẩn bệnh cho cha, chuyện thuốc thang đều do các bộc phụ ở phòng trà coi sóc, nàng muốn cắt thuốc cũng không được. Lương tâm cắn rứt, trong cảnh vô kế khả thi, nàng chỉ còn cách dựa vào Tời Pật, bắt đầu cầm tới bút mực, mỗi ngày chép một thiên trong kinh Kim cương. Lại phát tâm nguyện, nếu thần minh phù hộ cha mình khỏi bệnh, tháng tư sang năm, mình sẽ tới dâng hương trên núi Diệu Phong, xả thân nhảy xuống vực.
Tết qua trong không khí thê lương ấy, bệnh tình của Ngọc đại nhân lại ngày càng nguy kịch. Ngọc Kiều Long định đến lễ hội đèn lồng rằm tháng giêng sẽ tới miếu Đông Nhạc thắp hương cầu xin tuổi thọ cho cha, nhưng mới đến mùng mười, có một người họ hàng tới Ngọc phủ thăm Ngọc đại thiếu gia. Tuy không nói ra lời, nhưng ý tứ rất rõ ràng, là “Quan hệ giữa hai nhà đã tới bước này, bệnh của lão gia bên Lỗ phủ không thấy khỏi, cô nãi nãi ở đây cũng không về, chuyện chia tay của hai bên không cần phải nói nữa, vả lại còn dễ gây ra rất nhiều lời đồn đại ở ngoài. Nếu cô nãi nãi ở đây đã quyết định không về nhà chồng nữa thì chi bằng cắt đứt quan hệ, Lỗ phủ sẽ trả lại nữ trang, ở đây trả lại sính lễ, vậy thì cũng không thể coi như Lỗ phủ đuổi thiếu phu nhân về. Trở đi quan hệ thông gia tuy cắt đứt nhưng quan hệ bạn bè vẫn như cũ, đi lại như xưa”.
Ngọc đại thiếu gia lập tức nhận thấy như vậy không được, Lỗ phủ không cần, bỏ con dâu rồi thì tránh được rất nhiều phiền phức, vả lại nếu bệnh Lỗ Quân Bội khá hơn một chút, y vẫn có thể lấy con gái nhà danh giá. Nhưng Ngọc phủ thì thể diện lại rất khó coi, trong nhà có con gái bị nhà chồng đuổi về, có hại tới tiến trình của con em trong nhà, nên ưng thuận với người kia sẽ tìm cách khuyên em gái về nhà chồng.
Người Lỗ phủ nhờ tới nói chuyện đã về, Đại thiếu gia, Nhị thiếu gia của Ngọc phủ cùng bàn bạc, đương nhiên hai vị thiếu phu nhân cũng tham gia thảo luận, kết quả là để hai vị thiếu phu nhân tới khuyên giải cô nó. Ngọc Kiều Long không phản đối lời mọi người khuyên nàng trở về nhà chồng, nhưng nói: “ta ở lại nhà mẹ chồng không phải vì lí do gì khác mà để chăm sóc cha ta bị bệnh, chỉ cần lão nhân gia người khỏi bệnh, ta sẽ lập tức về ngay”.
Nàng nói như thế, lý do cũng khá đầy đủ, Ngọc phủ bèn theo đó trả lời Lỗ phủ. Lỗ phủ đương nhiên cũng không có lời gì để nói, nhưng Lỗ phu nhân và Lỗ Quân Bội đã trở thành tàn phế đều không hi vọng Ngọc Kiều Long trở về nữa. Vì chuyện cũ đã khiến họ trong lòng run sợ, đều biết Ngọc Kiều Long không những biết võ nghệ mà nàng lại có rất nhiều bạn bè biết phi thiềm tẩu bích, xuất quỷ nhập thần, nhất là Ngọc Kiều Long người tình của nàng quả thật không sao đối phó, ai mà cưới nàng về nhà thì người ấy sẽ gặp tai họa.
Ngọc Kiều Long xinh đẹp nhiều tài, sinh ra trong nhà danh môn cự tộc, bây giờ đã bị mọi người coi như một vật đáng sợ. Mọi người coi nàng như nữ quỷ mê hoặc người, con rắn độc xinh đẹp. Ngay hai chị dâu và các bộc phụ a hoàn ngoài Tú Hương ra cũng không ai dám gần gũi nàng, thấy mặt nàng thì lập tức tránh đi. Nàng trở thành một người cô độc, cảm thấy không thể tiếp tục sống trong nhà mình ở Bắc Kinn nữa, nhưng đi ra ngoài thì biết đi đâu? Bộ Cửu Hoa quyền kiếm toàn thu và thanh Thanh Minh kiếm, nỏ Trân Châu đều đã mất, hai bàn tay trắng và một quả tim bị thương thì biết đi đâu? Huống hồ cha lại đang bệnh nặng, mẹ còn chưa chôn cất, tinh thần nàng lại càng mỏi mòn.
Lại qua ba hôm, hôm ấy là ngày rằm tháng giêng, ngày tiết Thượng nguyên, Ngọc Kiều Long vẫn lạnh lẽo như thế, nhưng bên ngoài, trên đường lớn thì càng náo nhiệt. Hôm nay Ngọc Kiều Long muốn tới miếu Đông Nhạc cầu thọ cho cha, nên đám đầy tớ đã sắp xếp đèn hương đầy đủ, người đánh xe nghỉ ngơi nhiều ngày cũng đã đánh xe ra, mui lợp vải xanh, biểu thị còn đang để tang.
Ngọc Kiều Long tuy mang lưỡng bản đầu, nhưng trên đầu đầy châu ngọc nữ trang, cài hai đóa hoa trắng, trên mặt chỉ đánh phấn, không hề tô son. Nàng mặc áo bào bằng đoạn viền da dê màu lam, miếng đệm vai cũng cùng màu, tay đeo vòng ngọc, ngón tay đeo nhẫn, tất cả đều màu trắng, hài cũng một màu xanh. Một thiếu phụ xinh đẹp giản dị như thế, quả thật rất hiếm có. Nàng không gọi ai đi cùng, chỉ mang theo Tú Hương ăn mặc như một người đánh xe, tóc thắt bím buông ra phía sau. Ra khỏi cổng, chim sẽ chim quạ vắng ngắt, buông rèm xe xuống, đi thẳng tới miếu Đông Nhạc.
Hôm ấy là một ngày tạnh trời, trên trời không còn có vài đám mây sót lại, nhưng không có gió, khí trời đã có chút ý vị mùa xuân. Đông Tây bài lâu trên phố lớn phồn hoa, người đi chơi tấp nập, tiếng rao hàng náo nhiệt, cho dù là người tu hành lâu năm trong núi sâu mà tới đó cũng nảy lòng hâm mộ danh lợi vinh hoa cõi trần. Ngọc Kiều Long trên xe chỉ qua rèm cửa nhìn ra bên ngoài hai cái, nàng đột nhiên thấy mình còn trẻ tuổi, còn có sức khỏe và can đảm, còn có thể tìm được sự khoái lạc, niềm an ủi, còn có thể tranh giành, tỷ thí vớ người khác, thậm chí còn có thể đánh nhau một trận. Tóm lại, nàng đột nhiên vì thế động lòng trần, thêm được sinh khí, khôi phục sự kiêu ngạo, dấy lên được hùng tâm.
Tú Hương ngoài rèm xe nhảy lên ngồi trên càng xe, đột nhiên quay lại vén rèm xe nhìn vào trong cười nói: “Tiểu thư, người nhìn xem trên đường mới náo nhiệt làm sao!, dù sao cũng là Bắc Kinn. Tôi thấy khắp nơi dưới gầm trời không có nơi nào như Bắc Kinn đâu!”. Dứt lời cô ta ngẩng đầu nhìn tiểu thư. Hy vọng tiểu thư cười một tiếng. Nhưng Ngọc Kiều Long chỉ khẽ gật đầu, trên mặt tuy không có vẻ tức giận nhưng không hề tươi cười.
Chiếc xe lộc cộc lăn đi, vì trên đường đông người, nên xe không thể đi nhanh. Tú Hương cũng không gợi cho tiểu thư vui vẻ nữa, cô ta chỉ kéo rèm xe lại cẩn thận, nhưng cảnh tượng náo nhiệt phồn hoa hai bên đường khiến cô ta không lúc nào rảnh mắt. Cô ta cũng không có thời gian đâu để nghĩ ngợi là tiểu thư của mình trước cảnh tượng phồn hoa, đường phố náo nhiệt thế này thì có cảm tưởng gì.
Thật ra Ngọc Kiều Long lúc ấy vì hai câu nói mới rồi của Tú Hương lại cảm thấy đau lòng. Nàng nghĩ tới ngày này năm trước, lúc tối theo mẹ lên xem đèn trên cửa hiệu bán vải vóc. Lúc ấy bóng đèn đầy thành, cây lửa hoa bạc, mình cũng không ngờ La Tiểu Hổ trà trộn trong đám người dưới lầu, lúc ấy mình cũng rất vui sướng. Mẹ nói ở kinh thành náo nhiệt hơn Tân Cương rất nhiều, mình lại lắc đầu, nói là tuy hơn Tân Cương nhưng mình vẫn nhớ Tân Cương. Lúc mẹ mình chết, vẫn thều thào dặn dò không nên gặp gỡ y nữa, nhưng y mới đáng thương làm sao!
Ruột gan quặn thắt, bất giác xe đã ra khỏi Tề Hóa Môn. Vòm cổng Tề Hóa Môn cũng là một phố lớn rất phồn hoa, miếu Đông Nhạc tọa lạc ở đầu phía bắc đường, không chỉ tiết Thượng nguyên hôm nay mà bình thường mỗi khi đến mùng một, mười lăm hàng tháng cũng có rất nhiều trai gái già trử tới đó dâng hương. Trước miếu lại có một cái chợ, ngày thường đã náo nhiệt hơn cái chợ ở trấn Thạch Kiều rất nhiều, hôm nay lại càng náo nhiệt gấp bội.
Người đi dày đặc, gió không thổi qua lọt, xe càng không đi được, người đánh xe lấy thế lực nhà quan cao giọng quát: “Tránh ra! Tránh đường cho ta! Ở đây là những ai thế? Này, này!”. Nhưng người phía trước vẫn không tiến lên được, quả thật ở đó đúng là nhích đi không được. Ngọc Kiều Long đành bảo xe dừng lại. Tú Hương ôm mớ hương như ngến, vừa bước xuống xe thì mường tượng như một biển cháo người, cử động đều không thể làm chủ, trước sau trái phải đều có người.
Ngọc Kiều Long tấm lưỡng bản đầu nhô cao, mấy lần bị chen lấn, trừ phi nàng lúc bấy giờ đột nhiên đạp lên đỉnh đầu người ta như dưa hấu mà đi tới miếu Đông Nhạc, còn thì quyết không sao tới được, nàng chỉ còn cách chen lấn. Phía trước có mấy lão thái thái, bên trái là hai người đàn bà, bên phải là ba người đàn ông, đều đứng sát cạnh nàng, hở thở nồng nặc mùi hành. Sau lưng lại không biết có người nào, chỉ thấy đè tới rất mạnh, tiếng ồn ào điếc cả tai. Tú Hf suýt khóc, nói: “Trời ơi, trời ơi, chém chết người ta rồi! Tiểu thư để ý đấy! Trời ơi! Các ngươi đừng chen tiểu thư của ta…”. Nhưng tiếng cô ta thì ai mà nghe được.
Thật ra Ngọc Kiều Long không sợ gì chen lấn, trước mặt và bên trái đều là phụ nữ, nàng phải nhường nhịn, nhưng ba gã trẻ tuổi bên phải thì cứ thở mùi hành vào nàng, nàng cảm thấy rất bực bội. Bèn đưa khuỷu tay phải huých về phía ấy, huých một cái hất một người ra, ba người ấy bị huých đau quá nhe cả răng ra, một người kêu: “Gãy xương sườn ta rồi, mẹ ơi!”.
Tuy những người ở đó chen lấn nhau, cơ hồ không phải đi bằng chân mình, nhưng đều đi theo một hướng, cùng tiến về cửa miếu. Cho nên chen lấn một hồi, bất giác đã vào tới trong miếu. Chỉ nghe âm thanh rào rào, chỉ thấy khói hương nghi ngút, miếu Đông Nhạc vốn thò thần núi Thái Sơn, nhưng phía sau thì thờ Diêm La mười điện. Cho nên thần ở đó giống như cai quản việc sống chết của người ta, những người tới dâng hương quá nửa là cầu thọ cho người trong gia đình, non nửa là tới điện Tử Tôn nương nương bên cạnh cầu tự, hoặc bán con cho thần. Đó là chỉ nói những người dâng hương, tới có mục đích, còn những người chẳng có mục đích gì, cũng không dâng hương thì e còn đông gấp đôi.
Việc chen lấn chẳng qua chỉ ở ngoài miếu, chứ lên bậc thềm, vào tới đại điện thì không có bao nhiêu người. Ngọc Kiều Long trong khói hương tiếng khánh, thành tâm thắp hương, dập đầu làm lễ. Nàng rơi nước mắt rì rầm cầu khấn, xin Thần Phật cho cha nàng được sống thêm vài năm nữa, lại xin cho mẹ nàng ở âm ty được bình an. Cuối cùng còn tự sám hối, nàng sau khi học võ nghệ, ở sa mạc trên Tân Cương, ở Thổ thành, ở núi hoang sông lớn, cô thôn cổ miếu đều vô ý hoặc bất đắc dĩ giết người gây ra tội lỗi, bèn khe khẽ cúi đầu. Tú Hương đỡ nàng đứng lên, đi xuống bậc thềm. Nhưng vừa trở lại trong đám người, bắt đầu chen lấn, thì chẳng ai đỡ được ai nữa. Chen vào dòng người đi tới lại càng khó khăn, vì những người đối diện bị sức ép sau lưng rất mạnh, chen lấn tới mức Ngọc Kiều Long rất hoảng sợ. Nàng quả thật đã nghĩ tới việc đánh bừa một trận để xông ra khỏi miếu.
Nhưng lúc bấy giờ đột nhiên nghe trước mặt có âm thanh phụ nữ the thé rít lên: “Trời ơi! Các ngươi để ý chân người ta một chút chứ! Chen xuống Quỷ Môn quan à? Chen cái gì thế? Chen vỡ cả miếu rồi, không chen thì không sống được qua đêm nay chắc?”. Lại nghe giọng đàn ông nói: “Các vị xin tránh ra! Xin nhường cho vị khách này đi trước…”. Lại nghe người khác bông đùa, người đàn bà kia nổi giận nói: “Ngươi là cái gì thế? Ngươi nói gì hả? Ngươi dám sờ tay ta à? Ngươi không thấy lão thái thái ta là ai sao?”. Lại nghe người đàn ông kia nói “Thôi thôi! Người ấy quyết không cố ý, chúng ta không đắc tội với ai, họ không thể không nhận ra chúng ta. Bằng hữu! Xin nhường đường, đây không phải là nhà của chúng ta… Nào! Tránh ra, tránh ra! Tết nhất cần gì nổi giận, chen lấn chết người lại bắt Diêm Vương phải tốn tiền!”.
Ngọc Kiều Long nghe thấy giọng nói của hai người nam nữ này rất quen, đang ngạc nhiên thì thấy hai người miệng ồn ào cãi cọ chen bừa ra tới trước mặt nàng, té ra chính là Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo và Thái Tương Muội vợ y. Ngọc Kiều Long bất giác ngạc nhiên, Lưu Thái Bảo cũng trợn tròn mắt. Thái Tương Muội mặc quần áo đỏ, cầm một thẻ hương, lập tức giữa đám đông khuỵu chân xuống thỉnh an, vẻ mặt tươi cười, như gặp người chí thân, nói: “Ngọc tiểu thư người cũng tới đây! Người trước nay vẫn khỏe chứ? Tôi thỉnh thoảng cũng nhớ người!”. Lại cau cau mày nói: “Hôm phu nhân ở phủ mất, chúng tôi cũng chưa tới viếng, ồ, thật có lỗi quá! Hôm nay người lại cùng vị đại thư này tới đây à? Người xem chen lấn thế này, trong đám đông lại có mấy gã xấu xa cố ý gây rối!”. Lại nhìn chồng nói: “Ngươi dọn đường đưa tiểu thư ra đi, tiểu thư người ta đời nào lại chen lấn thế này!”.
Lưu Thái Bảo cũng hướng về Ngọc Kiều Long tươi cười khom lưng, sau đó quay lại vung tay quát lớn: “Chư vị! Xin nhường đường! Mở to mắt ra, nhìn xem vị tiểu thư này là ai? Đây là thiên kim tiểu thư của Ngọc Chính đường lão đại nhân Cửu môn đề đốc tiền nhiệm, các ngươi dám chen à? Ai dám chen nào? Mau nhường đường!”. Cũng lạ, không biết là do giọng Lưu Thái Bảo lớn hay do tiếng tăm của Ngọc Kiều Long lớn mà đám đông chen chúc như thế lại tránh ra một bên đường đi rất rộng, người hai bên không ai không nghểnh đầu ngóng cổ chỉ trỏ.
Lưu Thái Bảo là tiên phong mở đường, Thái Tương Muội là nữ tướng đoạn hậu, lại theo đường lớn lắc la lắc lư đưa chủ tớ Ngọc Kiều Long ra khỏi miếu. Ngọc Kiều Long đã giận đỏ mặt bước lên xe, Thái Tương Muội còn ân cần nói:
“Tiểu thư, tôi thường mong gặp người, người có thường ở nhà không? Chuyện trước đây ngàn vạn lần người đừng chấp!”. Lại kéo tay Tú Hương nói: “Vị đại thư này nếu có thời gian thì tới ta chơi, bọn ta cũng ở đây, ngươi cứ hỏi tiểu thư, tiểu thư cũng biết đấy!”.
Lưu Thái Bảo lại nhìn vào xe giải thích, nói: “Tiểu thư người đừng để bụng, nếu không làm thế thì quyết người không chen ra được. Chuyện quá khứ đã khói tan mù tạnh hết rồi, người đối xử với hai chúng tôi nói chung có nhiều chỗ tốt, ít chỗ xấu. Từ nay trở đi xin…”. Ngọc Kiều Long không chờ y nói hết đã buông rèm che xuống, nổi giận sai người đánh xe đi mau. Lập tức tiếng roi vun vút, bánh xe chuyển động. Người chung quanh đang bàn tán, đều ngạc nhiên hoảng sợ, lại tránh ra thành một đường lớn, nhìn nhìn xe Ngọc Kiều Long chạy về phía tây.
Tú Hương sợ hãi vén rèm xe nói vọng vào trong: “Người đàn bà này có phải trước kia tới cổng phủ chúng ta đi dây…không?”. Ngọc Kiều Long sa sầm mặt không nói câu nào, người đánh xe dường như cũng biết chuyện ấy, tóm lại thằng tiểu tử Lưu Thái Bảo lại giở trò ma cô! Chiếc xe đi nhanh, trong giây lát đã vào thành, qua một lúc trở về tới cổng Ngọc phủ, người đánh xe lấy bậc thang trên xe xuống, Tú Hương dìu tiểu thư xuống xe vào nhà.
Lúc ấy Ngọc Kiều Long sắc mặt vẫn từng lúc trắng bệch, việc mới rồi ở miếu Đông Nhạc mình không phải hoàn toàn giận vợ chồng Lưu Thái Bảo, nhưng thật đáng kinh ngạc là tại sao bấy nhiêu con người vừa nghe nói tới mình đều hoảng hốt tránh đường, là vì lý do gì? Chẳng lẽ thanh danh của mình ở kinh thành lại lớn tới mức ấy sao? Ngay cả đàn bà trẻ con cũng đều biết! Như vậy, cho dù mình vô cùng hối hận, nhưng vạn nhất tương lai trong kinh thành lại xảy ra chuyện gì, như vụ ăn trộm ngọc báu trong cung ba năm trước, thì tuy không phải do mình làm cũng khiến người ta nghi ngờ là mình, mình khó mà biện hộ. Người nhà mình muốn tránh tai họa thì đến lúc ấy e cũng không thể tránh được… Hừ! Mình đúng là không thể ở đây được nữa rồi! Nghĩ tới đó, nàng chỉ thở dài.
Tú Hương ở bên cạnh không dám nói câu gì, nhưng lúc ấy thấy tiểu thư không bi thương lắm, cũng không giống như tức giận, chỉ là có vẻ đứng ngồi không yên, thỉnh thoảng đứng lên, đảo mắt ngơ ngác. Mấy hôm ấy mỗi khi ăn cơm chiều xong Tú Hương ắt xin tiểu thư nghiền một ít châu sa, trải giấy vàng ra, để tiểu thư sao kinh Kim cương, lại đốt một lò hương trên bàn. Nhưng hôm nay Tú Hương vừa theo lệ chuẩn bị, Ngọc Kiều Long lại xua tay nói: “Hôm nay ta không muốn chép, ngươi không cần chuẩn bị nữa! Ngươi đi ngủ đi!”.
Tú Hương nghe thấy, lại bất giác ngẩn ra, nguyên là lúc ấy chưa đến canh hai, tiểu thư đã xua mình đi ngủ, lại lý do gì? Nhưng cô ta quyết không dám hỏi, chỉ dạ một tiếng, trước tiên bước vào dọn giường, Ngọc Kiều Long lại nói: “Đưa chìa khóa rương cho ta, rồi ngươi mau đi ngủ đi!”. Tú Hương lại hoảng sợ, chỉ đành móc chìa khóa trong người ra đặt vào tay tiểu thư. Giường đã dọn xong, lại cho vào chậu đồng mấy hòn than, cắt bấc nến, chuẩn bị sẵn trà nóng.
Ngọc Kiều Long lại xua xua tay, cô ta chỉ đành ôm mối ngờ vực thong thả mở rèm đi ra khỏi phòng, rón rén đóng cửa lại.
Lúc ấy tuy đồng hồ trên vách mới đánh tám tiếng, nhưng chỗ Ngọc Kiều Long trong ngoài đều im phăng phắc, ánh trăng rọi lên bậc cửam từng bậc từng bậc đều rõ ràng. Bên ngoài gió nhẹ hiu hiu, không biết thổi vào cái gì mà phát ra tiếng rì rào, nghĩ tới người ngoài phố không biết là nhiệt náo tới mức nào, đèn đuốc không biết là xán lạn tới mức nào! Đêm nay năm trước lúc mình và mẹ đi xem đèn, cũng chính là hôm La Tiểu Hổ gặp mình, còn bây giờ thì sao? Mẹ đã yên nghỉ dưới suối vàng, La Tiểu Hổ thì không biết đi đâu. Việc người quả thật là dời đổi mau lẹ làm sao.
Lúc ấy tuy chung quanh mười phần tĩnh mịch, nhưng trong lòng nàng lại mười phần căng thẳng! Nàng vươn tay, đá đá chân, cảm thấy mình còn có sức lực. Lại ở trong phòng thong thả đi một bài quyền, vén vạt áo xắn tay áo lên, vung tay ra tư thức, lại múa một bài kiếm. Cảm thấy bộ “Cửa Hoa quyền kiếm toàn thư” tuy đã mất nhưng quá nửa các chiêu số trong sách vẫn in sâu vào đầu óc chưa quên, nàng lại không kìm được kiêu ngạo vui mừng.
Đến khi chuông đồng hồ gõ mười một tiếng, đã sắp đến canh ba, Ngọc Kiều Long mới dùng chìa khóa mở rương. Nàng lục lọi một hồi lâu mới tìm được một chiếc áo lụa xanh ngắn tay, nhưng lại viền gấu màu hồng, một chiếc quần hẹp màu lam, quần áo của nàng chỉ còn có bộ này còn nhỏ hẹp gọn gàng, lại không nổi lắm dưới ánh trăng. Chỉ là lúc ấy nàng trong tay không một tấc sắt, nhưng nàng lại nghĩ không có binh khí thì mình cũng có thể đánh thắng người khác, nên cũng không để ý. Nàng vào giường vội vàng thay quần áo, bên ngoài khoác một chiếc áo Bt kỳ màu lam không ngắn lắm, đi hài đế bằng.
Chờ một lúc, khi phu canh báo hiệu canh ba, nàng nhẹ nhàng mở cửa ra ngoài. Điểm chân xuống đất không một tiếng động, rón rén đi ra viện ngoài, nhân lúc không có ai phát giác ra, nàng bèn phi thân lên tường. Từ tường nhảy ra ngoài cổng, ngoài cổng bóng cây cối lơ thơ, trên gò ngay cả một con chó cũng không có, nàng bèn men theo chân tường ra đi.
Ta lúc bấy giờ bầu trời trong vắt, trăng sáng như gương, trên đường cũng có mọi người túm năm tụm ba, nhưng đều là người xem đèn xong mệt mỏi hoặc uống rượu xong ngà ngà, nên không ai chú ý tới cái bóng nhỏ nhắn đang thoăn thoắt bước đi là nam hay là nữ. Lại càng không ai quan tâm nàng chính là Ngọc Kiều Long, bây giờ lại nhảy ra khỏi nhà, nửa đêm ra ngoài, đi làm công việc bí ẩn khôn lường của nàng.
Ngọc Kiều Long đi tới trước Cổ Lâu, nàng thấy hai bên đường lớn vẫn có ánh đèn lửa, người đi dạo thưa thớt, những người bán bánh đêm Nguyên tiêu vẫn còn cao giọng giao hàng. Nhưng tới Cổ Lâu Đông, bước vào hẻm nhỏ, thì tất cả đều yên ắng, tất cả nhà tranh vách đất đều đóng chặt cửa. Ngọc Kiều Long men theo hẻm đi, cước bộ dần dần nhanh hơn.
Lại đi một lúc nàng đã tới Hoa Viên đại viện, ở đó đất rộng người thưa, bầu trời càng rộng rãi, mặt trăng khảm trên trời trông lại càng tròn càng lớn. Chỗ nhà của Lưu Thái Bảo dường như ở đầu phía bắc, Ngọc Kiều Long tới trước cổng bèn cởi áo dài ra vắt lên vai, sau đó nhún chân nhảy qua tường, cố ý gây ra tiếng động lớn. Đèn lửa trong phòng phía bắc mờ mờ, liền nghe giọng của Lưu Thái Bảo từ trong vọng ra: “Ai đấy, nói mau lên!”.
Ngọc Kiều Long tới trước cửa sổ, nói vọng vào trong: “Là ta, hôm nay chúng ta gặp nhau trong miếu, ta có mấy câu lúc ấy chưa nói với các ngươi, bây giờ ngươi mở cửa ra đi!”. Trong phòng có chút tiếng động, mường tượng như rất kinh ngạc. Ngọc Kiều Long lại nói thêm một câu, âm thanh rất nhỏ nhưng gấp rút: “Các ngươi mở cửa đi, ta không có ác ý đâu!”. Lúc ấy mới nghe một tràng tiếng lạch cạch trong phòng.
Giây lát cửa mở ra, Thái Tương Muội bước ra dưới ánh trăng hoảng sợ nhìn Ngọc Kiều Long, rồi mỉm cười bước tới, hạ giọng nói: “Ngọc tiểu thư, bây giờ người tới đây đúng là quý khách của bọn ta, mời vào phòng mau lên, đứng ngoài lạnh lắm”.
Lưu Thái Bảo lúc ấy cũng vừa cài cúc áo khoác vừa bước ra, cung kính hỏi Ngọc Kiều Long: “Người vừa mới xem đèn về phải không? Trên phố lớn năm nay nhiều đèn hơn năm ngoái, bọn ta cũng vừa đi chơi về, ngươi chưa ngủ à?”.
Ngọc Kiều Long không đáp, bước mau vào phòng. Chỉ thấy hơi ấm phủ khắp toàn thân, cái bếp lò nhỏ rất ấm, tỏa ra một mùi nước tiểu, Thái Tương Muội lập tức vào phòng khêu đèn lên. Ngọc Kiều Long thấy bốn vách đều quét vôi sạch sẽ, dán mấy bức tranh Tết, còn có mấy tờ thiếp “Đài đầu kiến hỷ”, “Lập xuân đại cát”. Trên bàn có một cái chảo nấu thức ăn Nguyên tiêu, trên giường có chăn, lại có một cái chăn nhỏ, bên trong có một đứa nhỏ đang ngủ, Lưu Thái Bảo thì sắc mặt hồng hào, Thái Tương Muội thì ôn hòa tươi cười. Ngọc Kiều Long thấy gia đình nhỏ của người ta như thế, cảm thấy rất hạnh phúc, cũng hơi có ý ghen tỵ.
Lúc ấy Lưu Thái Bảo đã bưng trà tới, Thái Tương Muội kéo tay Ngọc Kiều Long mời nàng ngồi xuống ghế, Ngọc Kiều Long lại xua tay nói: “Ta không ngồi, ta cũng không uống trà đâu!”. Lưu Thái Bảo lại thỉnh an nói: “Hôm nay ở chỗ miếu quả thật tôi nhất thời cao hứng, nên quên hết mọi chuyện! Chứ không phải tôi cố ý rêu rao với mọi người đâu! Sau đó, tôi thấy mọi người lại nhường đường cho người, tôi cũng hơi sợ, tôi nghĩ nhất định người rất giận tôi!”.
Ngọc Kiều Long thở dài một tiếng, lại lắc lắc đầu nói: “Trước kia các ngươi bức bách ta quá, nhưng ta cũng có rất nhiều chỗ có lỗi, bây giờ không nhắc tới nữa! Tính ra thì ta đã thua dưới tay các ngươi!”.
Lưu Thái Bảo nghe câu ấy hoảng sợ nhảy dựng lên, vội nói: “Câu ấy của Ngọc tiểu thư chúng tôi thật không dám nhận! Đầu tiên, phải nói thật, quả thật tôi muốn dựa vào chuyện của người để nổi danh, dễ tìm chén cơm. Bây giờ may được Thiết Tiểu Bối lặc ra ơn, lại gọi tôi về phủ, mỗi quý cấp thêm cho tôi hai lượng bạc…”. Ngọc Kiều Long ngắt lời nói: “Lý Mộ Bạch, Du Tú Liên hiện có ở đây không? Ta còn muốn gặp họ một lần nữa, có vài câu muốn nói!”.
Lưu Thái Bảo và Thái Tương Muội hai người nhìn nhau một cái đều hơi ngẩn người ra. Thái Tương Muội nói: “Du Tú Liên đã đi về huyện Cự Lộc rồi, chẳng lẽ người không biết sao? Lý Mộ Bạch thì…”. Ngọc Kiều Long nói: “Các ngươi cũng không cần giấu giếm cho Lý Mộ Bạch, ta tìm y chỉ để nói vài câu, chứ không muốn đánh nhau với y nữa. Vì ta đã sớm nhận thua dưới tay y rồi”. Nói xong lại khẽ thở dài.
Lưu Thái Bảo bèn cười nói: “Người đừng nói nữa! Võ nghệ của người có thể nói là vô địch trên đời hiện nay, võ nghệ của Lý Mộ Bạch bất quá chỉ là nhờ hư danh…”. Nói tới đó y suýt nữa lè lưỡi, bèn dừng lại nghiêng tai nghe ngóng ngoài cửa rồi mới nói tiếp: “Lý Mộ Bạch học theo phái Giang Nam Hạc, không quản chuyện nhỏ nhặt, không giận chuyện không đâu, không đánh nhau với nữ nhân, không tham phú quý vinh hoa. Thiết Bối lặc gia đãi y như thượng khách, gần đây nhất lấy thư phòng tức chỗ cất thanh Thanh Minh kiếm năm trước, quét dọn sạch sẽ cho đại gia y vào ở. Nhưng đại gia y thường năm ba ngày không về. Ý Thiết Bối lặc muốn giữ y ở lâu, sắp tới sẽ tính chuyện công danh cho y, cũng là xuất phát từ lòng mến mộ người tài. Nhưng đại gia y không chịu, ở lại vài tháng, thấy trong kinh vô sự, y lại muốn đi, Thiết Tiểu Bối lặc cũng không sao giữ lại được. Ngọc tiểu thư, nếu người muốn tìm y thì phải mau lên, nếu không biết đâu y đi ngay đấy ! Đại gia y đi rồi thì như mây ngàn hạc nội, vân du khắp nơi, không biết đến tháng năm nào mới quay lại Bắc Kinn”.
Ngọc Kiều Long nghe thế liền gật gật đầu nói: “Được! Sáng mai ta sẽ tìm y nói chuyện”. Vừa định quay người bước ra, lại nghe Lưu Thái Bảo nói: “Ngọc tiểu thư xin dừng chân!”. Ngọc Kiều Long bất giác sửng sốt, lại thấy Lưu Thái Bảo lật nệm giường khua khoắng loạn lên, lúc ấy Ngọc Kiều Long thấy trong chăn của họ vốn giấu đao. Đại khái mới rồi lúc mình vừa tới họ nhất định đã chuẩn bị liều mạng đánh nhau, về sau mình bên ngoài nói là không có ác ý, họ mới giấu đao vào dưới chăn rồi ra mở cửa. Lúc ấy Ngọc Kiều Long trong lòng minh bạch, nhưng cũng chưa nói gì. Lưu Thái Bảo mò mẫm dưới đầu giường hồi lâu, cả Thái Tương Muội cũng không biết y tìm cái gì. Sau cùng y mò được một tờ giấy, bước tới đưa vào tay Ngọc Kiều Long, cười hì hì hạ giọng nói: “Đây là lần đầu tiên tiểu thư thi triển tài năng, ăn trộm thanh Thanh Minh kiếm trong Thiết phủ xong, lại phái một tên tiểu khất cái tới đưa nửa trang thư này. Lúc ấy lá thư này rơi vào tay tôi. Hơn một năm nay tôi giữ nó như bảo vật. Nói thật ra là thằng tiểu tử tôi có ý xấu, giữ lại nửa trang bút tích này để tương lai đối phó với người. Bây giờ đội ơn người không tra cứu chuyện cũ, lại quang lâm tới đây, đủ thấy là quang minh lỗi lạc, khoan hồng đại lượng. Người đã như vật thì tôi cũng không thể nhỏ nhen! Lá thư này xin trả lại cho người để tỏ rõ là từ nay trở đi tôi không có ý đối đầu với người nữa”.
Thái Tương Muội đẩy y một cái, nói: “Ngươi đừng nói nữa! Những chuyện nhỏ nhặt ấy, tiểu thư người ta hơi đâu mà nghe?”.
Lưu Thái Bảo nói: “Không phải thế! Ta nói ra với tiểu thư thôi. Vì tiểu thư không thể thường tới chỗ chúng ta, hôm nay gặp nhưng có thể không còn gặp được nữa, tiểu thư danh vọng cao, tiếng tăm lớn, trở đi cũng khó tránh khỏi bọn tiểu bối giang hồ muốn tới động thổ trên đầu Thái tuế lão nhân gia người, đến lúc ấy thì người sẽ không nghi ngờ là do ta. Ta hiện nay dựa được vào thể diện của Lý Mộ Bạch đại gia, Thiết Bối lặc lại gọi ta về phủ dạy quyền, từ nay trở đi ta quyết yên phận giữ mình. Cô ở nhà bế con nít ra ngoài, những chuyện ấy phải nói rõ với Ngọc tiểu thư, nếu không tương lai vạn nhất hoặc giả…”.
Thái Tương Muội lại đẩy chồng một cái, khiến Lưu Thái Bảo ngồi phệch xuống ghế. Nàng cười cười nhìn nhìn Ngọc Kiều Long, lại nhìn nhìn chồng, nói “Người ta lại không biết hai chúng ta chung sức cũng không đáng là cái gì sao? Ngươi yên tâm đi, từ nay trở đi người ta xe bị đụng, kiệu bị bắn, quyết không tìm tới chúng ta đâu!”.
Ngọc Kiều Long nghe đoạn cuối, bất giác biến sắc! Nhưng mình đang gấp rút muốn đi, không rảnh rỗi mà nghe lời họ nói, bèn châm lá thư vào đèn. Lại cầm tay Thái Tương Muội, mỉm cười nói một tiếng: “Sau này có lúc gặp lại!”. Lưu Thái Bảo vội nói: “Mau đưa tiểu thư về!”.
Thái Tương Muội cũng nói: “Mời người ngồi thêm một lúc được không? Chúng tôi cũng vừa mới ngủ…”. Lúc ấy đứa nhỏ trên giường lại khóc oa oa, Thái Tương Muội vội bảo Lưu Thái Bảo trông con, nàng thì bước ra ngoài tiễn. Đi tới giữa viện, nàng lại bước lên mở cửa, Ngọc Kiều Long xua tay, nàng chỉ thấy thân hình Ngọc Kiều Long chớp lên một cái, cũng không nghe thấy tiếng động nào, Ngọc Kiều Long đã nhảy qua tường đi luôn.
Lúc ấy trăng tròn đã chuyển về phía tây, ánh sáng dần dần vàng vọt, gió đêm càng nổi mạnh, bốn phía càng tịch mịch. Ngọc Kiều Long đạp lên ánh trăng vội vã bước đi, trong giây lát đã tới trước phủ Thiết Bối lặc. Cánh cổng to lớn trang nghiêm trước phủ lúc ấy vô cùng yên ắng, đôi sư tử đá trước cổng tắm trong ánh trăng, xa xa nhìn như hai đụn mây. Ngọc Kiều Long bèn cuốn áo dài lại, buộc chặt vào người, lúc ấy nàng tinh thần càng phấn chấn, hành động càng cẩn thận, lại nhún chân vượt qua tường phủ, sau đó nhảy lên nóc nhà.
Vì là đêm rằm tháng giêng, người trong phủ đều tụ họp đánh bạc, nên các viện trong phủ có quá nửa còn thắp đèn, nhưng không có ai ra bên ngoài. Ngọc Kiều Long tưng hai lần trộm kiếm, một lần trả kiếm, tới đây tất cả ba lần, nên rất thông thạo đường đi lối lại trong viện. Nàng nép mình tránh ánh trăng, chỉ theo bóng tối dưới chân tường mà đi.
Trong giây lát đã tới hành lang phía tây, đó là gian phòng trước kia cất thanh Thanh Minh kiếm, bây giờ là chỗ Lý Mộ Bạch nghỉ. Trong cửa sổ tối im, có lẽ Lý Mộ Bạch không có ở trong đó. Nhưng nàng lại càng cẩn thận, bước chân nhẹ như chim, cử động nhanh như khỉ, đi tới hành lang thì ngồi chụp xuống một lúc, sau đó mới từ từ đứng lên, lắng nghe động tĩnh bên trong, nhưng không nghe thấy gì. Nàng rất kinh ngạc, bước tới trước cửa thủ thế trước, một tay đẩy về phía trước, một tay mò ống khóa. Nhưng thấy cửa không khóa, bên trong lại có một lớp cửa khác, nhưng đóng rất chặt. Nàng biết trong phòng có người đang ngủ nên càng không dám gây ra một chút tiếng động, nhưng nàng nóng ruột muốn gặp Lý Mộ Bạch, cho dù có đánh nhau lần nữa nàng cũng không sợ. Nàng hết sức cẩn thận, lấy hết can đảm, rút nửa chiếc trâm bạc trên đầu ra cậy cửa, tự nhiên nàng rất cẩn thận, không gật ra tiếng động nào. Nhưng vừa mở được cửa, nàng vừa nhẹ nhàng hé cánh cửa ra, thì thấy trong phòng không có ai, sau lưng lại có một người vỗ vai nàng hạ giọng nói: “Ngươi tới đây làm gì?”.
Ngọc Kiều Long vô cùng hoảng sợ, vội vàng nghiêng người quay lại, nhìn thấy người đứng sau lưng là Lý Mộ Bạch tay cầm thanh Thanh Minh kiếm. Nàng hoảng sợ dựng cả tóc gáy, liều mạng xông ra vung tay nhảy tới định đoạt thanh kiếm của Lý Mộ Bạch. Lý Mộ Bạch phóng cước lên, huỳnh huỵch ầm ầm, đồng thời cửa phòng cũng vang lên một tiếng.
Ngọc Kiều Long thân hình ngã vào trong phòng ngồi phệch xuống đất, lại đập vào một chiếc ghế nhỏ, nàng suýt kêu thành tiếng, vội vàng nhảy bật dậy, biết Lý Mộ Bạch cầm kiếm chặn cửa! Nàng không dám xông ra ngoài, định tìm một vật gì ném ra trước. Nhưng lại nhìn thấy bên cạnh có ánh sáng lóe lên, té ra Lý Mộ Bạch lúc mình ngã đã bước vào, y vào phòng xong, một tay cầm kiếm, một tay thắp đèn. Nàng hoảng sợ lùi vào góc tường, hai tay ôm một cái bình hoa bằng sứ, định lấy đó làm binh khí.
Lý Mộ Bạch lại ngang nhiên đứng cạnh đèn nói: “Ngọc Kiều Long, ngươi không cần động thủ! Từ khi ngươi trở về nhà sống yên phận, ta càng không muốn làm khó ngươi. Thanh Thanh Minh kiếm trong tay ta, Thiết Bối lặc cũng không muốn giữ nó lại, bảo ta sau này cứ mang đi. Hai bộ “Cửa Hoa quyền kiếm toàn thư” gồm bốn quyển ta cũng lấy đi rồi, giữa ta và ngươi không có lý do gì để đánh nhau nữa, hôm nay ngươi tới đây là có chuyện gì?’.
Ngọc Kiều Long đặt cái bình xuống, đột nhiên bật khóc, nàng giẫm chân, cũng bất kể âm thanh lớn nhỏ, vội vã nói: “Ta tới tìm ngươi là vì hai vật ấy! Thanh Thanh Minh kiếm ngươi đưa hay không đưa cho ta cũng không hề gì, còn sách, một bộ là ta giữ gìn, một bộ là ta chép ra. Không có ta giữ gìn, bản sách ấy đã sớm rơi vào tay người xấu, không có ta chép ra…” lại giẫm chân nói: “Ta sao lại không phải dễ dàng, tuy ta đã thuộc được nửa nhưng vẫn phải tới đòi lại sách của ta. Hôm nay ngươi mà không trả cho ta, thì chúng ta đánh nhau lần nữa! Ta hoàn toàn không sợ ngươi!”.
Lý Mộ Bạch xua tay nói: “Không cần ầm ĩ, ngươi làm ầm lên thì người ta sẽ tới, sẽ làm mất danh giá của Ngọc Kiều Long ngươi đấy. Sách ngươi chép dĩ nhiên phải trả cho ngươi, thanh Thanh Minh kiếm này nếu ngươi là người biết nghĩa khí, hiểu đạo lý, hành hiệp trượng nghĩa, cứu khốn phò nguy thì ta cũng đưa cho ngươi. Nhưng lấy chuyện trước đây ra mà nói, ngươi quả thật không khác gì trộm cướp, ta không thể đưa binh khí sắc bén cho ngươi, giúp ngươi hoành hành”.
Ngọc Kiều Long ửa nước mắt, tức tối ngẫm nghĩ hồi lâu, đột nhiên thở ra một hơi, nói: “Ta biết ngươi lợi hại, ta nhận thua ngươi là phải. Từ nay trở đi ta cũng không thể ra ngoài hoành hành nữa rồi! Ngươi cần hai bộ sách giống hệt nhau để làm gì? Ngươi mau đưa bản sao của ta lại cho ta, thì ta sẽ đi!”.
Lý Mộ Bạch không ngờ Ngọc Kiều Long lại nhận thua, lúc ấy nàng tỏ thái độ mềm mỏng khác hẳn dáng vẻ kiêu ngạo quật khởi lúc đầu, vả lại nàng chỉ đòi bản sao của mình, hoàn toàn không phải quá phận. Y trong long xoay chuyển ý nghĩ, đặt thanh kiếm xuống ngẫm nghĩ một lúc, đột nhiên ngẩng đầu lên nói: “Lấy hành vi đốt nhà giết người trước đây của ngươi mà nói, thì ta không tin ngươi có thể sửa bỏ lỗi lầm, vả lại ngươi ở nhà quyết không được lâu, sớm muộn gì cũng sẽ ra ngoài làm bật!”.
Ngọc Kiều Long đột nhiên hất mặt lên, tức giận nói: “Ngươi không tin ta thì đã làm sao? Ngươi không phải là sư phụ của ta, lại không phải thân thích của ta, ngươi bằng vào đâu mà muốn quản ta?”.
Lý Mộ Bạch nói: “Vì võ nghệ của ngươi toàn là học từ trong sách này, sách này là Cửu Hoa lão nhân truyền lại, sư bá ta là Giang Nam Hạc chép ra, về sau bị Á hiệp không cẩn thận làm thất lạc. Cho nên nếu ngươi ra ngoài làm ác, thì cũng như người núi Cửu Hoa bọn ta làm ác, lần này ta thu hồi lại sách, cũng chính vì lý do đó. Ta thấy ngươi tuy võ nghệ tinh thông, nhưng chỗ áo bí thật sự trong sách thì ngươi chưa hề biết, nếu đưa sách cho ngươi, thói ác của ngươi vẫn không sửa, nếu lại tìm ra được chỗ áo bí trong sách thì lại càng khó chế phục!”.
Ngọc Kiều Long nói: “Ngươi nói ta ác, thì ta không phục, nói trắng ra lời ngươi nói là vì sợ ta học thêm võ nghệ trong sách vài năm, bản lĩnh sẽ vượt xa ngươi!”. Lý Mộ Bạch nói: “Ta định đem cả hai bộ sách này tới chỗ Giang Nam Hạc, hiện ông đang ở trên núi Cửu Hoa tại giang nam. Nếu tương lai quả thật ngươi đã sửa bỏ lỗi lầm, ta nghĩ chắc chắn ông sẽ trả lại sách cho ngươi, ngươi cũng có thể sai người tới lấy. Ngọc Kiều Long chỉ cười nhạt không nói gì. Lý Mộ Bạch bèn quay mặt đi, cũng không nhìn nàng, chỉ xua tay nói: “Đi mau đi!”.
Ngọc Kiều Long nghiến răng căm hận, bước ra ngoài cửa. Đồng thời nàng lại liếc thanh Thanh Minh kiếm bên cạnh Lý Mộ Bạch, đột nhiên sấn tới định chụp thanh kiếm, không ngờ Lý Mộ Bạch đã nhấc thanh kiếm lên, nàng nhảy lên ghế lại phóng cước đá ra, lại hung dữ nói: “Trả lại cho ta…”. Lý Mộ Bạch vung kiếm đập vào chân nàng. Nàng không đứng vững bị rơi xuống ghế, tuy không bị ngã, nhưng đĩa đèn lại rơi xuống đất, ngọn lửa đột nhiên bừng lên. Lý Mộ Bạch tức giận nói: “Đi mau! Nếu không ta sẽ dùng kiếm đả thương ngươi đấy!”.
Ngọc Kiều Long ha hả cười nhạt một tiếng, nói: “Sắp tới sẽ gặp lại! Bất kể sắp tới ngươi đi đâu, nếu ta không lấy được sách, lấy lại được kiếm, thì ta thề không làm người!”. Lý Mộ Bạch nghiêm giọng nói: “Nếu ngươi vẫn giữ thói ác không sử đổi, thì thanh kiếm này của ta quyết không tha mạng ngươi!”.
Ngọc Kiều Long lại bật tiếng cười nhạt, ra cửa nhảy lên nóc nhà bỏ đi. Lý Mộ Bạch không đuổi theo, trong Thiết phủ đêm sâu viện lớn, đám tôi tớ hộ viện ngoài việc tụ họp ở viện trước đánh bạc thì đều say khướt hay đã về nhà, nên Ngọc Kiều Long nhảy nên nóc nhà đi ra khỏi phủ lại càng không ai hay biết, nàng đi thẳng về phía tây.
Lúc nàng tới thì bừng bừng dũng khí, đến khi thua dưới tay Lý Mộ Bạch lại đau xót chán nản. Về sau đoạt kiếm, nàng nghĩ nhân dịp Lý Mộ Bạch nhất thời sơ ý, định làm chuyện ăn mày nhưng cũng không thành công. Lúc ấy nàng vừa đau xót vừa tức giận, nàng giận Lý Mộ Bạch là bậc kỳ hiệp trên đời nhưng đối xử với nàng không hề khách khí, vả lại còn khinh rẻ nàng, mối thù này tương lai không trả không xong, nỗi hận này tương lai không hả không xong. Nàng lại nghĩ tới mình từng học được võ nghệ, luống mang một thân bản lĩnh, nhưng tao ngộ những gì? Chỉ bị làm nhục, rẻ rúng, lận đận, thất ý, mẹ chết, ruột thịt chia lìa, người tình chia tay, vì thế lại không kìm được đau xót.
Dưới ánh trăng nhạt nhòa, gió thổi ào ào, nàng như một bóng ma lẻ loi vất vưởng trở về, trong nhà lại như một ngôi mộ cổ, nàng về tới trong phòng cũng không ai hay biết. Đầu tiên nàng bò ra giường khóc lóc một hồi, sau đó nhớ lại chưa cài then, nàng bèn ngồi lên, đầu tiên thắp nến ra cài then cửa, quay lại nhìn ra cửa sổ phía sau lại ngẩn ra một lúc, thở dài một tiếng, lại trở vào phòng, gạt than trong lò sưởi, thấy vẫn còn hai hòn than hồng, bèn cho hai hòn than mới vào, trong phòng dần dần ấm lên, nàng lại ngồi xuống ghế, cầm chiếc đũa gạt gạt tro.
Lúc ấy đồng hồ trên tường đã chỉ ba giờ, nàng vẫn chưa thấy mệt mỏi, nghĩ tới nghĩ lui, lúc buồn lúc giận, có lúc rơi nước mắt, có lúc lại cười nhạt, qua một hồi rất lâu nàng đột nhiên chát một tiếng đập tay xuống bàn, trong lòng quyết định chủ ý, lúc ấy mới thay áo đi ngủ.
Bắt đầu từ hôm sau, thái độ của Ngọc Kiều Long thay đổi, nhưng ngoài Tú Hương gần gũi với nàng nhất thì không ai thấy rõ. Nàng không buồn bã như mấy hôm trước, cũng không khóc nữa, nhưng mặt luôn sa sầm, mặt lạnh như băng, ánh mắt lạnh lẽo. Nàng không chép kinh Kim cương nữa, lại sai người mua loại giấy bạch lăng hạng nhất đóng lại thành một tập thật dày. Nàng viết lên đó bằng chữ rất nhỏ, vẽ rất tỉ mỉ hình một người đang múa kiếm. Có lúc đang vẽ nàng đột nhiên ngừng bút, mường tượng như không nhớ ra, liền rời khỏi bàn, quay người xắn áo lên, lấy bút thay kiếm, luyện tập trong phòng một lúc, luyện xong lại ngẩn ra suy nghĩ, sau đó lại vẽ tiếp.
Có khi nàng vẽ đến khuya vẫn không đi nghỉ, có lúc lại sai Tú Hương ra mua một ít vải đen, bảo Tú Hương suốt ngày ở trong phòng may quần áo hài tất cho nàng. Nàng không phải may y phục đàn ông, song toàn là quần áo chẽn, vả lại không dùng màu sắc gì lòe loẹt, cũng không thêu vạt viền gấu, hài cũng đều là đế bằng, mà đế còn phải dùng loại vải thật mềm. Cứ xong một đôi nàng lại bí mật cất đi, có ai hỏi Tú Hương mấy hôm nay làm việc gì, nàng cũng không cho Tú Hương nói thật. Vì thế Tú Hương suốt ngày nơm nớp, không đoán ra tiểu thư của cô ta lại định gây ra chuyện gì ghê gớm. Nhưng Ngọc Kiều Long hoàn toàn không tỏ vẻ gì, cũng không có vẻ đang sốt ruột về việc gì, mà còn đối xử với Tú Hương tốt hơn, những quần áo lụa là còn mới, những nữ trang đáng tiền đều thưởng hết cho Tú Hương. Nhưng nàng lại dần dần dự vào việc nhà, tiền bạc xuất nhập thường phải qua tay nàng. Tú Hương từng chính mắt thấy nàng bớt xén không ít tiền bạc, toàn lén mang giấu riêng, vả lại còn đem giấu vài món đồ tế nhuyễn cực kỳ quý báu trong nhà.
Một buổi tối, Ngọc Kiều Long lại gọi Tú Hương đi ngủ sớm, hôm ấy trời tối om. Tú Hương biết tiểu thư của cô ta đêm nay ắt gây ra chuyện kỳ quái nên rất lo lắng, một mình ở trong phòng không sao ngủ được. Cô ta lo sợ, sau canh ba bèn tới phòng tiểu thư nhìn trộm, té ra trên giường ném y phục thay ra chứ trong phòng hoàn toàn không có ai, cửa cũng chỉ khép hờ, tiểu thư của cô ta không biết đã đi đâu! Tú Hương hoảng sợ suýt nữa rú lên, toàn thân nổi gai ốc, trong lòng vô cùng lo lắng sợ sệt. Cửa cũng không dám đóng, quay trở về phòng, lại không sao ngủ được. Lại nằm phục lên khe cửa sổ nghe trộm bên ngoài, suốt đêm không nghe tiếng mở cửa, cửa sổ cũng không động. Nhưng sáng sớm hôm sau Ngọc Kiều Long lại trên giường uể oải trở dậy, cũng không biết đêm qua nàng đi đâu, trở về lúc nào. Tú Hương cũng không dám hỏi, càng không dám nói với người khác.
Trưa hôm ấy chợt có vợ Lưu Thái Bảo trước kia đi dây trước cổng phủ tới, còn mang theo mấy gói trà, mấy món thức ăn làm lễ vật. Đầy tớ ở môn phòng hoảng hốt vào hỏi Tú Hương, nói: “Thu xếp thế nào? Mời vào hay từ chối? Người đàn bà này là con mèo đêm vào phủ, không có chuyện không tới, biết đâu Lưu Thái Bảo lại có ý gì!”. Tú Hương cũng cẩn thận vội vào thỉnh tiểu thư, Ngọc Kiều Long lập tức nói: “Mau mời vào đây!”. Nàng mường tượng như có vẻ vui mừng, tinh thần đột nhiên phấn chấn.
Thái Tương Muội tha tha thướt thướt, nghênh nghênh ngang ngang đi vào, đám đầy tớ bộc phụ đều đưa mắt nhìn trộm, nói vụng sau lưng, như có một nhân vật nguy hiểm kỳ quái tới phủ. Tú Hương mời Thái Tương Muội vào phong tiểu thư, cách một lớp rèm, Thái Tương Muội bèn cười nói: “tiểu thư có nhà không? Tôi tới thăm người đây?’. Tú Hương vén rèm, Ngọc Kiều Long bước ra đón khách, vẻ mặt vô cùng hiền hòa hỏi: “Ngươi khỏe không?”.
Thái Tương Muội thỉnh an rồi nói: “Lần trước tình cờ gặp người ở miếu Đông Nhạc, tôi không có thì giờ để nói chuyện nhiều, hôm nay tôi mang tới một ít lễ vật để ra mắt, tìm người nói vài câu chuyện, tôi biết người ở nhà cũng rất buồn bực”. Ngọc Kiều Long cười nói: “Cám ơn ngươi, ngươi cần gì tốn tiền như thế?’.
Lúc ấy Tú Hương đem những lễ vật Thái Tương Muội mang tới để ở phòng ngoài, nàng bảo bộc phụ đi nấu nước pha một ấm trà ngon, rót vào hai cái chén trà bằng sứ năm màu đời Khang Hy, đặt vào khay bạc đưa lên. Nghe Thái Tương Muội đang nói với Ngọc Kiều Long: “Đêm qua lúc người đi rồi…”, đột nhiên thấy Tú Hương bước vào mời trà, nàng lập tức im bặt, vội đứng lên nhận chén trà, lại cười nói: “Đại tỷ đừng tâng bốc tôi!”.
Tú Hương mời khách uống trà, lại đưa tới một chén trước mặt tiểu thư rồi vội vàng đi ra ngoài. Lại nghe Thái Tương Muội sau lưng hạ giọng nói, lại nghe Ngọc Kiều Long nói: “Không hề gì, việc của ta không giấu cô ta, lần trước chính là cô ta theo ta ra ngoài, cô ta là người ta tin cậy nhất trong các a hoàn”. Lại nghe Thái Tương Muội nói: “Lý Mộ Bạch đi rồi”. Hai người lại hạ giọng trò chuyện hồi lâu, nhưng lại nghe Ngọc Kiều Long thở dài nói: “Quả thật ta không thể ở đây được! Ta không có bạn bè, chỉ có mỗi hai vợ chồng ngươi giúp đỡ…, chuyện đã qua, ta làm hại lệnh tôn, ta rất có lỗi với người!”.
Thái Tương Muội cũng nghẹn ngào nói: “Cũng không phải là người cố ý… không đánh nhau không quen, từ nay trở đi chúng tôi còn có nhiều việc xin người giúp đỡ được không?”. Lại hạ giọng nói rất nhỏ, không thể nghe rõ. Tú Hương ngoài cửa lo lắng, biết tiểu thư của cô ta lại muốn ra ngoài, nhưng không biết có mang cô ta theo không. Nếu mang cô ta theo, thì quả thật cô ta cũng hơi sợ, nhưng nếu không mang theo, thì cô ta lại không thể rời khỏi tiểu thư.
Hôm ấy Thái Tương Muội và Ngọc Kiều Long bí mật bàn bạc suốt nửa ngày, Ngọc Kiều Long giữ nàng lại ăn cơm chiều, đến khi trời tối, Ngọc Kiều Long mới bảo người ra ngoài thuê xe đưa Thái Tương Muội về. Lúc Thái Tương Muội ra về, Ngọc Kiều Long tặng nàng hai cái gói, bên trong dường như là quần áo, Tú Hương lại nghi ngờ. Hôm ấy, Ngọc Kiều Long đi ngủ rất sớm, nhưng người trong Ngọc phủ chỉ biết vợ Lưu Thái Bảo, là nữ tặc đã từng chửi mắng lão đại nhân tới đây một lần, thì đều nơm nớp sợ là dẫn sói vào nhà, trong hai ba ngày biết đâu lại phát sinh chuyện gì. Nhưng Thái Tương Muội đi rồi không quay lại nữa, Ngọc Kiều Long cũng rất yên ổn, sau hơn mười ngày hoàn toàn không có chuyện gì xảy ra.
Trong thời gian ấy, Lỗ phủ qua đón thiếu phu nhân hai lần, Ngọc Kiều Long vẫn nói tạm thời không về. Người của Ngọc phủ cũng không nài ép, chỉ sai hai bộc phụ tới giúp đỡ hầu hạ. Đồng thời Thụy đại nhân cậu Ngọc Kiều Long ở Tân Cương tới kinh, một là để tham gia việc chôn cất Ngọc phu nhân, hai là đứa con gái thứ hai là Ngọc Nhuận tiểu thư về kinh thành hôn. Thụy nhị tiểu thư lấy Đại thiếu gia của Phúc công gia, còn Thụy Đại tiểu thư Ngọc Thanh chị Ngọc Nhuận thì mùa xuân năm ngoái đã xuất giá gần như cùng lúc với Ngọc Kiều Long, là gả cho công tử con Tuần phủ Tân Cương. Sau khi cưới về rất êm ấm, nghe nói đến nay đã có tin mừng, lại gửi thư cho Ngọc Kiều Long, mong mỏi Ngọc Kiều Long sắp tới nếu có dịp, có thể tới Tân Cương chơi thì rất hay. Ngọc Kiều Long xem thư xong không kìm được cảm khái, cảm thấy người khác đều hơn mình! Nàng vì đang có tang nên hôn lễ của biểu tỷ nàng không tới dự.
Lại qua vài hôm linh cữu của Ngọc phu nhân mẹ nàng đã chôn cất vào khu mộ tổ. Hôm ấy lại cúng tế ở chùa Quảng Duyên, Ngọc Kiều Long lại mặc áo tang, các thân hữu cũng tới rất đông, Đức Đại phu nhân cũng dẫn con dâu tới. Vì trong chùa có viện sau, bên trong hoa đào đang nở, một số nữ quyến điếu tang xong, đều vào đó thưởng hoa.
Bên linh cữu không có ai, Dương Lệ Phương tìm Ngọc Kiều Long, đầu tiên nói chuyện phiếm, sau đó dần dần nói: “Lần trước cháu theo Du cô cô ra ngoài gặp La Tiểu Hổ anh cháu, hiện trú trong miếu Tam Thanh ở Ngũ Hồi lĩnh, cháu đã gặp. Lúc ra đi, anh từng bảo cháu nói chỗ anh ở cho người biết, nói anh sẽ ở đó lâu dài. Anh hiện nay vô cùng suy sụp, gặp ai cũng không muốn nói chuyện, chỉ mong sắp tới có thể gặp mặt người một lần!”.
Ngọc Kiều Long nghe xong nước mắt không ngừng lã chã rơi xuống, tuy hết sức kìm chế không muốn để lộ hình tích trước mặt một đứa cháu dâu, nhưng càng nhịn thì càng không sao chịu nổi. Nàng nghe xong không nói một câu, cũng không gật đầu, Dương Lệ Phương nói xong cũng đứng lên bước đi.
Hôm ấy an táng Ngọc phu nhân xong, lại qua vài hôm, Ngọc đại nhân bệnh hơi giảm, Ngọc Kiều Long ở lại nhà mẹ dường như chẳng có ý nghĩa gì, không có lý do gì. Thụy đại nhân lần này về kinh, mang theo hơn mười sai quan và đầy tớ, trong đó có một viên sai quan người Hán, họ Tiêu, tuổi còn rất trẻ, nhưng công danh rất may mắn, con người cũng không kém. Y muốn nhân dịp lấy vợ ở Bắc Kinh, bèn nhờ người làm mai cho một a hoàn tên Cán Xuân.
Ngọc Đại thiếu phu nhân vốn đã muốn thế. Nhưng Ngọc Kiều Long nghe thấy lại nói: “Đừng gả Cán Xuân trước, trong nhà chúng ta thiếu gì a hoàn có thể làm việc, quen biết các thân hữu, tôi nghĩ nên gả Tú Hương. Tú Hương theo tôi lâu năm, lần này trở về cũng chỉ để hầu hạ tôi. Qua vài hôm tôi phải trở về Lỗ phủ, cô ta không thể theo tôi được nữa, cũng không tiện ở đây, về nhà cha mẹ thì cô ta cũng không chịu nổi đời sống nghèo khổ ở nhà quê. Nếu viên sai quan kia không tệ, thì do họ làm mai, gả Tú Hương cho y, để y đưa Tú Hương lên Tân Cương! Cuộc sống ở đó thì Tú Hương cũng rất quen!”.
Cô nãi nãi đã nói thế, Ngọc Đại thiếu phu nhân dĩ nhiên không dám không nghe, vả lại Tú Hương cũng vâng lệnh tiểu thư. Có điều từ đây lại phải xa cách tiểu thư, vả lại không biết sắp tới tiểu thư sẽ luân lạc tới nơi nào, cô ta lại không nhịn được đau lòng rơi lệ. Ngọc Kiều Long an ủi cô ra, chủ tớ lại bí mật trò chuyện suốt đêm, hôm sau thì quyết định. Qua hai hôm, vị Tiêu sai quan kia tới đón Tú Hương ra khỏi phủ, Ngọc Kiều Long đương nhiên tặng rất nhiều nữ trang.
Lại qua vài hôm, Tú Hương theo chồng tới Ngọc phủ chào từ biệt, vì ngay hôm ấy phải theo Thụy đại nhân trở về Tân Cương. Kỳ quái là ở chỗ lúc Ngọc Kiều Long và Tú Hương chia tay, chỉ đưa mắt nhìn nhau, chứ không có biểu hiện gì lưu luyến bịn rịn.
Từ đó Ngọc Kiều Long một mình trong phòng, có lúc thì bộc phụ trong phủ hầu hạ, có lúc thì bộc phụ do Lỗ phủ phái qua hầu hạ, nhưng chỉ đưa cơm nước vào xong là lập tức bước ra, nàng không cho bất cứ ai ở lại trong phòng nàng lâu.
Tình hình của nàng dường như cũng càng ngày càng kỳ quặc, nhưng không phải thế, nàng đối với hai người chị dâu và các cháu lại ngày càng thân thiết. Nhất là quan tâm tới sức khỏe của cha nàng sau khi khỏi bệnh. Tuy hai cha con đã giải quyết chuyện hiểu lầm, nhưng nàng xấu hổ khi gặp cha, không dám gặp mặt, nhưng tất cả những thuốc men, thức ăn bồi dưỡng cho cha, đều là nàng đích thân đốc thúc đám bộc phụ lo lắng. Vả lại thỉnh thoảng lại gọi các cháu tới phòng Ngọc đại nhân, thay nàng làm vui, thăm hỏi, giải khuây cho cha.
Lúc ấy trời đã ấm dần, quần áo của mọi người cũng ngày càng nhẹ nhàng. Chim én bay về, mưa xuân rơi mấy trận, hoa hải đường trong hậu viên đã nở tuyết trắng mây hồng, đến nay cũng đã thành cánh hoa rơi đầy đất, một cay đầy lá thời tiết ấm lên khiến người ta uể oải, ong mật bay ngoài cửa sổ kêu vo ve, lại hát bài ca thôi miên, nhưng Ngọc Kiều Long tinh thần càng phấn chấn, thường như đứng ngồi không yên.
Hôm ấy chợt ngoài cổng nhà nàng, trên gò cao từ lâu vắng bóng xe ngựa có một đoàn người tới. Người đi đầu mặc áo dài có đệm vai, cầm một lá cờ nhỏ ba góc màu vàng, cán rất dài, trên thêu bốn chữ đen “Lên núi dâng hương”, sau lưng có tám người mặc áo vải đen. Mỗi người mang theo một vật bằng đồng giống thanh la mà không phải thanh la, giống cái chậu nhưng cạn hơn cái chậu.
Tới trước cổng Ngọc phủ, lại dùng chùy gỗ khua tám vật bằng đồng ấy loạn lên một lúc, keng keng keng keng khua tới mức ngoài cổng lập tức trở nên náo nhiệt, người cầm lá cờ nhỏ bước tới nhận tiền, kế dán một tờ bố cáo bằng giấy vàng rất dài lên tường rồi đi. Tờ bố cáo giấy vàng ấy là khắc một bản, trên in hoa văn “Kim Đỉnh Diệu Phong sơn Bích Hà Nguyên quân miếu” rất có khí thế, dưới viết “Tín sĩ đệ tử Mỗ Mỗ, thành tâm lên đỉnh dâng hương, quyên tiền hương ít nhiều” vân vân, đó là việc thiện cử hàng năm mở ra ở Bắc Kinn.
Núi Diệu Phong ở phía tây kinh đô, cách thành chẳng qua vài mươi dặm, núi rất cao, nghe nói từ dưới lên đỉnh núi tất cả bốn mươi dặm, trên có dựng miếu Bích Hà Nguyên quân, thờ một vị nữ thần, đều gọi là “nương nương”. Cuối mùa xuân mỗi năm, người các huyện ở phủ Thuận Thiên kinh đô đều lên núi dâng hương, có người cầu tài, có người cầu tự, có người cầu xin tuổi thọ cho cha mẹ hứa nguyện hoàn nguyện. Ngày lễ hội ở miếu là từ ngày mùng một đến mười lăm tháng tư, kéo dài suốt nửa tháng. Trước đó đã có người tổ chức những hội dầu đèn, hội đèn hương gì đó đều đến kỳ tới cúng cho miếu. Còn có người đi quyên góp, đến lúc ấy xây rạp trải chiếu trên núi, bố thí cháo và bánh màn thầu, lại chuẩn bị chỗ ở để tiện cho khách dâng hương.
Đến nay người tới mộ quyên ở cổng Ngọc phủ chính là loại ấy. năm trước Ngọc đại nhân làm cửu môn Đề đốc oai phong hiển hách, ngoài cổng canh gác nghiêm ngặt nên họ không dám lên, bây giờ có thể lên được, quyên được bốn mươi lượng bạc thì đi, lại nghe nói cô nãi nãi trong phủ này đến lúc ấy sẽ đích thân lên núi hoàn nguyện cho lão đại nhân.
Trên núi Diệu Phong có một cái vực rất cao, phía dưới là khe sâu. Tất cả những con hiền cháu hiếu vì cha mẹ bị bệnh đã lên đó xả thân nhảy xuống vực, nghe nói vì một mảnh hiếu tâm, một mực thành kính thì có thể làm cảm động thần minh, lúc ấy từ trên vực cao nhảy xuống có thần phù hộ, có thể không hề bị gì. Mà bệnh tật của cha mẹ lại nhờ đó mà thuyên giảm. Nhưng đó chẳng qua cũng chỉ là một truyền thuyết, chưa ai được nhìn thấy qua.
Bây giờ Ngọc Kiều Long muốn nhảy xuống vực, cho dù nàng biết võ nghệ, giỏi quyền cước, nhảy xuống cũng có quá nửa là phải chết, ai có thể yên tâm? Cho nên hai vị Tri phủ và phu nhân đều ngăn cản em gái, Lỗ phủ nghe được tin ấy cũng sai người qua ngăn cản, nhưng Ngọc Kiều Long đã quyết ý, lại nói: “Chỉ cần thành tâm, ắt có thần linh phù hộ, không đến nỗi phải chết, các ngươi cứ yên tâm đi”. Chớp mắt đã đến ngày mùng một tháng tư, vừa sáng sớm, Ngọc Kiều Long đã dắt hai a hoàn, một người tớ trai trong phủ và hai người bộc phụ của Kiều Phong, cùng ngồi ba chiếc xe lừa tới núi Diệu Phong, nhưng Ngọc Kiều Long lúc ra cửa lên xe không kìm được rơi lệ. Xe ngựa của họ ra cửa Đức Thắng Môn đi hướng tây bắc, tới thẳng núi Diệu Phong.
Núi Diệu Phong từ hôm ấy trở đi bắt đầu náo nhiệt, vì thiện nam tín nữ đều tranh nhau tớ dâng hương, nhất là có lời đồn là dâng tuần hương đầu tiên là tốt nhất. Nhưng tuần hương đầu tiên ngay cả lão đạo sĩ trong miếu cũng không dâng được, cổng điện ngày thường vốn đóng, đến hôm ấy vừa mở ra thì khói hương đã sớm bốc lên. Nghe nói nhiều năm qua người dâng tuần hương đầu tiên là bọn đại đạo giang hồ biết phi thiềm tẩu bích, lối sống của họ cần nhất là được thuận lợi. Nhưng năm nay tuần hương đầu tiên không phải do ai khác mà là do Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo dâng.
Hôm nay y cao hứng hơn tất cả mọi năm, vì hiện y là sư phó dạy quyền trong phủ Thiết Bối lặc! năm rồi tuy liên tiếp ngã xuống đứng lên, nhưng cũng được tiếng tăm không ít, khiến “Tự hiệu” của y ở kinh thành lại càng vang dội, trở thành một “Nhân vật”, bạn bè lại càng đông. Vả lại thái thái trong nhà lại có thêm một cục cưng, còn ở bên ngoài thì vợ chồng y lại chơi thân thêm với nhiều bạn bè, chính là Ngọc tiểu thư trước là oan gia sau thành bạn thiết.
Ngày hai mươi tám tháng trước Lưu Thái Bảo tới núi Diệu Phong, cả nhà y lên dâng hương. Y cưỡi một con ngựa khỏe màu yên chi, yên cương đều mới tinh, không biết Lưu Thái Bảo vì sao lại phát tài, lại mua nổi một con ngựa hạng nhất như thế. Thái Tương Muội ngồi xe lừa kéo, ngồi trong xe bế con, ngoài ra còn có hai cái bọc căng phồng và một thanh bảo kiếm trong bao bằng da cá mập khảm đồng, chuôi bọc tơ xanh. Lúc y tới đó, cửa miếu chưa mở, nên người trên núi rất ít, cũng không ai để ý tới y.
Lưu Thái Bảo dắt vợ tới một xóm phía sau núi, thôn này ở một chỗ ngã ba đường, tuy là trong núi, nhưng đường đi thuận tiện, người nơi đó gọi là tam trừng nhãn, ở đó có một lão thái thái họ Hồ, là mẹ vợ của Thốc đầu ưng. Họ tới đó, ngựa buộc ở nhà họ Hồ, Thái Tương Muội ở lại nhà họ Hồ, mường tượng như chờ đợi việc gì đó, Lưu Thái Bảo thì lên núi. Mấy người bạn của y đã chen một cái rạp uống trà rất lớn trên núi, bố thí cháo và bánh màn thầu, mười mấy người trong rạp đều tiếp khách thờ cúng hết nghĩa vụ, còn treo trước rạp một danh sách các “Đệ tử tu sĩ” quyên góp tiền, người đầu tiên là y. Y nửa đêm lên miếu trên đỉnh núi, thi triển bản lĩnh từng giở ra ở Ngọc phủ, Lỗ phủ, thắp tuần hương đầu tiên, đi ra không nói tiếng nào, mặc chiếc áo trường sam bằng lục xanh đi vòng xuống chân núi.
Mặt trời vừa mọc, khách dâng hương đông dần, mọi người gặp nhau bất kể quan biết hay không cũng đều chắp tay nói: “Thành tâm, người thành tâm thật!”. Không ai trừng mắt với ai, lúc ấy mọi người đều là thiện nhân, có ném một khối vàng dưới đất cũng không ai chịu nhặt. Người trong rạp uống trà đều cao giọng gọi: “Nào, vào đây nghỉ đi!”. Bất kể là ai bước vào đó cũng có thể thỏa sức ăn uống, lúc bước ra thì nói một tiếng: “Thành tâm” rồi đi.
Dưới núi có đám bé gái con nông dân ở đó bán gậy bằng gỗ cây đào, quạt, mũ, giỏ bằng cọng lúa mạch đan nhuộm màu và đủ loại đồ chơi. Có người ngồi ở vệ đường chuyên làm việc khâu và đóng hài, ví dụ khách dâng hương lên núi bị rách hài thì chỗ nào cũng có người sửa sang, sửa xong không cần trả tiền, chỉ cần nói một tiếng “Thành tâm” là xong, vì những người này cũng đều xuất phát từ “tâm nguyện”. Còn các cô gái mười bảy mười tám tuổi mặc áo tội nhân màu đỏ, đeo gông mang xiềng lên núi, lại có người từ dưới núi đi lên cứ một bước là khấu đầu một cái, lên tận đỉnh núi, đó cũng là những người hoàn nguyện tương tự như những người nhảy xuống vực.
Chưa đến giờ Ngọ thì lễ hội dâng Hương bắt đầu, trước tiên là hát điệu ương ca, mười mấy người đều giẫm chân nhảy nhót, hát khúc “Tình nghĩa tốt đẹp”. Lưu Thái Bảo giơ ngón tay cái lên nhìn một người mặt đen đánh phấn, đầu trọc gắn đồ trang sức, mặc quần áo màu liễu lục, cầm một cái khăn tay, nói: “Hay lắm! Còn hay hơn họ nữa!”, Người ấy là Thốc đầu ưng, được Lưu Thái Bảo khen hay, y lại nhảy bật lên còn cao hơn! Chỉ nhìn từ phía sau lưng, đừng nhìn trước mặt thì y giống một mỹ nhân trai không ra trai gái không ra gái phong lưu lãng mạn.
Tiếp theo là hai đội “Khai lộ”, bảy tám người giả trang thành ma quỷ, vẽ mặt vằn vện, lăn lộn tung hứng đinh ba, có thanh la và trống trợ oai, mười phần náo nhiệt. Trong bọn tung hứng đinh ba ấy có hoa ngưu nghi Lý Thành, Lưu Thái Bảo cũng gọi lớn “Hay lắm! Coi chừng đinh ba cắm vào cổ đấy!”.
Lại qua một lúc, lại tới trò đội phướn chuông, chân tấm phướn cao năm trượng, trên treo vô số lục lạc. Nhưng phải dùng đầu để đỡ, hoàn toàn không cho dùng tay giữ, Oai đầu Bành Cửu chính là người này. Đầu y hói, nhưng đỉnh đầu lại rất tròn rất phẳng, Lưu Thái Bảo lại khen ngợi một lúc. Kế đó là trò “Hoa đàn” đội một vò rượu Thiệu Hưng, trò “Song thạch đầu” đập đá vào đầu. Trò “Vũ tiên nhân đảm” dùng tảng đá lớn đè nên người, trên lại có người đứng. Còn như các trò “Tảo thuyền”, “Tiểu xa hội”, “Khóa cổ”, “Liên hoa lạc” và “Cống sương quan” chuyên dùng miệng. Các trò này có quá nửa là nông dân các hương, đệ tử năm thành, lưu manh trên phố cùng biểu diễn, bọn họ cơ hồ không ai không biết Lưu Thái Bảo. Lưu Thái Bảo không biết phải chắp tay mấy trăm lần rồi, nói “Thành tâm” cũng không biết bao nhiêu tiếng.
Qua một lúc tới trò “Ngũ hổ côn”, đây là diễn lại tích Triệu Khuông Dẫn cầm côn đánh nhau với năm con cọp. Trong tiếng thanh la, tiếng trống, mọi người cầm gậy đập bừa phứa, Lưu Thái Bảo cũng nhận ra trong đó không ít người quen. Lại qua một lúc chợt mọi người xôn xao “Thiếu lâm côn tới rồi!”. Thiếu lâm côn diễn đao thương thật, câu, phi tiêu, kiếm, côn, Lưu tinh chùy, người diễn đều là tiêu đầu ở nam thành, đương nhiên trong đó càng có nhiều bạn bè của Lưu Thái Bảo. Mọi người nói tiếng “Thành tâm” xong, thì có người tới mời ra diễn.
Lưu Thái Bảo nhìn thấy ngứa nghề, lúc ấy bèn cởi chiếc áo khoác ra, mặc áo ngắn tay, phơi trần bộ ngực rắn chắc, để lộ ra một đóa hoa sen trên ngực. Chỉ mặc một chiếc quần ống rộng bằng lụa xanh, đi hài qua Địa hổ bằng đoạn trắng. Trong tiếng đao thương loảng xoảng, tiếng trống thì thùng, tiếng thanh la keng keng, y một tay cầm Lưu tinh chùy, một tay cầm đơn đao, biểu diễn cùng lúc Tam xoa đao pháp và Lưu tinh đơn chùy sấn nguyệt pháp, Khoái đao quát phong, Thủy lý mô ngư, Thiên không tróc nhạn, lại kèm thêm Tựu địa thập bát cổn, tiếng khen như sấm vang lên khắp bốn phía.
Lưu Thái Bảo giở hết tài nghệ ra, múa võ bên tây, chạy qua bên đông, tới phía bắc nói “Thành tâm”, tới phía nam tìm người đùa giỡn, y như người bận rộn nhất trong các khách dâng hương. Đến quá giờ Ngọ y đột nhiên nhìn thấy ba chiếc xe lừa từ phía đông đi tới, đột nhiên biến hẳn sắc mặt, nhưng không ai để ý. Lát sau rất nhiều người quen tìm y, nhưng không biết Lưu Thái Bảo đi đâu, y đã mất hút.
Lúc ấy ba chiếc xe đã tới dưới núi, cách cửa núi còn khá xa thì dừng lại, vì chỗ cửa núi rất đông người chen lấn, xe không đi được. Người đánh xe chiếc đầu tiên là đàn ông, xuống xe bước lên trước mở đường, giọng nói thân thiện luôn miệng “Các vị thành tâm! Cho đi nhờ một chút! Cho tôi đi qua với!”. Trong xe sau có hai người bộc phụ bước xuống, chiếc xe thứ ba có hai a hoàn bước xuống, tất cả đều khoảng trên dưới hai mươi tuổi, Họ mặc quần áo tuy đơn giản nhưng rất đẹp đẽ, lại thu hút một bọn vô sự không đi xem các trò biểu diễn trong lễ hội chính mà đổ ra nhìn họ tới.
Lại thấy hai a hoàn vén tấm rèm bằng sa trên chiếc xe, đỡ một thiếu phụ ăn mặc lối Bát kỳ trong xe bước xuống. Thiếu phụ này khoảng mười tám mười chín tuổi, vóc dáng mảnh khảnh mà yểu điệu như dương liễu trước gió, trúc xanh cạnh nước, mới xinh đẹp đáng yêu làm sao. Nàng mặc một chiếc áo chẽn bằng lụa màu tuyết thanh, nẹp áo rộng có thêu chỉ vàng thêu hình chim phượng xuyên qua hoa mẫu đơn lấp lánh, đầu đội lưỡng bản đầu, búi tóc kiểu bát kỳ, mái tóc đen nhánh búi cao, trên gắn trang sức bằng trân châu, cài một con phượng màu tuyết thanh, cánh phượng và mỏ phượng gắn bông lúa, bông lúa làm bằng nhiều viên ngọc nhỏ xâu lại, ánh sáng lấp lánh theo bước đi.
Thiếu phụ này có khuôn mặt trái xoan hơi gầy, nhưng vì gầy nên lại càng thanh tú. Sống mũi cao, cho thấy rõ là người đa tài, có uy, nhưng tính tình dường như cố chấp. Hai hàng lông mày hình lá liễu cho người ta thấy nàng là người thông minh. Hai con mắt là đẹp nhất, con ngươi lóng lánh có thần, nhưng hơi đờ đẫn, không thích di động, lại thường dùng hàng lông mi dài che khuất. Điều đó cho thấy nàng có thân phận cao quý, nhân phẩm ưu nhã, nhưng lại dường như hàm chứa một nỗi ưu uất sâu xa khó mà biết được. Xuống xe xong, đám bộc phụ a hoàn đỡ nàng từ từ đi tới, còn có bộc phụ phía sau mang bao phục, bên trong là hương nến.
Lúc ấy hai bên tiếng thanh la, tiếng trống huyên náo, tiếng người ầm ĩ, lễ hội hết trò này tới trò khác. Các trò “Xú la”, “Tuấn la”, “Lão tọa tử”, “Ngư bà” nhảy cao và điệu Liên hoa lạc “Lão má lên kinh”, mấy hán tử thô mãng diễn trò “Tiểu nương” đang biểu diễn, nhưng có ai chịu nhìn đâu. Màn ngũ hổ còn đao thật thương thật cũng không ai đếm xỉa! Vô số con mắt dồn cả về một chỗ, có người nói: “Ồ, người phủ nào thế nhỉ? Đúng là còn đẹp hơn cả thiên tiên!”. Có người đã từng được Lưu Thái Bảo giới thiệu ở miếu Đông Nhạc, bèn nói: “Đẹp à! Đó là Ngọc Kiều Long tiếng tăm lừng lẫy đấy!”.
Sau khi có người nói tới tên Ngọc Kiều Long, lúc ấy hàng vạn cái đầu ngẩng lên, chen vai nhón gót, rất nhiều lão thái thái, thiếu phụ, cô nương cũng tranh nhau tới nhìn, phảng phất như nghe tin Bích Hà nương nương giáng lâm xuống trần gian, lại có chút hoảng sợ. Hai bộc phụ ở Lỗ phủ đi theo bị người ta nhìn ngó phát hoảng, nhưng Ngọc Kiều Long thì mí mắt cũng không ngước lên cứ thong thả đi lên núi.
Trên núi quái thạch ngổn ngang, cây rừng tươi tốt, khách dâng hương đông đúc, thỏ rừng và chim chóc lạ dưới núi đã sớm trốn núp không thấy tăm tích. Nhưng hoàng anh và chim sẻ vẫn hót trong rừng cây um tùm, ríu ra ríu rít, chim én vẫn lượn trên đầu mọi người, cánh như quét sạch không trung. Đường lên núi cỏ xanh tươi tốt, hoa dại khiến người ta ưa thích.
Gió mát từng trận từng trận đưa hương cỏ tới, giống như tới thảo nguyên ở biên cương. Mà trên đầu núi có một thác nước sủi bọt đổ xuống, lại như nước mắt đổ xuống dưới xói mòn vách đá làm thành một con sông nhỏ, xanh biếc như ngọc di động phát ra tiếng róc rách, đổ xuống khe sâu.
Ở rạp uống trà bên đường cũng gõ khánh cao giọng gọi “Vào đây nghỉ chân! Người thành tâm lắm…”, nhưng vừa nhìn thấy Ngọc Kiều Long từ dưới đi lên, tiếng mời gọi cũng đứt ngang, đưa mắt nhìn chằm chằm. Rất nhiều chiếc kiệu núi đi tới tranh nhau mời ngồi, Ngọc Kiều Long đều từ chối, nàng tới đây để hoàn nguyện cho cha nên không thể ngồi kiệu lên đỉnh núi, đi bộ nàng không sợ vất vả, vì không phải nàng chưa từng đi đường núi bao giờ.
Hai bộc phụ của Lỗ phủ đều bàn chân nhỏ, tuy người nào cũng mua một chiếc gậy, nhưng đi lên núi thấy vô cùng khó nhọc, họ càng đi càng thở dốc, vì phía sau có rất nhiều người, dường như đều nhìn họ chằm chằm không rời mắt, nên họ vô cùng buồn bực. Nhưng là vì theo thiếu phu nhân, mà còn là một vị thiếu phu nhân đáng sợ như thế nên họ không dám nói nửa câu oán trách, huống chi trên đỉnh núi còn có “ônương nương”! Lần này tới dâng hương, cần phải không oán giận, nếu không thì lại không bị nương nương giáng tai họa cho sao? Bây giờ thì họ đi được thì đi, đi không được cũng phải đi. Chỉ là họ nhìn xuống dưới khe có hơi rùng mình, rất sợ thiếu phu nhân không thay đổi ý nguyện, không sợ nguy hiểm nhảy xuống phía dưới, cho dù được nương nương phù hộ, ngã xuống không chết thì họ cũng không sao kéo lên được, đó mới là lỗi lo của họ! Hai a hoàn của Ngọc phủ đều bàn chân to, người ta thì không mệt mỏi lắm. Đi lên hồi lâu, qua rặng này tới rặng khác. Gió núi lạnh dần, bóng mặt trời sau núi như một viên hỏa châu lớn đỏ rực màu máu, quạ chiều bay tán loạn, ráng chiều rụng xuống tơi bời, trong các rạp đã bắt đầu lên đèn. Những khách dâng hương thành tâm đều ở trên núi suốt đêm, bình thường hòn núi này cho dù giữa ban ngày cũng không ai lên tới, nhưng hiện tại lại như thành bất dạ, một phiên chợ núi buôn bán thâu đêm suốt sáng. Nhìn thấy trời tối rất mau, người tớ trai được cô nãi nãi ưng thuận, mới tìm được một chỗ ngủ, chuẩn bị sáng ra sẽ lên dâng hương, cũng may là còn cách đỉnh núi không xa lắm. Người này rất thông thạo đường núi trên ngọn Diệu Phong, y quen rất nhiều người trong các rạp uống trà.
Đi về phía chiều buông không xa, thì tới trước một rạp uống trà rất lớn, trong rạp treo hơn mười chiếc đèn lồng, trang trí bày biện rất tươm tất. Người tiếp đãi ở đó cũng đều mặc áo dài có đệm vai, là người rất có quy củ, bên trong có bàn thờ, hai bên cắm cờ vàng, đều viết “Thiết Bối lặc phủ”. Đây là do Thiết phủ lập ra, phái một thị vệ và mấy người tôi tớ thu xếp ở đó, chuyên để người bàn phủ lên núi nghỉ ngơi. Nhưng quyến thuộc trong bản phủ hai hôm nữa mới tới, nên đó cũng là làm việc thiện, đến lúc ấy thì không nói gì thân phận cao thấp, cho dù ăn mày bước vào nói một tiếng thành tâm, cũng phải theo quy lệ thành tâm tiếp đón.
Có điều khí phái sang trọng của “Thiết phủ” bức người nên người thường đều không dám bước vào, chỉ có vài kẻ khôn vặt bước vào ăn mấy bát cơm gạo trắng, vài cái bánh màn thầu bằng bột trắng, vòng vòng tay rồi đi, không dám ngồi lâu. Nhưng trong rạp còn có phòng ấm, trong phòng ấm còn chia ra chỗ đàn ông đàn bà, ở đó vật dùng đầy đủ, gió núi không thể thổi lọt vào trong, đã có mấy vị nữ khách đang nghỉ ngơi trong đó.
Bộc phụ của Ngọc phủ bước lên nói: “Thành tâm”, kế ra mời cô nãi nãi bước vào, người trong rạp vừa thấy là nữ quyến nhà quan, lại càng cung kính. Đến khi vừa nghe nói là cô nãi nãi của Ngọc phủ, thiếu phu nhân của Lỗ phủ tới, là người từng vào phủ họ trộm kiếm hai lần, ai cũng kinh ngạc, cùng nói “Xin mời, xin mời! Mời vào phòng ấm!”. Nhưng âm thanh vẫn hơi run run, cũng không dám nhân ánh đèn mà nhìn cái bóng mảnh khảnh màu tuyết thanh, nhưng tròng mắt đều có vẻ ngơ ngác.
Ngọc Kiều Long vừa thấy là rạp uống trà của Thiết phủ dựng lên, trong lòng có chỗ không thích, vừa bước vào phòng ấm trong rạp,lại thấy có ba vị thái thái nhà quan đang chuyện trò trong đó, bên cạnh đều có a hoàn bộc phụ hầu hạ. Lại có một vị khoảng hơn bốn mươi tuổi, mặc áo bào màu tía đang hút thuốc lào, kinh ngạc cười nói: “A, Lỗ thiếu phu nhân! Sao người cũng tới đây?”, kế đó hỏi thăm người này khỏe không, người kia khỏe không. Ngọc Kiều Long không thể không theo lễ số tôn ty mà bước tới làm lễ, lại cùng họ trò chuyện.
Nguyên người ấy là phu nhân nhà Triển gia, không có đi lại gì nhiều với nhà Ngọc Kiều Long, nhưng mẹ chồng bà ta lại là bạn thân của Lỗ phu nhân, Ngọc Kiều Long gọi bà ta là Triển Tm thẩm. Vị phu nhân này trước nay sùng mộ đạo Phật, lúc ấy thấy Ngọc Kiều Long cũng lên dâng hương, bà ta vô cùng mừng rỡ.
Đến khi nghe Ngọc Kiều Long nói muốn hoàn nguyên cho cha, xả thân nhảy xuống vực, bà ta lại càng tán thành, còn nói: “Nhảy đi, chỉ cần đến lúc ấy ngươi giữ vững thành tâm, thì sẽ có Thần Phật phù hộ. Bà nội của ta lúc còn trẻ cũng từng nhảy xuống là thật đấy, lúc ấy là nhắm mắt nhảy xuống, lại cảm thấy thân thể có mây đỡ lên, đột nhiên đưa bà đi. Bà mở mắt ra nhìn, té ra đã trở về tới nhà, ngay cả da thịt cũng không bị thương tổn. Từ lúc ấy, lão phu nhân của ta suốt đời không gặp tai họa dịch bệnh, sống tới chín mươi chín tuổi, lúc chết thì đúng như một vị Tỳ kheo, nhất định đã thành phật rồi”.
Bà ta lại nói: “Nương nương trên đỉnh núi thiêng lắm, che chở cho núi này, ngày thường còn có sài lang cọp beo, hiện tại thì một con cũng không có. Vì mấy hôm trước khi mở hội, nương nương đã phái Linh quan đuổi chúng đi hết, nên chúng ta ở đây nơi nào cũng được thần linh phù hộ, huống chi là bậc hiếu nữ như ngươi sao?”.
Ngọc Kiều Long vừa nghe thấy có người đồng tình với việc này, vả lại một vị phu nhân nhà quan, bạn của nhà chồng. Nàng vô cùng mừng rỡ, vẻ mặt buồn rầu biến mất, cao cao hứng hứng trò chuyện với Triển phu nhân. Hai a hoàn nghe thấy đều nửa tin nửa ngờ, nhưng đó không phải là chỗ họ có quyền nói xen vào, hai bộc phụ kia dường như cũng đã yên tâm. Vì nếu vạn nhất thiếu phu nhân nhảy xuống vực chết tan xác, thì họ trở về cũng có lời mà đùn đẩy, là có vị Triển phu nhân này biết mà còn chủ trương nữa.
Mấy vị phu nhân bên cạnh cũng là nữ quyến nàh công hầu đại thành, Triển phu nhân đều giới thiệu với Ngọc Kiều Long. Mấy vị phu nhân kia lúc mới gặp Ngọc Kiều Long, đều kinh ngạc khen nàng nghi biểu ung dung xinh đẹp, đến khi nghe nàng nói muốn nhảy xuống vực, lại đều kinh ngạc. Đến khi Triển phu nhân nói tên họ xong, biết nàng chính là Ngọc Kiều Long, cha nàng vốn đã về hưu, hai người anh lại đình ưu, chồng thì vì trúng phong mất chức quan, nên mọi người cảm thấy không cần làm quen, gần gũi nàng. Huống chi suốt một năm nay lời đồn và sự thật thì ai mà không biết? Cho nên đều ngấm ngầm nảy ý coi thường nàng, lại thêm ngờ vực, giới thiệu xong không thể không gật đầu, nhưng không ai nói chuyện với nàng.
Trong rạp có chuẩn bị cơm nước, bánh màn thầu rất đầy đủ, ở đây có trà của Triển phu nhân mang theo mời nàng cùng ăn uống. Ở đó giống phòng khách mà không phải phòng khách, giống dịch trạm mà không phải dịch trạm, đèn trong rạp càng lúc càng tối, gió ngoài núi càng lúc càng mạnh. Gió núi đêm sâu. Khách dâng hương buổi tối đi bên ngoài còn nói với nhau câu “Thành tâm”, gậy gỗ đào gõ vào đá núi vang thành tiếng giòn giã như đao gậy chạm nhau. Tiếng khánh trên cao vang tới trong trẻo du dương, như tráng sĩ cất tiếng ca, như sông dài sóng vỗ, như tiếng lục lạc của lạc đà trên sa mạc, như tiếng bò rống giữa thảo nguyên…Mọi người đều ngồi trên ghế quanh bốn bức vách ngủ gật, Triển phu nhân nói chuyện đã mệt, nằm phục xuống bàn ngáy khe khẽ. Ngọc Kiều Long thì trọn đêm chưa ngủ, trong lòng lúc thì chua xót, lúc thì phấn khích.
Nến và đèn dầu trong rạp dần dần cháy hết, lò sưởi trong phòng ấm cũng tàn, cảm thấy rất lạnh, nhưng trời đã dần dần sáng lên. Ngọc Kiều Long nhìn chiếc đồng hồ vàng trong người, thấy đã bốn giờ ba khắc, nàng bèn vội gọi đám bộc phụ a hoàn thức dậy, thúc giục “Chúng ta lên đỉnh núi thôi!”.
Hai người bộc phụ đều nhướng cặp mắt mỏi mệt, cùng nói: “Trời còn sớm lắm”, nhưng ngoài rạp đã có tiếng chân nhộn nhịp, rất nhiều người nói: “thành tâm”. Ngọc Kiều Long liền nói: “Các ngươi xem thử có bao nhiêu người lên đỉnh núi rồi? Dâng hương mà không đi sớm thì làm sao được?”.
Triển phu nhân ngáp một cái, ngồi thẳng người lên. Bà ta cũng nhìn đồng hồ, cũng nói: “Trời ơi! Ngủ quá giờ rồi! Trời sáng mau lắm, chúng ta phải lên đỉnh núi thôi! Chậm một chút có thể nương nương về cung mất!”. Rồi vội vàng gọi đám bộc phụ, tất bật chuẩn bị đi. Hai bộc phụ của Lỗ phủ đều hốt hoảng nhất tề nói: “Triển phu nhân, người chờ một chút, để thiếu phu nhân chúng tôi cùng đi!”. Triển phu nhân gật đầu nói: “Được! Các ngươi mau lên một chút”.
Người tớ trai của Ngọc phủ lúc ấy đã đứng ngoài cửa hỏi cô nãi nãi lúc nào lên núi, bọn a hoàn bên trong trả lời vọng ra. Y lại bảo người trong rạp đưa tới cháo và bánh màn thầu nóng, Ngọc Kiều Long và Triển phu nhân cùng bọn bộc phụ a hoàn vội vội vàng vàng ăn uống qua loa, đều cảm thấy thân thể ấm lên. A hoàn bèn lấy ra một chiếc áo có đệm vai cho Ngọc Kiều Long, Triển phu nhân cũng khoác một chiếc áo khoác bằng da, cầm chiếc gậy gỗ táo của bà ta lên.
Mấy người kia tuy bị tiếng ồn đánh thức, nhưng có mấy vị phu nhân không muốn lên đỉnh núi sớm quá, họ vẫn còn có vẻ hơi mệt mỏi, nhất tề bước ra ngoài rạp.
Lúc ấy trời vẫn còn tối, sao vẫn còn lấp lánh trên trời, gió rất lạnh, thổi hai chân tê cóng. Nhưng quả thật đã có không ít người đang đi lên đỉnh núi. Tuy đi trên đường núi, cách vài mươi bước lại có một ngọn đèn pha lê “Lộ đăng hội”. Khách dâng hương trong tay người nào cũng cầm đèn pha lê, đèn giấy, đèn sừng trâu, nhưng không soi rõ được đoạn đường núi ấy, mọi người đều phải dùng gậy gỗ khua khua về phía trước dò đường, nhích lên từng nửa bước một. Nhưng Ngọc Kiều Long thì không cần chống gậy, nàng đi vô cùng nhẹ nhàng mau lẹ, nhưng nàng phải đi chậm lại để chờ Triển phu nhân.
Đi được một lúc, quay đầu nhìn lại xuống dưới thấy rặng núi nhô lên hạ xuống, đường núi quanh co ngoằn ngoèo, chỗ nào cũng có ánh đèn lửa sáng rực, cảnh tượng lúc ấy quả thật vô cùng thần bí. Bọn họ tất cả có chín người, lên tới đỉnh núi, đầu tiên vào sau Linh quan điện, kế đó bước vào cung Bích Hà Nguyên quân.
Ngôi điện này dựng trên đỉnh núi, vốn không lớn lắm, nhưng ánh đèn lửa sáng rực, tiếng chuông khánh vang vang, khách dâng hương chen nhau vái lạy, lão đạo sĩ xin tiền, rất là ầm ĩ. Bọn họ dễ dàng chen qua cổng miếu, nhưng muốn vào giữa điện ung dung thắp hương lại không dễ. Ngọc Kiều Long đành quỳ xuống khấu đầu sau lưng đám đông. Người tớ trai thắp từng nén hương, vì không có chỗ cắm nên tiện tay cắm luôn vào cái lư hương lớn.
Trời tuy chưa sáng hẳn, nhưng ánh lửa ở đó rất sáng, khói hương nghi ngút như mây, không ai nhìn rõ mặt nhau. Ngọc Kiều Long được a hoàn đỡ lên, a hoàn cảm thấy tiểu thư có nước mắt rơi xuống tay cô ta. Nhất thời lại chen ra không được, vả lại Triển phu nhân còn giơ cao nén hương vái vái, quỳ xuống đất vừa dập đầu vừa rì rầm đọc kinh, nên họ phải chờ.
Chờ một lúc, Triển phu nhân mới đứng lên, trong tay còn cầm nén hương, tàn hương rơi xuống cháy áo khoác khiến bà ta hoảng sợ kêu ầm lên. May mà hai người bộc phụ trong Lỗ phủ bước lênd dùng tay dập tắt. Hương vứt dưới đất, lửa bắn ra tung tóe, khiến rất nhiều người hoảng sợ nép qua một bên. Triển phu nhân lại không dám trách móc gì ở đó, ngay cả than thở cũng cảm thấy không hay lắm, đành nói: “hương tàn rồi! Kể như ta đã gặp được nương nương rồi! Chúng ta đi thôi!”. Lúc ấy lại do người tớ trai dẫn đầu, mấy người bọn họ lại chen ra khỏi miếu.
Lúc ấy sao trên trời đã nhạt dần, mây đã sáng lên, phương đông nhô lên một quầng ánh sáng màu tía. Họ bước xuống dưới, trời càng sáng lên, quầng sáng màu tía càng lúc càng lớn, cả một mảng mây ở phương đông cũng đều trở thành màu hoa mai côi, cảnh tượng càng thêm mỹ lệ. Chim trên núi lại cất tiếng ríu rít, nhưng gió sớm càng mạnh, mây mù đều hạ xuống đỉnh núi, càng lúc càng dày.
Lúc ấy, đoàn người của họ tinh thần đều vô cùng khẩn trương, đều đưa mắt nhìn Ngọc Kiều Long, đều mong nàng quên đi chuyện hoàn nguyện thì hay. Nhưng Ngọc Kiều Long sắc mặt vẫn như có một làn mây mù, hai mắt buồn rầu khép lại, mái tóc hơi xõa ra, cánh hoa bên mái tóc rung lên, bộ quần áo màu tuyết thanh bị gió núi thổi bay phơ phất lấy tay gạt nước mắt, lại đi tới trước một bờ vực.
Dưới vực là một khe núi, mây mù cuồn cuộn mênh mông như một vùng biển lớn, người chung quanh không ai dám tới gần. Ngọc Kiều Long đứng ở đó quay lại nói: “Các ngươi về cả đi!”. Giọng nói thê thảm nhưng kiên quyết. Nói xong không quay đầu lại nữa. Hai a hoàn quỳ xuống khóc rống lên, đám bộc phụ thì run lên nói: “Thiếu phu nhân! Đừng, đừng…”.
Triển phu nhân cũng hai chân run lập cập, niệm Phật một câu, nhắm nghiền hai mắt, môi không ngừng mấp máy. Người tớ trai bước tới khom lưng nài nỉ: “Cô nãi nãi! Người tới đây là được rồi! Đại nhân đã khỏi bệnh, nương nương đã sớm biết hiếu tâm của người rồi! Người phải bảo trọng tấm thân ngàn vàng, người theo chúng tôi về đi! Người còn phải chiếu cố mấy đứa cháu nữa!”.
Ngọc Kiều Long không hề trả lời, cúi đầu nhìn đám mây mù dưới vực. Đột nhiên thấy nàng giẫm chân một cái, đám a hoàn bộc phụ nhất tề hoảng sợ giơ tay lên, cao giọng gọi “A…”, người tớ trai định bước tới kéo lại nhưng không kịp, chỉ thấy Ngọc Kiều Long nhảy thẳng xuống dưới! Một trận gió thổi qua, con phượng bên tóc nàng rơi xuống mặt đá, bộ quần áo màu tuyết thanh của nàng đã như một đóa hoa rơi thẳng xuống vực sâu vạn trượng, bên dưới khói mù mênh mông, không nhìn thấy gì.
Đám a hoàn bộc phụ đều cùng bật tiếng khóc lớn, người tớ trai thì hoảng sợ nhảy dựng lên, nói “Chúng ta làm sao về, Đại thiếu gia, Nhị thiếu gia dặn chúng ta đến lúc thì bất kể thế nào cũng phải cản trở cô ta, bây giờ thì, ôi, ôi…”. Triển phu nhân thấy người đã nhảy xuống, bà ta lại mường tượng như không sợ sệt gì lắm, bèn niệm một câu “A Di Đà Phật!”. Lại nói: “Các ngươi đừng khóc nữa! Chuyện này không có gì quan trọng, không tin các ngươi cứ về thành mà xem, cô ta đã về trước các ngươi rồi, Nương nương trên đỉnh núi nếu một chút linh thiêng này cũng không có thì đời nào có bấy nhiêu người tới dâng hương?”.
Lúc ấy có rất nhiều khách dâng hương từ dưới lên, khách dâng hương xong từ trên xuống đều chạy tới nhìn. Nghe nói tiểu thư gieo mình xuống vực, tất cả đều xôn xao bàn tán không thôi, đều cho rằng chuyện này không có gì quan trọng. Bờ vực này tuy là sâu nhất, trong khe có mây mù, người bản địa đều biết dưới làn mây mù ấy là bãi hoang đá dựng ngổn ngang, có chút nước không đáng kể. Trước nay chưa có ai xuống dưới đó, nhưng ở dưới nếu như có đường đá có thể bám víu thì cũng chỉ cách chỗ Tam trừng nhãn không xa, cũng có thể không đến nỗi chết.
Lúc ấy hai người bộc phụ và hai a hoàn trong lòng đều nửa tin nửa ngờ, người tớ trai lại mặt mày nhăn nhó, nghĩ thầm: “Xong rồi! Như vậy mà ai không chết!”. Triển phu nhân tuy ngoài miệng nói: “Không hề gì, nhất định không sao đâu, cho dù có chuyện gì, Ngọc phủ cũng không thể trách móc chúng ta. Cũng không phải chúng ta bức bách cô ta, là cô ta tự mình muốn hoán nguyện thôi!”, nhưng tim không ngừng đập thình thịch.
Lúc ấy mặt trời đã lên cao, người trên núi càng đông, đều tranh nhau kể lại chuyện ấy. Triển phu nhân thuê một chiếc kiệu trên núi đưa mình và đám bộc phụ xuống núi. Người tớ trai của Ngọc phủ ở đó cùng đám bộc phụ a hoàn nghỉ ngơi một lúc đến giờ Ngọ mới xuống núi. Người tớ trai trước tiên gọi xe đưa đám bộc phụ a hoàn vào thành, chia nhau về hai phủ Ngọc Lỗ báo tin, một mặt y tìm rất nhiều người cùng theo y xuống khe núi tìm kiếm. Lúc ấy khách dâng hương càng tới đông hơn, từ tám huyện kinh thành, Thiên Tân, phủ Bảo Định, người các nơi đều tới đó dâng hương, trò diễn càng nhiều, người cũng náo nhiệt, nhưng đều chưa ai nghe chuyện như thế này.
Người tớ trai của Ngọc phủ ở lại đó liên tiếp năm ngày, hai phủ Ngọc Lỗ lại phái mấy người đầy tớ cùng tìm kiếm, lại treo tiền thưởng rất hậu. Nhưng bờ vực cao ngất như thế, khói mù trong khe mênh mông như thế, bản thân Ngọc Kiều Long hoặc xác nàng đều không biết ở đâu, cả một chiếc hài cũng không tìm thấy. Có người nói: “Cô ta mà chết à? Cô ta bản lĩnh như thế, đừng nói là nhảy xuống vực, cho dù từ trên trời ngã xuống đất, từ mái ngói điện Linh Tiêu rơi xuống trước điện Diêm Vương cô ta cũng không chết được đâu! Hay là cô ta mượn chuyện này để bay đi rồi”.
Có người mới trên đỉnh núi Diệu Phong xuống, lại lắc đầu nói: “Không phải! Bờ vực ấy ta thấy rồi, cao lắm! khe núi rất sâu, bất kể có bản lĩnh tới múc nào rơi xuống cũng không sao sống sót! Vì thế lại có người phao tin, nói là có người nhặt được ở khe núi một sợi tóc màu đen, xác chết đại khái đã bị sói ăn rồi, con sói ấy kể ra cũng có diễm phúc thật!”.
Lại có người nói: “Ngọc Kiều Long thác mộng cho cha cô ta, nói cô ta quả đã chết rồi, cha cô ta vì thế thổ huyết, lại bệnh càng nặng hơn”, lời đồn đều khác nhau, nhưng không ai có chứng cứ xác thực. Có điều Lỗ phủ lại mời đạo sĩ đọc một lượt kinh cho thiếu phu nhân, từ đó không nói tới chuyện ấy nữa.
Vợ chồng Lưu Thái Bảo du ngoạn ở núi Diệu Phong suốt nửa tháng, ngày mười sáu mới cùng ngồi xe về thành, không thấy con ngựa đâu, thanh bảo kiếm và hai cái bọc kia cũng không biết đã đưa cho ai. Có người hỏi y về chuyện Ngọc Kiều Long nhảy xuống vực, y lại xua tay lia lịa nói: “Đừng nói nữa, đừng nói nữa! Ta họ Lưu, cô ta họ Ngọc, ta là lưu manh nghèo, người ta là tiểu thư thiếu phu nhân nhà quan. Năm ngoái ta nhất thời hiếu sự, mấy lần gây chút rắc rối cho nhà cô ta, đó là sự thật, nhưng bọn ta chỉ gặp mặt nhau một lần, chắc chắn không có cơ duyên gặp lại. Người ta nhảy xuống vực, chỉ cần không phải ta xô xuống thì đừng tới hỏi ta. Bây giờ Ngọc Kiều Long còn sống hay đã chết, chỉ trách ta không có giao tình với Diêm Vương, không thể xuống đó tra sổ sinh tử. Được rồi, các vị đừng tới hỏi ta, bây giờ ta không quản những chuyện không đâu, chỉ lo nồi cơm của ta thôi!”.
Thái Tương Muội cũng than thở với các nhà láng giềng, vỗ vỗ ngực nói: “Hừ! Đúng là không ngờ tới, đáng tiếc thật! Cô ta đối xử với ta mới tốt làm sao!”.
Vợ chồng họ từ kinh nhảy xuống vực, hàng ngày sống đặc biệt yên ổn, đưa con trai đầu lòng của Thái Tương Muội vô cùng bụ bẫm đáng yêu. Lưu Thái Bảo trong Thiết phủ cũng vẻ vang hơn trước, tuy quần hùng đều đã đi, y ở trên phố có thể xưng vương, nhưng y lại không hay gây sự như trước kia nữa, những chuyện không đâu mà y không đủ sức quản thì y cũng không thích quản. Thốc đầu ưng bạn y cũng không biết vì sao lại phát tài lớn, toàn thân chỗ nào cũng sang trọng. Còn hai nhà Đức Khiếu Phong và Khâu Quảng Siêu thì hoàn toàn không bình phẩm gì về việc Ngọc Kiều Long.
Lễ hội núi Diệu Phong qua đi, kinh thành lại yên yên ổn ổn, chuyện Ngọc Kiều Long đã không ai nhắc tới nữa, chuyện sống chết của nàng kết thúc không rõ ràng. Khí trời ngày càng ấm, tơ liễu ngày càng dài, cỏ đã từ màu xanh chuyển sang màu lục, cây cối từ rụng hoa chuyển sang kết trái.
Ở một dãy Ngũ Hồi lĩnh Tây Lăng, chỗ ấy theo địa giới hành chính mà nói là ở phía nam kinh thành nên khí hậu càng ấm, cỏ trên núi càng cao. Dưới núi có vài gian nhà tranh không biết của ai, gần đó có suối trong núi chảy ra thành một dòng khe nhỏ, nước tụ lại thành một cái hồ nhỏ rộng khoảng một mẫu cạnh nhà. Trên bờ lau lách tươi tốt, hòe liễu thành rừng, dưới nước có năm sáu chục con vịt bơi lội đùa giỡn, trên sườn núi còn thả hơn bốn mươi con dê cho ăn cỏ ở đó. Lông dê và cánh vịt đều trắng như tuyết, nhìn từ xa như đua sáng với nhau.
Nơi đó rất ít người lui tới, chỉ có đạo sĩ ở một ngôi miếu phía bắc núi thường tới thăm hỏi chủ nhân. Gian nhà này chỉ có một chủ hai tớ, hai người đày tớ một người chăn dê, một người nuôi vịt. Nhưng người chăn dê không phải là mục đồng thổi sáo phong lưu tiêu sái như trong các bức tranh, mà là một người hình dung cổ quái, hai mắt đỏ ngầu, rất giống một con chuột, thường ngồi giữa bầy dê hít thuốc.
Người lo việc nuôi vịt cũng không giống các thôn nữ yêu kiều ngồi trên thuyền càm sào tre xua vịt ở vùng sông nước Giang Nam, mà là một người khỏe mạnh dữ tợn, trên mặt có một vết sẹo do đao chém, giống như tưng làm lâu la đi ăn cướp. Gã này rất lười biếng, cả ngày thường nằm ngủ trong rừng, rất giống một con lúi trong hang. Nhưng sinh kế trong nhà toàn do hai người bọn họ lo toan, dê nuôi béo thì đem bán cho cửa hàng thịt dê cạnh thành gần đó, vịt nuôi béo thì đưa tới lò quay, hoặc làm thịt ăn.
Chủ nhân thì việc gì cũng không làm, suốt ngày mặt mày buồn bã, hàng ngày cạo râu, hàng ngày đứng trước cửa hoặc lên gò nhìn đông ngó tây. Có lúc lại giẫm chân thở dài, ca hát, nhưng y chỉ hát một câu, chỉ có bốn chữ “Trời đất tối tăm” còn đoạn dưới thì y không hát, mường tượng như trong lòng y thường xuyên lo lắng nôn nóng, trông chờ ai tới. Nhưng một lần gió xuân rồi lại một trận mưa thu, ban ngày trôi qua lại tới chiều tối, từng ngày từng ngày qua đi, người y mong đợi lại mãi mãi không tới, y ngày càng buồn rầu, ngày càng nóng ruột.
Lúc ấy chim én đã thành đôi, ong bướm đã tìm bạn trong hoa, bầy dê cũng thường đuổi nhau, vịt thì từng đôi từng đôi bơi lội, trăng cũng đã tròn. Hôm ấy trên cành liễu hiện ra một vầng trăng tròn, ánh trăng soi xuống nơi ấy, đá núi như ngọc, bóng cây như vẽ, nước ao dâng cao như một vùng thủy ngân. Trong nhà cũng không có đèn lửa, vịt đã về chuồng ngủ, bầy dê cũng đã chen nhau tới dưới rặng cây ngủ yên, chỉ có hai người đầy tớ kia ngồi trên sườn núi, giống như thi nhân ngắm trăng. Thật ra là họ không để ý gì tới trăng, họ chỉ tranh nhau hít thuốc.
Lúc ấy từ phía bắc có tiếng vó ngựa vang tới, âm thanh không gấp, nhưng từ xa dần dần tới gần, càng lúc càng rõ. Người giống như một con chuột bèn nghiêng tai lắng nghe, rồi đẩy bạn y một cái, nói: “Ngươi nghe xem, có phải có ngựa tới không?”. Hai người cùng chạy xuống núi chặn đường, mượn ánh trăng đưa mắt nhìn về phía bắc. Phía bắc là từng rặng từng rặng núi chập chungd, ban ngày từ bên này trèo qua bên kia cũng không dễ, huống hồ chỉ là ban đêm, là ai thế nhỉ? Có bao nhiêu người? Nhưng theo tiếng vó ngựa vang tới thì chỉ có một người một ngựa, lốc cốc lốc cốc, không bao lâu con ngựa đã dần dần tới gần.
Gã mặt sẹo bên này giơ cao hai tay gào lên: “Này, này, ngươi tới đây làm gì thế?’. Gã giống con chuột phía sau lại kéo y một cái, nói: “Chẳng phải là thái thái của chúng ta tới sao?”. Vì y đưa hai con mắt đỏ ngầu nhìn qua, dưới ánh trăng đã thấy cách hai ba mươi bước là một con tuấn mã màu yên chi, trên ngựa chở hai cái bọc lớn, còn có một vật dài dài như một thanh bảo kiếm. Lá chắn trên kiếm bằng đồng, hàm thiếc đai yên bàn đạp đều bằng đồng lấp lánh dưới ánh trăng. Người trên ngựa thân cao lưng thon, toàn thân mặc một chiếc áo chẽm màu xanh, nhưng trên đầu trùm một chiếc khăn hoa che kín búi tóc, là một cô gái.
Gã giống con chuột vội quay người reo hò nhảy nhót chạy tới. Gã mặt sẹo thì bước mau ra giữ con ngựa lại, cùng nói: “Lão gia chúng tôi chờ người ở đây đã nửa năm rồi!”. Cô gái trên lưng ngựa cất giọng trong trẻo mà gấp gáp nói: “Người ta nói với ta là các ngươi ngụ ở miếu Tam Thanh phía bắc núi, ta tới tìm thì lão đs đó nói các ngươi đã dời qua đây. Nếu sớm biết các ngươi ở đây, ta đã bớt được bao nhiêu đường đất”. Gã mặt sẹo nói: “Đây là chủ ý của lão gia chúng tôi, vì lão gia thấy nếu gặp người trong miếu thì có chỗ bất tiện. Vừa khéo ở đây lại có mấy gian nhà vô chủ, lại rất yên tĩnh sạch sẽ, cư trú rất hợp. Dưới đất tuy có một cái hầm lớn, nhưng chúng tôi đã lấp rồi. Chúng tôi dời tới đây là ở để chờ người thôi, thưa thái thái…”.
Y vội chữa lại, nói: “Thưa tiểu thư…”. Cô gái không tỏ vẻ gì, cho ngựa thong thả đi tới vài bước, thấy trong nhà đã thắp lên ánh đèn đỏ nhạt. Chủ nhân trong nhà, một thiếu niên nam tử, đầu hổ lưng gấu, mặt cạo sáng còn hơn cả ánh trăng nghe tin vội bước ra. lúc ấy cô gái thong thả xuống ngựa, dặn người dắt ngựa: “Đừng động vào đồ vật trên ngựa!”. Nàng một tay cầm roi, như tiên tử trong cung trăng hạ phàm thướt tha bước tới gặp người đàn ông kia, hai người nắm chặt tay nhau.
Người đàn ông khẽ thở dài một tiếng, cúi đầu xuống rồi ngửng mặt lên, trên khuôn mặt xinh đẹp của cô gái xuất hiện nụ cười xinh đẹp, nụ cười đa tình, trên lông mi còn đọng lại mấy hạt lệ như sương, ánh trăng chiếu vào chớp chớp lóng lánh.
hai người nắm tay nhau bước qua bức tường thấp, hàng giậu trúc, bức mành tre rồi vào phòng.
Trong phòng có một chiếc giường, ánh đèn phát ra màu sắc lộng lẫy trên cử sổ, cái bóng to lớn của người đàn ông và cái bóng xõa nhỏ nhắn của cô gái ngồi dựa vào y đều in rất rõ trên cửa sổ, lại thỉnh thoảng thay đổi tư thế. Hai người bên ngoài dắt con ngựa màu yên chi vào cổng buộc ở cọc xong, tới ngồi xổm trước mái hiên nàh bếp, họ ngẩng đầu nhìn lên cửa sổ rồi nhìn nhau cười, vuốt mũi nháy mắt ra hiệu với nhau. Họ đều không dám tới gần nghe trộm.
Hai người nam nữ trong phòng trò chuyện rất khẽ, tiếng nói không vang ra tới cửa sổ. Bóng người trong cửa sổ cũng loang loáng liên tục không cố định. Nhưng qua hồi lâu, cô gái đột nhiên phá lên cười khanh khách, âm thanh cực kỳ trong trẻo, lại thấy người đàn ông choàng tay qua vai nàng, kéo mặt nàng lại gần cũng hô hô cười rộ.
Hai người bên ngoài đều thè thè lưỡi nhìn nhau, lại hạ giọng nói khẽ với nhau: “Hôm nay vui quá hả?”, ‘Xem tình hình này thì có thể sống ở đây được rồi. Hai anh em mình tính sao, chứ xem người ta kìa?”. Đột nhiên tiếng cười trong phòng đứt ngang, ánh đèn tắt phụt. Mặt trăng đã lên tới giữa trời, dưới đất rất sáng, bóng cây cối, bóng giậu trúc in dưới đất càng rõ nét, cảnh vật bốn bề càng tĩnh mịch càng u mỹ. Hai người trước mái hiên, một người kéo người kia nói: “Được rồi, đừng nhìn nữa! vào phòng ngủ thôi! Sáng sớm ngày mai đừng quên chúc mừng thái thái chúng ta là được!”. lúc ấy hai người vào nhà bếp đi ngủ. Bên ngoài càng yên lặng, chỉ có gió núi thổi lá cây rì rào, tiếng nước suối thì thầm dưới khe đá, hai ba ngôi sao trên trời nhìn xuống nháy mắt mỉm cười…Một đêm trôi qua.
Sáng sớm hôm sau, trời vừa ửng sáng, mù sớm lan khắp trên núi trong rừng. Người trong nhà, cả dê vịt đều chưa thức giấc, con ngựa buộc ở cọc trên lưng vẫn còn đủ yên cương, mang hai cái bao và thanh bảo kiếm, đang thở phì phò, bóng trăng chuyển qua phía tây, đã trở thành một mảnh màu bạc không còn ánh sáng. Gió lay cành lá, như muốn đánh thức chim chóc.
lúc ấy tấm mành tre ở cửa chợt lay động, cô gái bước ra, tuy bước chân đặt xuống không một tiếng động nhưng nàng đi rất nhanh, một tay cầm roi ngựa, nàng cởi dây buộc, dắt ngựa ra ngoài bức tường thấp, nhảy lên ngựa, lấy khăn lau lau mắt rồi vung roi thúc ngựa phi về phía đông không hề ngoảnh lại. Tiếng vó ngựa vừa vang lên, chim chóc đang ngủ giật mình bay tán loạn, vịt kêu dê hí. Người đàn ông trong phòng cũng giật mình tỉnh dậy, phát hiện cô gái đã đi mất, y vội vàng chạy ra đuổi theo, nhìn ngó bốn phía, luôn miệng kêu gọi, nhưng bóng dáng xinh đẹp của cô gái đã mất hút.
Phương đông hiện ra màu hoa mai côi, mây mỏng ở chân trời xếp hình vảy cá, mây mù cũng tan dần. Đất rộng trời dài như bị lột mất một tấm màn xinh đẹp, tan mất một cơn ảo mộng, để lộ bộ mặt buồn thiu trông sầu muộn. Người đàn ông đứng ngẩn ra suốt nửa ngày trên sườn núi. Y hiểu rõ, y biết cho dù có đuổi kịp cũng vô dụng, nên y thở dài, ảo não, lê bước trở vào nhà. Hai người đầy tớ trong nhà bếp vẫn đang ngủ say, vẫn chưa biết cơn mộng đẹp của chủ họ đã tan biến.
Quyển “Ngọa hổ tàng long” viết tới đây thì tác giả dừng bút. người đọc thông minh chắc đã biết một nam một nữ cùng xây mộng đẹp trong gian nhà tranh ối qua là ai, cũng đã biết vì sao họ phải chia tay mà không thể đoàn tụ lâu dài. Từ đó trở đi La Tiểu Hổ thỉnh thoảng nhớ lại đều cảm thấy giấc mộng ấy tươi đpẹ ôn nhu, y ở đó lòng tàn ý lạnh, không làm việc gì, càng không tranh đấu tung hoành, trở thành một người ở ẩn cao “ngọa” trong lều. Còn Ngọc Kiều Long thì khó quên mối si tình của người yêu, nhưng lại không thể không theo lời di ngôn của mẹ lúc lâm chung. Tóm lại nàng tuy đã rời khỏi nhà quan, La Tiểu Hổ tuy đã bỏ không làm cướp nhưng cuối cùng vẫn là xuất thân ăn cướp. Cho nên nàng tới đó gặp y một lần, cùng ôn mộng đẹp, đáp tình trọn nghĩa, nhưng lại không dám lưu luyến, hôm sau quyết ý ra đi, như cái đuôi con thần long, không biết “tàng” ở đâu. Bể trần mênh mông, đời người ưu phiền, về sau còn rất nhiều tình tiết sẽ thuật trong quyển “Thiết kỵ ngân bình”.
Hết