Bức họa cuối cùng
Tác giả: Vương Tâm
Tôi bấm chuông mãi mới thấy lão lò dò ra mở cửa. Lão dụi mắt, đeo kính mới nhận ra tôi. Bất chợt lão kéo tay tôi vào nhà nửa mừng nửa rầu và lúng búng nói:
- Lão có lỗi với anh, bức họa ấy em nó lại bán mất rồi.
Tôi trợn mắt hỏi lại:
- Thật ạ?
Lão lại dụi mắt, hình như để giấu đi những giọt nước mắt vừa ứa ra. Sau đó lão cúi đầu như nói với chính mình:
- Chó má thế đấy! Lần này hình như nhiều tiền hơn lần trước, nên nó lấy đi ngay không kịp chụp hình lưu lại.
Tôi ngần ngại ngồi xuống ghế. Ấm chè còn nóng, có lẽ lão mới pha để đón tôi theo lời hẹn. Ánh nắng buổi sớm len mãi vào ngôi nhà nhỏ này mới được có ba tia như chiếc rẻ quạt khẳng khiu bằng bạc. Tôi chỉ biết im lặng vì không biết nên giận hay nên thương con trai lão. Bởi ai cũng biết rằng, bất kể lúc nào hắn cũng sẽ vẽ cho lão ngay một chân dung khác. Hắn có tài và nổi tiếng trong giới hội họa. Nhưng không hiểu sao nom mặt hắn trơ trơ, nhẵn thín, vô cảm chứ không được như gương mặt góc cạnh đầy biểu cảm của lão. Nhiều lần hắn tự họa để bán cái mặt mình cho thiên hạ, nhưng lại thấy lộ nguyên hình cái mặt nhạt nhẽo với đôi môi lúc nào cũng mỏng dính dưới cặp kính mắt tròn điệu bộ. Tôi là bạn vong niên của lão nên có gì vui buồn lão đều gọi tôi đến để kể lể, trò chuyện, trút bầu tâm sự. Đôi khi lão còn khóc tu tu lên như đứa trẻ. Nhưng chưa bao giờ tôi dám ta thán về hắn, con trai lão, vì đó là chuyện riêng của gia đình lão. Nhưng lần này là lần thứ mười, hắn bán đi bức chân dung mà lão ưng nhất, thì tôi đâm khùng và bật ra một câu khó nghe:
- Thằng mất dạy!
Nói rồi tôi mới thấy nhỡ lời vì thấy lão tái mặt đi. Tôi lúng túng xin lỗi lão, ai dè lão chỉ im lặng, một lúc sau mới nói:
- Đúng là tôi không dạy nổi nó, anh ạ!
Tôi cắn răng tỏ ra ân hận vì câu trách cứ ấy, nhưng vẫn nói thêm:
- Tiền ai chả quý. Cần thì cần thật đấy. Nhưng bán bức tranh mà cha mình quý nhất là việc tệ hại.
Lão nhếch miệng cười. Cặp môi dày rạn nứt vì thời gian nửa như mếu thều thào:
- Nó hứa với tôi ngay trong tuần sẽ đến vẽ cho tôi chân dung khác. Sẽ đẹp hơn. Sẽ biểu cảm hơn.
Tôi im lặng uống thêm chén nước trà đậm mà lão mới rót. Lão nhìn tôi tỏ ra áy náy, có thể vì thấy tôi lần đầu tiên trách cứ con trai lão. Bất chợt có tiếng chim hót ở vườn cây nhỏ bé cuối sân. Lão cười, ngước cặp kính to dầy cộp nhìn ra phía ngoài, rề rà nói:
- Thỉnh thoảng chim đến đây hót nghe vui đáo để. Nhờ nó mà đôi lúc tôi thấy mình như thức dậy sau cơn ngủ mê mệt. Anh thấy tiếng nó trong trẻo không. Cứ ríu ra ríu rít đến vui tai.
Tôi biết là lão cố đánh trống lảng cái chuyện con trai mình vừa bán bức chân dung đẹp nhất, để tôi đỡ giận. Nhưng tôi vẫn thấy hậm hực thế nào ấy, nên cố hỏi thêm một câu:
- Thế nó có đưa ít nào cho bố không?
- Có !
- Bao nhiêu ?
- Nói anh bỏ quá cho.
- Bao nhiêu ?
- Hai trăm ngàn tiền ta. Gọi là có mà anh.
Tôi cáu tiết ra mặt. Thì ra mười lần vẽ chân dung cho bố, rồi lại bán đi khi được giá, mỗi lần lại quẳng cho bố vài trăm và lại hứa vẽ cho bức khác. Nghĩ mà bực mình. Nhưng chợt nhìn thấy lão thui thủi ngồi cúi đầu, ra sức lau mãi mắt kính thì tôi nguôn cơn giận, an ủi lão.
- Thôi thì lần tới hắn vẽ xong, bác trả tiền công sá sòng phẳng mua đứt đi. Em sẽ góp tiền cùng bác, bao nhiêu cũng được, bác ạ!
Lão trố mắt nhìn tôi:
- Hay đấy nhỉ, phải cho nó biết tay mình chứ lị.
Thế rồi lão với tôi cùng cười, làm như thắng lợi trong tầm tay rồi. Tôi nhấp thêm một chén trà rồi xin phép ra về vì thấy lão có vẻ đói và muốn đi nấu bát mì tôm đang để sẵn trên bệ bếp. Tôi đi ra chợt nghe thấy lại một giọng tuồng khê nồng cũ rích như mọi bận, lại thấy rầu rĩ trong lòng...
oOo
Tôi trở thành bạn vong niên của lão, bởi vì trước những năm năm mươi lão chơi với bố tôi. Nghe nói hồi ấy cả hai đều yêu mẹ tôi nhưng lão bị chê là hơi nghệ sĩ, đa tình nên mẹ tôi ngả sang bố tôi là một công nhân đường sắt, chân chất và nghèo kiết xác. Lão sau này cũng lấy vợ sinh con và vẫn hay đi hát cô đào. Được cái lão hát rất mùi với cái giọng ca trù óng ả. Bố tôi kể lại, lão được nhiều cô đào hát mê lắm. Còn các đào rượu thì cứ ngả ngớn hầu lão hết sức chu đáo. Nhưng ai dè vợ lão bị bệnh chết sớm để lại cho lão ba đứa con trẻ dại. Có cái lạ, sau ngày vợ chết, lão tu tỉnh hẳn, chịu khó làm lụng và nuôi con khôn lớn. Nhất là hắn, cái thằng con thứ hai có biệt tài hội họa và được thiên hạ tìm đến mua tranh rất xôm. Hắn giàu sụ và chơi lắm thứ, tỏ vẻ giàu sang, nào nhà vườn, nào biệt thự, nào xưởng vẽ, nhưng chẳng bao giờ lo nghĩ đến bố cả. Lão vẫn ở cái nhà mười hai mét như ngày nào. Nghĩa là hơn nửa thế kỷ qua, lão cứ lọm khọm vào ra cái sân khoảng hai mét vuông để hít thở, tưởng nhớ và tự an ủi rằng, đã có những đứa con trưởng thành sung sướng giàu có bắt đầu từ ngôi nhà bé nhỏ này. Nghĩ thế lão cười và thấy tự hào lắm.
Trước đây, bao giờ sang thăm lão, bố con tôi cũng dắt díu, nên lão cũng coi tôi như con vậy. Sau này, bố mẹ tôi mất đi, tôi bỗng nhiên trở thành thân thiết với lão, hóng mọi chuyện từ ngôi nhà nhỏ bé này. Phải nói, tôi rất mê các chân dung mà hắn vẽ cho lão. Lắm lúc tôi cũng tự an ủi lão rằng, thôi thế cũng được, ít ra hắn còn có chút tình với bố qua các bức họa.
Tôi với lão thường cười ha hả với bức chân dung thứ nhất, bởi hắn vẽ lão ngộ nghĩnh lắm. Đôi môi dề ra với nụ cười hóm hỉnh. Đôi mắt cách điệu với vẻ lim dim khoái trá như vừa liếc gái vậy. Ấy là lão với tôi cứ tán vậy rồi cười, rồi ho sặc sụa, như đôi bạn tri kỷ. Thế rồi, bỗng dưng có một người đàn ông cao lớn theo chân hắn đến ngôi nhà nhỏ bé ấy, ngắm nghía rồi trả giá. Nghe đâu lần ấy hắn bán vội, giá năm trăm đô la. Hắn nhận tiền xong tịnh không nói gì với lão mà chỉ hứa sẽ vẽ cho bố một bức khác.
Rồi, bức hai với mái tóc cuộn sóng và cái cằm khấp khiểng, cũng bán. Sau, bức ba với cặp mắt u sầu trong một ngày giỗ vợ của lão, cũng bán. Lại nữa, bức bốn, bức năm... Cứ vẽ xong hắn lại có khách và lại kêu túng với lão, lại bán. Lão làm mẫu cả thảy đến chục lần, mỗi lần bán, hắn thi thoảng mới đưa cho lão vài trăm, còn nói là thêm tiền tiêu cho vui, già rồi ăn mấy, lương hưu tiêu cũng chả hết. Khốn nạn. Hắn nghĩ thế và lại đòi lão làm mẫu. Tôi còn nhớ, đến lần cuối cùng, lão nói hết nước hết cái rằng, mình chẳng còn sống bao lâu nữa, bức tranh này là để sau này thờ. Hắn vâng dạ, rồi lại bất ngờ dẫn khách đến, được giá lại bán phắt, chẳng cần ý kiến lão...
Chính vì thế tôi mới nghĩ ra cái mẹo, lần này, lão và tôi sẽ dồn vốn mua đứt tác phẩm của hắn. Tôi nghĩ, cứ ra giá thế, chắc gì hắn dám lấy tiền của bố và có lấy cũng không thể lấy cao được. Nếu không, trước khi ngồi làm mẫu, lão sẽ bắt phải làm cam kết hai bên cho rõ ràng, như mọi hợp đồng kinh tế. Nếu không nghe, lão sẽ chẳng ngồi cho mà vẽ nữa. Tôi thì chẳng có con mắt hội họa gì nhưng ngắm mặt lão tôi rất thích. Gương mặt lão mỗi năm có thêm những nét già nua khắc khổ xuất hiện, nhiều góc cạnh hơn, và điểm trên má ngoài những hạt đồi mồi còn có những nếp da dạn dĩ đầy sương gió, nhất là đôi mắt mờ đục theo thời gian nhưng vẫn còn những nét lấp lánh ẩn chứa những ưu tư cho nhân tình thế thái. Có lẽ vì sự đổi thay khắc khoải ấy trên gương mặt lão đã làm cho hắn tạo nên những chân dung đặc sắc và cao giá. Cứ bức sau lại bán được giá hời hơn bức trước. Hắn bán, bởi hắn cho đó là tác phẩm của mình, nên chỉ cho phép cha mình treo chơi một thời gian.
Mỗi lần khách đến ngắm lão rồi lại ngắm tranh, ai nấy đều thích thú, cho đó là độc bản có một không hai. Cứ thế, đồng tiền đã làm hắn lao vào như con thiêu thân vậy. Không ngờ gương mặt đầy cá tính của lão đâm có giá. Chính vì lẽ đó mà lão cứ ngày một nhàu nhĩ, tủi buồn, vì cái mặt mình bị con trai đem bán cho khắp thiên hạ. Thấy tôi gợi chuyện mua đứt tác phẩm của hắn, lão tỏ ra đắc ý, quyết định đưa ra đòn một phen.
Từ hôm ấy, tôi chờ lão gọi đến, ngày này qua ngày khác. Có hôm tôi rẽ qua, chỉ thấy lão nằm thượt thở dài, rơm rớm nước mắt khi nhắc đến việc căn nhà trống trải ngày một lạnh lẽo vì không có bức chân dung nào còn được giữ lại. Rồi một tuần sau đó, tôi nhận được điện thoại. Giọng người trong máy nghe lạ lắm, chỉ nói nhanh là lão cho gọi tôi gấp. Thế là tôi bỏ mọi việc, hớt hải đến nhà lão với cảm giác lo sợ bất thường.
Căn nhà nhỏ của lão càng trở nên chật chội khi lố nhố đến năm bảy người đang ở trong. Tôi cố len vào, mới hay hắn và lão đang giằng co một bức họa. Lão phân trần:
- Đã mấy đêm bố thức cho con vẽ, bức chân dung này bố đã nói trước là bố đặt tiền mua, con đừng bán cho ông khách này nữa.
Hắn gay gắt.
- Làm sao bố đủ tiền mua khi người ta trả con tới năm ngàn đô. Con hứa với bố ngay đêm nay con sẽ vẽ tặng bố một bức khác, được chưa ?
Lão nì nèo.
- Không được, đây là bức họa đã được giao kèo, vì thế bố mới ngồi làm mẫu cả đêm qua.
Chợt nhìn thấy tôi, lão nấc lên như bị nghẹn vậy. Tôi chạy đến bên giường. Lão bảo tôi lấy hộ một mảnh giấy trong túi, rồi nói:
- Đây là giấy tờ đã đặt nó năm trăm ngàn để mua bức chân dung này. Nó nhận tiền rồi và ký hẳn hoi, vậy mà mới chỉ có một ngày, khách đến, nó lại lật lọng...
Tôi đang lúng túng tìm tờ giấy trong túi lão thì bất ngờ hắn lao tới giành lại bức chân dung trên tay lão, rồi quát lên:
- Đây là tác phẩm của con. Chẳng ai có quyền can thiệp cả.
Hắn nhìn tôi rồi đưa bức tranh cho một người khách đang đứng chờ ngoài cửa. Tôi với tay kéo hắn lại, định phân bua đôi điều thì bị hai người thanh niên trẻ đứng cạnh hắn đẩy ngã dúi xuống giường lão, chợt thấy lão trợn mắt ôm ngực kêu lên với những câu nghe đau thắt trong ngực:
- Đây là chân dung bố mà con. Đừng bán nữa. Bố xin con...
Nói rồi, lão ngã vật bên thành giường. Tôi chỉ kịp đỡ cho đầu lão khỏi bị đập vào cạnh bàn. Lão ngất xỉu nhưng tay vẫn nắm chặt tờ giao kèo. Đám người mua bức họa vội vã đi ra. Hắn cầm tiền gọn lỏn trên tay, quay lại:
- Anh dặn bố tôi đêm nay tôi sẽ về để vẽ cho ông ấy bức chân dung cuối cùng.
Tôi nói vội vàng:
- Ông đang bị ngất đi đây này. Cậu hãy ở lại xem sao.
Hắn nhấc cặp kính cận tròn vo nhìn lão:
- Một lúc là tỉnh lại thôi mà. Tôi quen cảnh này rồi. Thôi, bai... bai...
- Quay lại !
Tôi kêu không kịp nữa, vì hắn đã phóng xe lao vút đi.
Một người hàng xóm đã cùng tôi gọi xe cấp cứu đưa lão đi bệnh viện. Nhưng đây là lần cuối cùng tôi chăm sóc cho lão. Nửa đêm về sáng, lão đã tắt thở vì trụy tim. Một người già vô cùng cô đơn giữa những người con tài ba và giàu có. Tôi cứ ngồi bên cạnh lão cho đến khi ánh sáng đầu tiên chiếu qua cửa sổ.
Bất chợt có tiếng chim lảnh lót, tôi như hãy còn mơ màng, định gọi lão dậy để cùng nghe như mọi ngày, ở ngôi nhà nhỏ bé ấy. Nhưng tất cả đã hết. Tôi chẳng bao giờ được nghe thấy tiếng lão nữa.