Chương 23
Tác giả: Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ
Tự-Mai ngồi im từ nãy đến giờ. Chợt nó hỏi:
- Phò mã! Bao giờ tuyển võ đài?
- Chỉ còn hai tháng nữa?
- Theo Phò-mã, kỳ này những ai hy vọng thắng cuộc?
- Khó biết lắm. Có ít nhất mười người ghi danh. Còn phải chờ đến giờ chót.
Thân Thiệu-Cực chỉ vào Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm hỏi vua Bà Bắc-biên:
- Mạ mạ! Hai em này được mạ mạ nhận làm con nuôi. Vậy chúng có thể tranh võ đài làm châu trưởng không?
Thiệu-Cực khác hẳn Thiệu-Thái. Thiệu-Thái chậm chạp, mô phạm, đạo mạo. Ngược lại Thiệu-Cực tinh khôn linh lợi, phàm hành sự không câu nệ tiểu tiết, miễn thành công thì thôi. Thường ngày chàng gọi bọn Tôn Đản, Tự-Mai, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, Lê Văn bằng danh tự: Năm thằng giặc trời, năm ông mãnh, năm ông thiên lôi. Nhưng đôi khi làm việc, chàng gọi chúng bằng em, rất ngọt ngào.
Câu hỏi của Thiệu-Cực làm mọi người tỉnh ngộ:
- Ừ nhỉ? Tại sao không cho hai đứa này tham dự?
Thân Thừa-Quý tiếp:
- Còn nữa, châu Bảo-lạc bên Đại-Việt, giáp với châu Lôi-hoả, Đặc-ma bên Tống. Cả ba châu hiện do họ Hoàng thống lĩnh. Thành ra họ Hoàng chân trong chân ngoài, nửa Tống, nửa Việt. Vì vậy Hoàng Sùng-Anh muốn rút lui. Y cũng tổ chức võ đài vào cùng ngày, tuyển người thay thế.
Khai-Quốc vương quyết định:
- Tất cả 207 khê động đều thuộc Đại-Việt. Chúng ta không thể để cho bọn biên thần nhà Tống làm lộng. Hôm nay, tôi quyết định như thế này.
Mọi người im lặng, nghe vương ban chỉ dụ.
Vương tiếp:
- Chúng ta có bẩy điều cần ghi nhớ.
Vương chỉ Hoàng Lư:
- Thứ nhất. Các châu bị Tống khống chế như Hợp-phố, Như-tích, Để-trạo thuộc Khâm châu, cùng các châu Vĩnh-an, Triều-dương, Miếu-sơn thống nhất làm một. Xin Hoàng huynh thống lĩnh cho.
Hoàng Lưu đứng dậy chắp tay lĩnh mệnh.
- Thứ nhì. Các châu Thiên-long, Cổ-vạn, Tư-minh bị Ung châu khống chế hợp với các châu Tô-mậu, Na-dương, Đình-lập, An-châu bên Đại-Việt, thống nhất làm một. Xin Vi Thủ-Đan huynh thống lĩnh cho.
Vi Thủ-Đan đứng dậy lĩnh mệnh.
- Thứ ba. Các châu thuộc Tống khống chế như Vình-bình, Tây-bình, Lộc-châu, Tư-lăng trước do Vi Đại-An thống lĩnh. Các châu trên tiếp giáp với Lạng-châu, Quang-lang, Môn-văn, Vạn-nhai, trước do Thân Thừa-Phú thống lĩnh. Nay thống nhất tám châu, do Vi Đại-An thống lĩnh, Thân Thừa-Phú làm phó.
Tài, đức, võ công Vi Đại-An thua Thân Thừa-Phú xa. Dân chúng, tài nguyên của bốn châu thuộc y không thể so sánh với bốn châu của Thừa-Phú. Nay y được coi cả tám châu, được đặt lên trên Thừa-Phú, y mừng vô vùng, vội chắp tay tạ Khai-Quốc vương.
Trong khi đó, Thừa-Phú lại hiểu rằng:
- Mình cầm quân toàn vùng Bắc-biên, mà thống nhất đất mình với Đại-An, có khác gì đem đất y cho mình?
Vì vậy Thừa-Phú vui mừng hiện lên nét mặt.
- Thứ tư. Châu Quảng-nguyên, Tư-lãng, Thượng-dung, Hạ-dung, Thất-nguyên, Ân-tình thuộc Đại-Việt thống nhất với châu Thái-bình do Tống khống chế trao cho lão sư Nùng Dân-Phú thủ lĩnh.
Nùng Dân-Phú cung tay hành lễ.
Khai-Quốc vương tiếp:
- Thứ năm. Ai muốn kết tội Lưu Nguyên thế nào thì kết. Cô-gia quyết định đem các châu bị Tống khống chế là Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Qui-hoá, Lôi-hoả, Đặc-ma thống nhất với châu Bảo-lạc bên Đại-Việt, trao cho Lưu Nguyên thống lĩnh.
- Thứ sáu. Đối với triều Tống, ta hoàn toàn mềm dẻo, tiến cống, dùng hậu lễ, lời khiêm tốn, để giữ hoà hiếu. Còn đối với bọn biên thần hung hăng. Một mặt ta thẳng tay dùng sức mạnh khiến chúng ghê sợ. Mỗi khi một viên quan mới tới, cần điều tra tính tình y ra sao? Quê quán ở đâu? Nếu trị chúng tại biên giới khó khăn, ta sai người về kinh phao vu chúng ăn hối lộ, để các quan trong triều dèm pha chúng.
Tôn Đản dưa tay xin nói. Vương hỏi:
- Em có ý kiến gì?
- Đối với bọn kinh tởm này, chúng ta có nên cho người vào thành ám sát vợ con chúng hay không? Có nên cho người về quê chúng đào mồ cuốc mả cùng giết cha mẹ chúng hay không?
Khai-Quốc vương cúi đầu suy nghĩ. Chợt vương ngửng đầu dậy, tỏ vẻ cương quyết:
- Ta lấy võ đạo thời Lĩnh-Nam: Cái thân còn không tiếc. Tiếc chi cái tiếng vô danh hão. Nếu cần, ta làm bất cứ việc gì, miễn giữ được nước.
Cử toạ vỗ tay rung động hội trường.
Vương tiếp:
- Thứ bẩy. Mọi việc, đều đo triều đình Bắc-biên tự quyết. Trừ những gì quá sức, mới phải tấu về Thăng-long.
Vua Bà Bắc-biên đứng lên nói:
- Các Khê-động của ta nằm suốt một giải phía Tây-Nam Quảng-Tây lộ đều bị Tống chiêu dụ, đe dọa mà theo họ. Trong thời gian qua, chúng ta đã mất 57 khê động. Con dun đạp mãi cái đầu phải quằn. Ta không thể chịu được nữa. Với bẩy điểm Khai-Quốc vương ban ra, tôi quyết định như thế này.
Mọi người hồi hộp, im lặng theo dõi.
- Tư-mã Bắc-biên Thân Thừa-Phú điều Tiền-đạo yểm trợ Động-chủ châu-mục Hoàng Lư. Châu mục Hoàng Lư cho mời tất cả thủ lĩnh khê động thuộc Tống, Việt tới họp, ban bố chính sách, yêu cầu động Hiệp-phố, Như-tích, Để-trạo về với Đại-Việt. Ai không tuân, ta cho quân tiến vào, truất phế động chủ xuống, lập người khác lên thay.
Hoàng Lư hỏi:
- Nếu quân Tống đóng gần đó can thiệp thì sao?
- Động chủ khỏi lo. Việc xâm lấn mình do bọn hiếu chiến trong triều Tống. Đứng đầu là Lưu hậu với Tào Lợi-Dụng, Trương Sĩ-Tổn, Lý Điệt, Vương Tùy, Lý Ty, Vương Đức-Dụng. Vì vậy bất cứ việc gì biên quan cũng phải tấu về cho An-vũ sứ Quảng-Tây. An-vũ sứ Quảng-Tây chuyển về triều. Triều đình nghị sự xong rồi ban lệnh. Tấu chương đi, lệnh trở về ít nhất bốn tháng. Trong bốn tháng đó, biên quan Tống muốn dùng vũ lực thì ta đã tổ chức xong nội trị các khê động mới chiếm lại. Họ muốn can thiệp phải dùng trọng binh. Với chức An-vũ sứ, họ không đủ khả năng. Vả nếu biên thần Tống làm liều xua quân can thiệp, thì cánh Tiền-đạo của ta sẽ phản ứng.
Bà ngừng lại suy nghĩ, rồi tiếp:
- Thiệu-Cực điều Tả-đạo đến đóng tại phía Nam châu Thiên-long, Cổ-vạn, Tư-minh, yểm trợ cho châu mục Vi Thủ-Đan. Châu-mục Vi Thủ-Đan cũng làm tương tự như châu mục Hoàng Lư.
Bà chỉ lên bản đồ:
- Khu Thái-bình, tôi nghĩ lão sư Nùng Dân-Phú dư sức ép châu trưởng trở về với Đại-Việt. Chỉ có khu Vình-bình, Tây-bình, Tư-lăng hơi khó. Tôi đã sai Thân Bảo-Hòa cùng Trần Thông-Mai tiến quân vào từ hôm qua. Mọi việc tốt đẹp.
Nùng Dân-Phú thắc mắc:
- Tôi mới nhận được tin lạ, rất quan trọng, xin tâu cùng vua Bà.
- Xin lão sư cứ nói.
- Từ hơn tháng nay một số biên quan Tống gặp không biết bao nhiêu tai bay vạ gió. Kẻ tự nhiên trúng độc lăn ra chết, người thì bị ám sát. Cũng có kẻ con bị giết, vợ bị bắt cóc đi. Lại có kẻ nhà cửa ở quê quán bị cháy rụi. Mà những viên quan đó đa số thuộc phe Lưu hậu, chủ chiếm Đại-Việt. Như viên tướng chỉ huy trại Thái-bình của Tống không hiểu tại sao bị gian nhân ám sát ngay tại trại quân. Y bị chưởng lực cực kỳ bá đạo đánh, cơ thể còn nguyên, trong khi tạng phủ nát nhừ. Tướng chỉ huy trại Hợp-phố cũng bị ám sát bằng chưởng lực, xương bị nát ra như bột. Hai tướng này đều thuộc phe chủ xâm lăng ta. Quân sĩ trong hai đồn đều cho rằng gian nhân do An-vũ sứ Quảng-Tây sai giết, để cử người thân thay thế.
Khai-Quốc vương gật đầu:
- Họ giết lẫn nhau như vậy càng hay cho ta.
Dưới chỗ ngồi, Lê Văn hỏi sẽ Tự-Mai:
- Anh nghĩ sao?
- Chú khờ qúa. Chưởng lực bá đạo như vậy chỉ bà Bảo-Hòa mới có. Tuy hôm nay anh cả mới quyết định về chính sách Bắc-cương, mà thực ra anh đã cho bà Bảo-Hòa với ông Thông-Mai thi hành trước rồi. Tôi sợ giờ này tất cả các biên thần chủ xâm lăng Đại-Việt không bị bị giết chết, thì vợ con cũng bất toàn.
Lê Văn lắc đầu:
- Hơi ác.
- Đối với bọn cướp nước, ác gì mình cũng phải làm.
Buổi họp chấm dứt, theo thông lệ vua Bà Bắc-biên hỏi cử tọa:
- Ai có cao kiến gì khác không?
Tự-Mai đứng dậy xin phát biểu.
Các thủ lĩnh Bắc-biên đến họp, họ hơi ngạc nhiên khi thấy năm đứa trẻ từ Thăng-long lên cũng được ngồi tham dự. Hỏi ra được biết chúng là em kết nghĩa của Khai-Quốc vương với Vương-phi. Họ cho rằng nhờ thế Vương, đám trẻ được nâng lên. Nào ngờ trong khi họp, chúng kiến giải sự việc minh mẫn, phát trình bày có căn bản vững chắc, lý luận mạch lạc. Bây giờ thấy Tự-Mai phát biểu ý kiến, họ lắng tai nghe.
Vua Bà Bắc-biên hỏi:
- Trần công tử có cao kiến gì?
- Hồi nãy Khai-Quốc vương đang ban chỉ dụ, cháu không dám xen vào. Bây giờ cháu xin đưa ra một số chi tiết về chính sách của ta đối với Tống. Ý kiến này chỉ phụ với ý kiến của Vương mà thôi.
Đa số thủ lĩnh Bắc-biên đều đã dự đại hội đại hội Thăng-long, họ đã thấy võ công Tự-Mai rất cao cường, lại can đảm, mưu trí khác thường. Vì vậy họ đều lắng tai nghe.
Tự-Mai nói thực lớn:
- Nhiều người trong chúng ta thường coi người Hoa như những kẻ thù truyền kiếp. Nhất là gần đây, Hồng-thiết giáo nêu khẩu hiệu bài Hoa. Hễ đi đến đâu có người Hoa, lập tức thẳng tay chém giết. Bọn du thủ du thực nhân đó đốt nhà cướp của Hoa-kiều thực tàn nhẫn vô cùng. Họ không cần biết đến người Hoa phải tha phương cầu thực, sang kiều ngụ ở bên ta chẳng qua vì phải trốn tránh bọn vua quan tàn ác. Họ chăm chỉ làm việc, nên ít lâu sau trở thành giầu có. Hồng-thiết giáo thù hận họ về việc này. Ngu! Thực ngu hết chỗ nói. Họ làm việc, xây nhà, phá rừng tuy tư hữu của họ. Nhưng tài sản ấy có phải của Tống đâu? Chung qui vẫn của Việt mình. Rút cục, họ chỉ ăn ngày có hai bữa cơm. Giết họ thực ngu!
Hầu như cả hội trường đều phát ra tiếng ồ, rồi tiếng huýt sáo phản đối:
- Giết. Phải giết hết bọn chệt, bọn Tàu-ô, bọn Xạ-phang, bọn ghẻ Tầu. Giết không tha một đứa.
Vua Bà Bắc-biên xua tay ra hiệu cho mọi người im lặng:
- Hãy để Trần công tử nói hết đã.
Tự-Mai vốn giống bố về lòng can đảm, tính ngang tàng. Nó nói lớn hơn:
- Tôi ở miền xuôi, thường nghe đồn rằng, mỗi khi quân Tống vượt biên sang cướp phá. Các Động-chủ, Châu-trưởng lại xua quân sang giết người, đốt nhà, cướp của để trả đũa. Người nào càng làm mạnh, càng chém giết trả thù nhiều, càng được các động chủ, châu trưởng khác kính phục. Có đúng thế không?
- Đúng thế!
- Như vậy là lấy bạo tàn thay bạo tàn, trái ngược với chủ đạo tộc Việt.
Nùng Dân-Phú cười nhạt:
- Trái đạo là thế nào! Từ trước đến giờ, bọn biên trấn chúng tôi lấy đường lối ấy làm phương châm bảo quốc. Công tử cho rằng sai ư? Chúng tôi xin rửa tai nghe công tử dậy bảo.
Vi Đại-An cũng nói:
- Như vậy ý Trần công tử muốn chúng tôi cứ ngồi nhìn quân Tống sang cướp của, giết người, hiếp đàn bà con gái, rồi đưa cổ cho chúng chặt đầu bêu lên cây, phơi gan ruột ra cho quạ mổ, cho thú ăn thịt chắc?
Mọi người vỗ tay vang dội.
Tự-Mai thấy người người phản đối. Nó càng thêm can đảm, tự nhủ thầm:
- Hôm nay ta mà không giảng giải rõ chủ đạo tộc Việt cho những người này, e rằng Đại-Việt sau hơn trăm năm nữa, không còn.
Nó dơ tay vẫy mọi người:
- Xin các vị bớt nóng nảy.
Mọi người im lặng trở lại.
Tự-Mai vận nội lực nói thực lớn:
- Trước khi nói về chủ đạo tộc Việt. Tôi xin bàn về việc quân Tống sang cướp phá đã. Tôi đã ăn ngủ tại Khu-mật viện gần năm nay. Bao nhiêu tin tức về triều Tống, tin tức Nam-biên đại thần trấn vùng Lưỡng-Quảng, cùng quân sĩ của họ, tôi theo dõi rất kỹ. Tôi cũng nghiên cứu kỹ tấu chương của họ gửi về triều, cùng chỉ dụ của triều đình ban xuống cho biên thần. Tôi lại cũng đọc chỉ dụ bản triều gửi cho quý vị, cũng như tấu chương của quý vị gửi về. Tôi tìm ra được một khiếm khuyết lớn của chúng ta trong chính sách Bắc-biên.
Thanh-Mai thấy em lý luận vững chắc,
nhưng nàng có cảm tưởng nó sẽ bác bỏ bẩy chỉ dụ của chồng. Nàng ngồi nghe mà trong lòng lo lắng.
Tự-Mai tiếp:
- Trước kia tôi không rõ. Tôi chỉ kể từ khi Hoàng-thượng lên ngôi. Tính đến nay trải mười tám năm. Trong mười tám năm có sáu mươi sáu lần quân Tống vào cướp phá. Trong sáu mươi sáu lần đó, ba mươi hai lần do các Trại-chủ, Động-chủ Tống có hiềm khích với trại chủ, châu trưởng bên Việt. Nguyên do, đôi khi chỉ vì con chó chạy lạc, con bò ăn lúa của nhau mà ra. Thảng hoặc, con em chơi với nhau rồi cãi cọ, đưa đến đánh nhau. Phụ huynh hai bên không biết răn đe con, đem quân đánh giết loạn lên. Đây thuộc lỗi hai bên.
Các Động-chủ, Châu-trưởng thấy điều Tự-Mai nói không sai chút nào. Họ nhìn nhau, có vẻ ngượng ngập. Tự-Mai biết đã giảm được khí thế hùng hổ của họ. Nó tiếp:
- Trong hai mươi bốn lần còn lại, có mười bẩy lần do võ quan Tống dung dưỡng quân sĩ ăn cướp. Biên thần đã trách phạt người chỉ huy. Nhưng họ tấu về triều rằng quân ta sang cướp, binh Tống phải đánh đuổi. Đây hoàn toàn lỗi về phía Tống. Chỉ có bẩy lần, biên thần Tống đa sự, đem quân vào đất Việt thu thuế, bị chúng ta đánh đuổi. Bẩy lần đó mới đúng lỗi về Tống.
Nó thở dài:
- Nếu các vị khéo léo đôi chút, tôi nghĩ giờ này Tống không dám có ảo vọng chiếm Đại-Việt.
Vi Thủ-An hỏi:
- Công tử bảo khéo léo. Thế nào là khéo léo?
- Các vị nên chia Trung-nguyên làm ba loại người. Một là triều đình. Hai là Biên-thần. Ba là dân chúng. Từ trước đến giờ, chủ trương xâm chiếm Đại-Việt ta, hoàn toàn do triều đình Trung-nguyên, hoặc biên thần, chứ dân Hoa, không bao giờ có ý đó. Vì họ đâu ngu dại gì mà lăn mình vào chỗ chết, hoặc bỏ nhà theo quân làm phu khuân vác? Từ Tần Thủy-Hoàng đánh Âu-lạc do tham vọng thống nhất Thiên-hạ, đến Quang-Vũ diệt Lĩnh-Nam vì sợ Lĩnh-Nam mạnh, quay lên chiếm Trung-nguyên. Tống đánh ta, do đám quan lại hiếu sự mà ra. Từ sau trận Chi-lăng, tất cả những rắc rối ở Bắc-biên, đều do biên thần Tống hiếu sự. Có đúng thế không?
Phò mã Thân Thừa-Quý rất cảm tình với phái Đông-a, với Tự-Mai. Ông hỏi:
- Xin công tử cho biết, bằng chủ đạo tộc Việt, ta phải ứng phó ra sao?
- Thưa phò mã, Khai-Quốc vương đã ban chỉ dụ rồi. Đối với triều Tống, ta cần mạnh. Mạnh để cho cái ông con trời trong đầu vua quan Tống phải kinh sợ. Ta lại dùng nhu, tuế cống đầy đủ, lời lẽ nhũn nhặn. Như vậy có nghĩa: Ông với tôi là anh em. Ông để tôi yên, ông có bạn tốt ở phương Nam. Ông muốn gây sự, ông sẽ có kẻ thù đủ sức mạnh đối phó với ông.
Nó nói lớn hơn:
- Đối với biên thần Tống, như Khai-Quốc vương ban chỉ dụ. Ta chia họ làm hai. Những người chịu để ta yên, ta hậu lễ, lời hòa, giao hảo với họ. Còn đối với bọn hiếu sự gây truyện, ta thẳng tay. Họ cho quân lấn đất, cướp phá, ta phản công thực mạnh. Chúng đánh một chiêu, ta đánh mười chiêu. Chúng bắn một mũi tên, ta bắn trăm mũi. Ta cho cao thủ nhập thành giết họ, giết cả vợ con, tôi tớ, chó mèo, gà vịt. Ta cho người về quê, giết bố mẹ họ hàng, đào mồ cuốc mả lên. Như vậy mỗi khi một biên quan Tống tới trấn nhậm, họ thấy gương trước mà kinh sợ. Nhưng...
Nó im lặng để mọi người chờ đợi, rồi tiếp:
- Tuyệt đối không đụng chạm đến dân chúng. Dân chúng vô tội. Vả dân Nam-biên Tống đều thuộc tộc Việt cả. Ta không thể tàn sát họ. Tàn sát họ trái với chủ đạo tộc Việt.
Vi Thủ-An hỏi:
- Đối với những vụ các khê động thuộc Tống vào cướp phá, chúng tôi phải đối phó ra sao?
Tự-Mai chỉ vào bản đồ biên cương Tống-Việt:
- Bỏ vấn đề Bắc-biên xưa của ta tới hồ Động-đình. Chỉ kể biên giới thuộc Giao-chỉ cũ thôi. Biên giới Giao-chỉ tới Quế-lâm, kể từ sông Tả-giang trở xuống. Sau vua Ngô dựng lại tự chủ, ngài chỉ giữ được vùng núi rừng, khê động phía Bắc. Còn vùng đồng bằng từ các khê động tới Tả-giang trống trải, không giữ được. Thế nhưng từ đó tới giờ, Tống cho người đến các khê động đe dọa, dụ dỗ. Ngày nay phân nửa khê động theo Tống. Họ theo Tống là bất đắc dĩ, chứ bản tâm họ nào muốn bỏ tộc Việt, theo tộc Hán? Các vị có đồng ý với tôi rằng dân chúng từ hồ Động-đình tới Bắc-biên này, tuy thuộc Tống. Có nơi nói tiếng Hán, có nơi nói tiếng Việt. Nhưng họ đều là người Việt không?
- Đúng thế!
- Quả vậy!
- Họ là người Việt. Thế nhưng mỗi khi có va chạm với quan quân Tống, các vị xua quân qua cướp phá, chém giết họ. Vậy có phải các vị chém giết đồng bào, chém giết người Việt, trái hẳn chủ đạo tộc Việt không? Các vị chém giết họ. Họ trút oán lên đầu các vị. Họ càng phải trung thành với quan quân Tống. Họ xích lại gần Tống để được bảo vệ. Trong khi đó quan quân Tống khoan khoái trong lòng: Bọn Việt chúng bay cứ chém giết nhau đi, thù hận nhau đi. Ta ngồi cao ôm gối sung sướng.
Hội trường im lặng, không một tiếng động. Tự-Mai tiếp:
- Đối với các cuộc đụng chạm giữa các khê động. Tôi xin các vị nhịn nhục, dùng ôn hòa giải quyết với nhau. Chứ các vị cứ chém giết nhau, phân ra khê động Tống, khê động Việt. Thực sự đều là người Việt, còn gì đau lòng hơn? Cứ đà này, dần dà nay mất một khê động, mai mất một khê động. Ít năm sau, 207 khê động thuộc Tống cả. Bấy giờ họ chỉ cần một đạo quân, có thể vào Thăng-long. Họa vong quốc lại đến, lần này không thể phục hồi được nữa.
Vua Bà Bắc-biên hướng Tự-Mai:
- Đa tạ Trần công tử đã dùng chủ đạo tộc Việt giảng giải, chỉ cho rõ đường lối giải quyết xung đột với Tống. Kể từ nay, tôi xin các vị lấy lời Trần công tử làm khuôn mẫu trong việc biên phòng.
Cho đến nay, trải hơn nghìn năm, người sau đọc sử Tống, Lý đều không hiểu nổi chính sách Bắc-biên của Đại-Việt. Vì về phương diện ngoại giao, triều Lý tiến cống rất hậu. Sứ thần sang Tống gồm toàn người văn mô vũ lược, lời lẽ mềm dẻo, lễ cống hậu hĩnh. Trong khi các quan biên trấn Đại-Việt tỏ ra cực kỳ cương quyết. Hơi có đụng chạm, quân Việt phản ứng khốc liệt.
Chỉ độc giả Anh-hùng Bắc-cương biết rõ sách lược đó do ai thiết lập. Thiết lập trong trường hợp nào.
Hôm đó Vương dự tiệc đãi động chủ 207 khê động.
Tối trở về cung vua Bà Bắc-biên. Thanh-Mai hỏi Thiệu-Cực:
- Cháu cầm lực lượng Tế-tác Bắc-biên. Cháu cho mợ biết rõ hơn về việc tuyển người thống lĩnh thay thế Lưu Nguyên cùng Hoàng Sùng-Anh.
Thiệu-Cực đưa mắt hỏi mẹ. Công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hoà nói:
- Mợ có ý định gì về việc này chăng?
- Em nghĩ, hai đứa trẻ Thuận-Tông, Thiện-Lãm, chị truyền lệnh đưa về Thăng-Long nuôi cho ăn học. Phí tổn do chị đài thọ. Chúng nghiễm nhiên trở thành con chị. Là con chị, chúng có toàn quyền dự cuộc tranh tài, tuyển người thống lĩnh thay thế Lưu Nguyên cùng Hoàng Sùng-Anh.
Vua Bà Bắc-biên đưa mắt hỏi Thuận-Tông, Thiện-Lãm:
- Các con học võ đến đâu rồi? Mạ mạ nghe Lãm được đạo sư Nùng-Sơn tử thu làm đồ đệ. Thuận-Tông được Thái-cô Tịnh-Huyền dạy dỗ. Lâu nay mạ mạ không có thời giờ gần các con để hỏi cho rõ.
Hà Thiện-Lãm thấy mẹ nuôi cực kỳ oai phong, nhưng bà lại ôn nhu với nó còn hơn mẹ đẻ. Nó cảm động lắm:
- Sư phụ dạy con căn bản nội công Tản-viên, cùng tất cả quyền cước. Sau này chị Bảo-Hoà dạy con Phục-ngưu thần chưởng. Gần đây con được anh Tự-Mai dạy con quyền pháp Đông-a cùng nội công Đông-a.
Thuận-Tông đáp:
- Con được sư phụ dạy võ công Mê-linh. Người dạy cả tiễn thuật phái Hoa-lư xưa nữa. Gần đây anh Đản dạy con võ công Cửu-chân. Chị Mỹ-Linh dạy kiếm thuật.
Phò mã Thân Thừa-Quý gật đầu:
- Hay lắm. Các con áp dụng đúng cổ nhân dạy Học thầy không tầy học bạn. Ở Bắc-biên này, thiếu niên ngang tuổi với các con đều luyện võ. Võ công của họ có hai loại. Một là của phái Tây-vu. Hai là của Trung-quốc. Thế này, nếu đối thủ xử dụng võ công Trung-quốc, để cho Thuận-Tông xuất hiện. Vì võ công Tông thuộc phái Mê-linh, khắc chế võ công Trung-quốc. Còn họ xử dụng võ công Tây-vu, để Thiện-Lãm xuất thủ. Vì võ công Tản-viên ưu thắng nhất trong các võ công Đại-Việt. Ngày mai, hết hạn ghi danh tranh tài. Vậy Thiệu-Cực dẫn hai em đi ghi danh ngay mới kịp.
Vua Bà Bắc-biên hỏi Tự-Mai:
- Trần công tử. Hôm đại hội Thăng-long, tôi được chứng kiến võ công của công tử không phải tầm thường. Vậy công tử thử giảo nghiệm võ công Thiện-Lãm, Thuận-Tông xem công lực chúng đến đâu rồi.
Bà nói với Thanh-Mai:
- Trong chúng ta đây, võ công em cao nhất. Phụ thân em nổi tiếng bác học, võ học Đại-Việt em hiểu hết. Vậy em điều khiển cuộc khảo nghiệm này dùm chị.
Thanh-Mai vâng dạ lĩnh mệnh.
Bà nói với Tự-Mai:
- Trần công tử. Công tử khảo nghiệm Thiện-Lãm trước cho.
Từ lúc đến Bắc-biên, Tự-Mai phải ngồi cấm khẩu. Vì khi nói, nó không biết xưng hô với vua Bà Bắc-biên ra sao. So với Thiệu-Thái, Bảo-Hoà, nó thuộc hàng con cháu. So với Thanh-Mai, nó thuộc vai em. Bây giờ bị vua Bà Bắc-biên hỏi, nó luống cuống không biết xưng hô thế nào?
Thanh-Mai hiểu em mình là con két. Bất cứ hình phạt nào nó cũng không sợ. Nó chỉ ngán bị phạt ngồi tĩnh tâm. Khi tới Bắc-biên, thấy em ngồi im, nàng đã đoán ra cái khó khăn của nó trong cách xưng hô. Nàng nghĩ thần:
- Càng tốt. Như vậy nó khỏi xạo, nhức đầu.
Bây giờ thấy em luống cuống, nàng gỡ rối cho nó:
- Tự phải coi mình ngang vai với anh Thiệu-Thái. Chứ không được trèo cao!
Được chị giải thoát, Tự-Mai khoan khoái. Nó vẫy Thuận-Tông, Thiện-Lãm:
- Nào bây giờ Lãm đấu với anh trước.
Tự-Mai, Thiện-Lãm hướng vào cử toạ hành lễ rồi đứng thủ thế.
Thanh-Mai hô:
- Xuất thủ!
Thiện-Lãm lùi một bước, nó xuất chiêu Ác ngưu nan độ tấn công. Tự-Mai chuyển thân dùng Đông-a chưởng pháp đỡ. Bộp một tiếng. Thiện-Lãm bật lui ba bước. Khí huyết đảo lộn. Nó biết Tự-Mai mới xử dụng có ba thành công lực. Bằng không nó đã bị bật tung lên cao rồi. Tự-Mai tấn công liền ba chưởng.
Đến đó, có thân binh hành lễ với vua Bà Bắc-biên:
- Khải tấu vua Bà. Có một vị ni sư pháp danh Tịnh-Huyền xin cầu kiến.
Từ vua Bà Bắc-biên, Thân phò-mã cho tới Khai-Quốc vương, đều thất kinh. Thanh-Mai hô lên:
- Ngừng tay!.
Rồi nàng vẫy chúng theo vua Bà ra tiếp cô mẫu Tịnh-Huyền. Tới cổng thành, vua Bà hô lớn:
- Thần nhi xin tham kiến cô mẫu.
Sư thái Tịnh-Huyền vẫy tay không cho mọi người hành đại lễ. Bà tiến lên nắm tay vua Bà Bắc-biên, Thân phò-mã rồi hướng Khai-Quốc vương:
- Ta biết các con đang hội họp, nên dẫn Kim-Thành, Trường-Ninh ngao du cho rộng kiến thức.
Phía sau sư thái, Quận-chúa Kim-Thành, Trường-Ninh tiến lên hành lễ với vua Bà Bắc-biên, Thân phò-mã, Khai-Quốc vương, cùng Vương-phi Thanh-Mai.
Tịnh-Huyền vuốt tóc phò mã Thân Thừa-Quý như mẹ vuốt tóc con, dù ông tuổi đã bốn mươi:
- Song thân con đâu? Cô muốn gặp.
Thân phò-mã kính cẩn:
- Hôm trước đây, có thư của quyền chưởng môn phái Tản-viên báo cho biết: Lực lượng phái Hoa-sơn do Hoa-sơn tứ lão cầm đầu, sẽ viếng thăm tổng đàn phái Tản-viên, cùng lễ thánh Sơn-Tinh. Sau đó tới đây lễ Hồ tiên cô cùng chư thánh Tây-vu. Vì vậy song thân con lên tận biên giới đón cho phải đạo võ lâm với nhau.
Tịnh-Huyền hỏi lại:
- Từ trước đến giờ, võ lâm Trung-quốc có tới hành hương như vậy bao giờ chưa?
- Thưa cô-mẫu, rất thường. Năm trước phái Nga-mi, rồi phái Không-động. Ngược lại võ lâm Đại-Việt cũng thường hành hương tổng đàn các võ phái Trung-nguyên.
Thanh-Mai thấy quầng mắt Kim-Thành, Trường-Ninh hơi thâm. Biết chúng đang lo nghĩ về việc vương phi Khai-Thiên mất tích. Nàng tiến lên nắm tay hai cháu:
- Hai cháu đừng lo. Vương mẫu hai cháu hiện rất an toàn. Với võ công Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đi bên cạnh bà, không dễ gì ai hại nổi Vương-mẫu đâu.
Thân phò-mã trình bầy với sư thái Tịnh-Huyền về mọi việc đang diễn ra.
Bà mỉm cười:
- Được đấy. Nào Tự-Mai tiếp tục khảo nghiệm võ công Thiện-Lãm, Thuận-Tông.
Tự-Mai lại phát chiêu tấn công Hà Thiện-Lãm. Thiện-Lãm ung dung trả đòn. Đấu được trên năm mươi hiệp, Thanh-Mai hô:
- Ngừng tay!
Hai người lui lại hành lễ, rồi về chỗ ngồi. Thanh-Mai đưa mắt nhìn vua Bà:
- Chị thấy thế nào?
- Võ công Thiện-Lãm tiến mau thực. Hiện khắp vùng này khó kiếm ra đối thủ của chúng. Có điều khê động của mình vốn hỗn tạp vừa Hoa, vừa Việt. Chị sợ biên thần nhà Tống sẽ sai người của họ len lỏi vào tranh dành. Để hỏi Thiệu-Cực mới rõ được.
Thân Thiệu-Cực đứng hầu phía sau. Chàng cung kính hành lễ, rồi đáp:
- Thưa mợ, tin tế tác của mình ghi nhận, Tống cho sáu thiếu niên trà trộn vào tranh tài.
Khai-Quốc vương hỏi:
- Sáu người đó gốc tích ra sao?
-- Thưa cậu, hai người xuất thân phái Thiếu-Lâm tên Đào Bật, Quách Quỳ. Tuổi chúng khoảng mười sáu, mười bẩy. Võ công chúng thuộc loại hiếm có. Chúng do Khu-mật viện sai xuống.
Nghe đến tên Quách Quỳ, bọn Tự-Mai đưa mắt nhìn nhau, cùng gật đầu.
- Hai người kế tiếp tên Khúc Chẩn, Triệu Tiết, do biên thần Vương Duy-Chính đưa ra. Chúng thuộc phái Hoa-sơn. Võ công chúng tương đương với bọn Quách Quỳ. Hai người nữa tên Yên Đạt, Tu Kỷ, chúng thuộc phái Võ-đang. Hai tên này do Lưu-hậu sai xuống.
Khai-Quốc vương hỏi vua Bà Bắc-biên:
- Chị nghĩ sao?
- Theo chị biết ba toán của Lưu hậu, biên thần cùng Khu-mật viện không biết nhau. Vì vậy ta phải tính kế sao cho tụi chúng chém giết lẫn nhau. Khi chúng mệt mỏi, cho người bên mình xuất hiện, mới hy vọng thắng thế. Thôi! Ta khảo nghiệm võ công Thuận-Tông đã.
Thanh-Mai bảo Thuận-Tông:
- Đến lượt em. Em xuất chiêu đi.
Lê Thuận-Tông hành lễ rồi đứng đối diện với Tự-Mai. Thanh-Mai hô:
- Xuất chiêu!
Thuận-Tông phát chiêu Loa-thành nguyệt ảo trong Cửu-chân chưởng pháp tấn công trước. Tự-Mai nhảy lui tránh. Nó trả bằng một chiêu võ công Thiếu-Lâm. Nó đánh cầm chừng, mục đích cho sư đệ hiển lộ hết bản lĩnh. Được trên trăm chiêu. Thanh-Mai hô:
- Ngừng tay!
Hai người lùi lại, hành lễ rồi về chỗ.
Thanh-Mai hỏi vua Bà:
- Chị xem bản lĩnh hai đứa như vậy có đủ không?
- Hiệm trên vùng Bắc-biên, các thiếu niên ngang tuổi với chúng, không ai vượt nổi chúng. Tuy nhiên ngoài vòm trời này, còn vòm trời khác. Khó có thể đoán nổi.
Khai-Quốc vương gọi Thiệu-Cực, Thanh-Trúc lại gần, ban chỉ dụ:
- Việc phái Hoa-sơn hành hương tổng đàn phái Tây-vu, Tản-viên. Ý cháu thế nào?
Thiệu-Cực nghe cậu hỏi, mắt chàng sáng lên:
- Ông nội với mạ mạ cho rằng lẽ thường. Còn con. Con cầm đầu Khu-mật viên Bắc-biên con nghĩ khác. Phái Hoa-sơn đã chuẩn bị cho hai thiếu niên tranh chức động trưởng của ta. Như vậy họ đương nhiên đối đầu với Đại-Việt. Việc hành hương này, chỉ với mục đích dọ thám tình hình mà thôi.
- Đúng thế. Cháu mượn cớ dẫn năm ông mãnh cùng Kim-Thành, Trường-Ninh vãng cảnh, rồi thăm thú tình hình Tản-lĩnh xem sao. Trước khi đến đây, cậu sai chim ưng đem thư lên Tản-lĩnh triệu Đào Nhị, Tam-Bách đến hội, mà giờ này họ chưa tới. Cậu nghĩ núi Tản có sự.
Thiệu-Cực vâng lệnh Khai-Quốc vương, chàng gọi một số thuộc hạ dặn dò, rồi giả bộ rủ đám trẻ dạo chơi.
Sáng hôm sau. Trong đám trẻ, Thiệu-Cực, Thanh-Trúc lớn tuổi hơn hết. Hai người dẫn năm ông mãnh Đản, Mai, Lãm, Tông, Văn cùng Kim-Thành, Trường-Ninh dạo chơi khắp suối rừng vùng Lạng-châu.
Thiện-Lãm, Thuận-Tông trước đây đã được Mỹ-Linh cho ăn cỗ Trung-thu với Kim-Thành, Trường-Ninh. Tuy cả bốn tuổi chưa ai quá mười bẩy, nhưng trong lòng họ đã sớm nảy ra mối nhu tình nhẹ nhàng. Thế rồi từ đấy đến giờ, cả bốn không có dịp gặp nhau. Bây giờ họ được tự do truyện trò, hỏi còn gì hạnh phúc hơn?
Tôn Đản, Tự-Mai, có lần kể về mối tình chớm nở giữa Thiện-Lãm với Trường-Ninh; Thuận-Tông với Kim-Thành cho Thiệu-Cực, Thanh-Trúc nghe. Vì vậy Thiệu-Cực chia cho Thuận-Tông, Kim-Thành đi chung một voi. Thiện-Lãm, Trường-Ninh đi chung một voi. Bẩy người đi trên bốn voi.
Thiện-Lãm, Thuận-Tông gì mà không hiểu hảo ý của Thiệu-Cực. Cả hai nguyện thầm trong lòng:
- Hôm trước trong lòng chị Mỹ-Linh nở ra bông sen tươi hồng, ban cho mình ngồi ăn cỗ với Kim-Thành, Trường-Ninh. Bây giờ tới anh Thiệu-Cực. Mình đã niệm Nam mô Mỹ-Linh bồ tát. Bọn mình là những đứa trẻ rắn mặt thôn dã. Chỉ vì nhờ phụ huynh dạy kỹ lưỡng về chủ đạo tộc Việt, rồi gặp kỳ duyên, cùng nhau lo quốc sự. Bây giờ được gần công-chúa cao quý biết bao.
Bất giác nó đưa mắt nhìn Thiệu-Cực, trong lòng thấm niềm biết ơn sâu sa vô kể. Sáu mắt giao nhau. Thiệu-Cực như đọc được tâm tư hai đứa em. Chàng cười, nói bâng quơ:
- Anh hùng đâu quản xuất thân. Ông ngọai anh khởi đầu làm người chăn trâu cho chùa để kiếm miếng ăn.
Lãm, Tông kính cẩn:
- Đa tạ đại ca chỉ dạy.
Bàn về võ công, Thiệu-Cực không cao. Nhưng chàng là người tinh minh mẫn cán, thông minh tuyệt thế. Lại nữa, thay bố mẹ cầm đầu hệ thống tế tác Bắc-biên, nơi Tống, Việt xẩy ra cuộc tranh dành ảnh hưởng 207 khê động. Có thể nói, hôm nay khê động này còn trung thành với Việt. Hôm sau bừng mắt dậy, đã biến ra của Tống. Hoá cho nên chàng thành người cẩn thận, tinh tế vô cùng. Dù đi chơi, chàng cũng mang theo đàn chim ưng tuần tiễu trên trời, cùng cặp chó sói phòng gian nhân hãm hại.
Vừa đi trên voi, chàng vừa chỉ suối, đồi giảng giải cho các em nghe. Thỉnh thoảng chàng nhìn lên trời quan sát động tĩnh của đàn chim ưng bay tuần phòng. Chàng chỉ lên đỉnh ngọn núi cao chót vót:
- Các em hãy nhìn: Trước mặt chúng ta có ngọn núi Tản-viên. Núi này chưa từng ai lên nổi. Xung quanh núi Tản-viên có bốn ngọn núi chầu vào, đều mang tên núi vua Bà.
Trường-Ninh ngước mắt nhìn lên. Trước mặt nàng, một ngọn núi cao chót vót, hình dáng như cái bát úp. Đỉnh thóp lại, rồi phình ra, vượt lên cao, giống như trái bầu. Đỉnh núi, mây trắng che khuất, mờ mờ không nhìn rõ. Nàng hỏi Thiệu-Cực:
- Hồi còn bé, vương mẫu kể cho em nghe rằng: Đời vua Hùng thứ tám mươi tám, có công chúa Mỵ-Nương xinh đẹp vô cùng. Vua truyền võ lâm thiên hạ tới đấu võ tuyển phò mã. Cuối cùng có hai võ sư thắng khắp anh hùng. Một người làm nghề đốn củi. Một người làm nghề câu cá. Vua truyền hai người đấu với nhau. Đấu đến hơn nghìn hiệp, vẫn bất phân thắng bại. Vua sợ đấu nữa, ắt có một người chết, khiến đất nước mất một anh tài. Vua truyền ai mang lễ vật tới trước, vua gả công chúa cho.
Nghe truyện ngồ ngộ, Thuận-Tông hỏi:
- Lễ vua đòi gồm những gì?
- Một đôi voi trắng, một đôi cá sấu lớn. Mười con ngựa câu lông đỏ, mười con rùa to. Năm hũ rượu, phải là thứ rượu có tăm bốc lên.
- Vua cũng công bằng đấy chứ? Ngài đòi vừa thú rừng vừa hải sản, cho ông câu, ông tiều có dịp thi thố tài năng. Thế ai đem lễ tới trước?
- Ông tiều! Chỉ mấy ngày sau, ông tiều nộp đủ lễ số. Vua truyền gả Công-chúa cho. Ông tiều mang Công-chúa lên núi Tản-viên hưởng thanh phúc. Khi ông ngư kiếm đủ lễ vật đem tới, đã trễ mười ngày. Ông ngư nổi giận, đi thuyền dọc sông tới đây tìm ông tiều. Hai bên đại chiến hơn tháng. Ông tiều dẫn Công-chúa lên đỉnh núi ở. Từ đấy về sau, mỗi năm, mùa nước lớn, ông ngư tìm ông tiều trả hận. Vì vậy dân chúng đồn ông ngư dâng nước lên đánh ông tiều, làm dân chúng bị lụt.
Thuận-Tông hỏi tiếp:
- Thế ông ngư, ông tiều tên gì?
- Không ai biết. Vì ông ngư ở dưới sông, dân chúng đặt cho ông tên Thủy-Tinh. Ông tiều ở núi, được đặt tên Sơn-Tinh. Ông Thủy-Tinh ra sao, không ai rõ. Còn ông Sơn-Tinh thu đệ tử lập ra phái Tản-viên.
Lê Văn nhìn lên núi, nó chau mày lại hỏi Thiệu-Cực:
- Đỉnh núi thắt thế kia, bố ai lên cho được. Làm cách nào cụ Sơn-Tinh đưa Công-chúa tới đỉnh nổi? Không lẽ cụ biết bay?
Thiệu-Cực nháy mắt cười:
- Có nhiều đường lên theo hang bí mật. Hang xuyên trong lòng núi lên đỉnh. Xưa kia, chỉ chưởng môn phải Tản-Viên mới biết hết những hang, đường mà thôi. Sau núi bị Đỗ Xích-Thập mưu chiếm ngụ. Chưởng môn Đặng Đại-Khê chống trả biết bao lần. Từ khi mạ mạ về đây, ông trao múi cho mạ mạ. Mạ mạ phái đạo quân hơn trăm con hổ canh giữ, Xích-Thập mới bỏ ý định chiếm. Từ sau đại hội Thăng-long, Xích-Thập qui phục anh Thiệu-Thái. Mạ mạ truyền trả núi lại cho phái Tản-viên. Bảo-Hoà làm chưởng môn, nhưng vì quốc sự, trao cho Đào Nhị, Đào Tam-Bách trông coi.
Trường-Ninh đề nghị:
- Anh Thiệu-Cực à! Anh dẫn bọn em lên núi lễ thánh Tản-viên đi.
Trường-Ninh vốn dịu dàng, lời nói của nàng ngọt ngào nhu mì, ai nghe cũng phải động lòng. Thiệu-Cực gật đầu:
- Ừ, anh sẽ đưa các em lên lễ tổ sư phái Tản-viên. Nhất là Thiện-Lãm. Chú được đạo sư Nùng-Sơn tử thu làm đồ đệ, chú đã lên tổng đàn bái tổ lần nào chưa?
- Có, sư phụ dẫn em lên hai lần tất cả. Người nói, có nhiều đường lên lắm. Tất cả đều phải thông qua hang đá rất hiểm trở. Tản-viên là nơi chôn cất kho tàng Âu-Việt, vì vậy, những con đường này đều có cạm bẫy. Không được người trong phái dẫn lên, e bị đá đè chết.
Nó nhấn mạnh:
- Sư phụ nói: Người ngoài muốn lên lễ thánh Tản phải xin phép. Chị Bảo-Hòa đang cùng anh Thông-Mai bận quốc sự vắng nhà. Trên đỉnh do anh em họ Đào thay thế chưởng quản. Tuy anh là anh chị Bảo-Hòa, song em nghĩ, anh cũng nên viết thư sai chim ưng đem lên xin phép cho phải đạo.
Cả bọn ngửa mặt nhìn lên. Đỉnh núi ẩn hiện trong làn mây trắng. Thiệu-Cực viết mấy chữ vào tờ giấy, bỏ vào ống tre dưới chân chim ưng, rồi sai đi. Đôi chim ưng tung cánh biến vào đám mây trắng trên bầu trời xanh.
Chợt nhớ ra điều gì, Tự-Mai hỏi Lê Văn:
- Này chú mười. Hôm trước bố anh nói, dường như tháng này Đại-Việt ngũ long họp nhau trên Tản-lĩnh bàn việc đào kho tàng. Chú có nghe bác nói họp ngày nào không?
- Không! Từ sau đại hội Thăng-long, bố bảo việc đất nước bố trao cho anh cả, việc nhà giao cho anh Hoàng Giang. Còn em, em lớn rồi, bố không cần quản chế nữa. Bố dắt bà Huệ-Phương ngao du tứ phương, trị bệnh cho thiên hạ. Em đâu có gần mà nghe bố nói?
Thiệu-Cực nhớ ra điều gì, chàng hỏi Tự-Mai:
- À anh quên hỏi, cuộc thi võ của triều đình vừa rồi, những ai trúng cách. Họ được bổ vào chức vụ gì?
- Trước khi thi, bố em đề nghị rằng: Thi cử là gì? Là giúp cho nhân tài thôn dã, núi rừng có dịp xuất hiện, góp công bảo vệ đất nước. Vì vậy phàm đệ tử danh môn, tài đương nhiên có. Khi đất nước hữu sự, bổn phận phải cầm gươm, vì vậy không nên dự thi. Thành ra những người trúng tuyển, toàn khuôn mặt mới không à. Đa số họ thuộc Lạc-long giáo.
Thuận-Tông sướng quá reo:
- Ý kiến Trần sư bá thực tuyệt. Như bọn anh em mình, chả cần thi cử, cũng chẳng cần chức tước. Ấy vậy mà nước có sự, e bọn mình đứng lên trước.
Kim-Thành đưa mắt nhìn Thuận-Tông:
- Tông này, nước chưa có sự, mà chúng mình đã phải làm rồi. Đạo lý tộc Việt mình hay đấy
chứ.
- Thế võ công những người trúng cách có khá không?
Thiệu-Cực vỗ vai Lê Văn hỏi. Lê Văn xịu mặt xuống:
- Sau đại hội Lộc-hà, em với Tự-Mai phải theo linh cữu mẫu thân về quê, nên không được chứng kiến. Kim-Thành, Trường-Ninh chắc biết rõ hơn.
Thấy nét mặt Tự-Mai, Lê Văn buồn man mác, Trường-Ninh quên mất việc nam nữ thụ thụ bất tương thân. Nàng cầm tay hai người:
- Các anh buồn mà chi. Mỗi người trong chúng ta sinh ra vốn đã có cái nghiệp quả từ muôn vàn kiếp trước kết lại. Hai bác qua đời tuy thảm thiết. Thế nhưng còn hơn sống. Chúng mình sống chưa chắc đã sướng hơn người chết.
Thấy vẻ buồn chưa dứt hẳn trên mặt hai người. Nàng nói lảng:
- Để em thuật cho các anh nghe về cuộc tuyển võ.
Thanh-Trúc hiểu ý Trường-Ninh, nàng xen vào:
- Ừ, hôm ấy Kim-Thành, Trường-Ninh đứng hầu bên Hoàng-thượng, ắt biết hết chi tiết. Kim-Thành thuật đi.
Kim-Thành khoan thai kể:
- Kỳ này giám khảo không giống các kỳ trước. Theo như luật định, giám khảo có ba người. Một là do Quốc-sư đề cử. Hai là do Thái-úy tổng đốc binh mã đề cử. Ba là do môn phái đứng tổ chức đề cử, tức phái Mê-Linh. Năm nay chính ông nội xin cải tổ. Ông nội cho rằng cần có những võ lâm tộc Việt làm giáo khảo. Vì những vị đó mới hiểu dân tình, binh tình. Ông nội nhờ Đại-Việt ngũ long cử giám khảo.
Tự-Mai tán thành:
- Có ra ngoài mới biết dân tình. Thế Đại-Việt ngũ long cử ai?
- Các ngài họp, rồi mời Đoàn vương-gia nước Đại-lý làm chánh chủ khảo. Phó chủ khảo có ba vị. Chấm về nội lực, cụ Sử Anh được mời vào chức vụ này. Một vị chấm về chiêu số, Hoàng-thúc Rát Ta Na phái Tha-nôm được mời. Một vị hỏi về võ đạo, chủ đạo tộc Việt. Đến đây Đại-Việt ngũ long bất đồng ý kiến.
Thiện-Lãm kinh ngạc:
- Ủa, tôi nghe từ sau đại hội Lộc-hà, Ngũ-long nhất nhất thuận nhau lắm kia mà?
Trường-Ninh cười rất tươi, ánh mắt nàng như sương mờ đẹp vô cùng:
- Nguyên do, bốn vị đề cử một người. Hồng-Sơn đại phu lại không chống, cũng không thuận.
Thiệu-Cực hỏi:
- Lê sư bá có nêu lý do tại sao không?
Trường-Ninh mỉm cười rung đôi vai gầy:
- Vì người được đề cử là bà Lâm Huệ-Phương.
- À thì ra thế!
Tự-Mai đã quên đi chốc lát thảm cảnh mẹ chết, nó buột miệng: Tôi nghĩ võ đạo, chủ đạo tộc Việt của bà đến sư bá Hồng-Sơn với bố tôi cũng không theo kịp.
Trường-Ninh tiếp:
- Số tuyển sinh dự trù một trăm. Thí sinh trước do các đại môn phái đề cử. Ngoài ra dành hai mươi chỗ cho thí sinh tự do. Những thí sinh này phải dự cuộc sơ tuyển ở bộ binh. Sau bà Huệ-Phương tâu rằng: Lệ thí vốn ban bố trước đại hội Lộc-hà. Trong lệ cấm một số người không được dự vì phạm tội. Nay ông nội mới ban lệnh ân xá trong đại hội Lộc-hà, vì vậy cho ghi danh lại. Ai cũng được dự thi hết.
Nàng nhìn Lê Văn rồi tiếp:
- Bà còn nêu lý do: Trước, ông nội tuy làm vua, chỉ được thiên hạ quy phục chưa quá một nửa. Vì một nửa còn hướng về họ Lê, họ Đinh, về Hồng-thiết giáo. Nay tất cả đều một lòng. Vì vậy xin nâng số tuyển lên thành trăm rưởi. Ông nội đồng ý tăng lên ba trăm. Lê-Văn nghĩ sao?
- Còn sao nữa? Như vậy nhân tài thảo dã đều không bỏ phí cuộc đời với cỏ cây. Thuận-Thiên hoàng-đế thua bố tôi về võ công, về y học. Nhưng về việc trị dân, ngài bỏ xa bố tôi đã đành. Tôi e vua Trưng sống lại cũng phải khen ngợi.
Kim-Thành tiếp:
- Sau khi tuyển xong. Những người trúng cách được đưa đến lễ tạ Quốc-tổ, Quốc-mẫu, rồi đến điện Càn-nguyên bái yết ông nội. Ông nội ban mũ áo, vàng bạc, rồi ban yến. Sau đó họ phải đến lễ ở đền thờ vua Trưng, Bắc-bình vương. Cuối cùng họ được nghỉ về quê tế cáo tổ tiên, tạ ơn sư phụ, bố mẹ, trong một tháng. Lệnh binh-bộ ban ra, sau một tháng, họ phải tụ về điện Giảng-võ học phép hành binh, bố trận, cùng luật lệ, rồi mới tùy theo tài bổ dụng.
Lê Văn suýt xoa:
- Từ khi dựng nước đến giờ, nay mới có thể lệ thi cử hay như vậy. Xét cho cùng, sở dĩ Thuận-Thiên hoàng-đế thành công, chẳng qua ngài có đức, biết trọng ý kiến người hiền, nhất là biết lấy chủ đạo tộc Việt làm căn bản.
Thiện-Lãm hỏi:
- Chú mười à! Chú được sư bá dạy thực kỹ, chú nắm vững đạo lý dân tộc. Chú giảng cho bọn này nguyên lý mà chú khen Thuận-Thiên hoàng đế biết giữ chủ đạo tộc Việt đi.
Lê Văn sửa quần áo ngay ngắn lại rồi trịnh trọng nói:
- Bên Tống, lấy Nho làm chủ đạo. Vua với đại thần là tất cả. Vua ban chỉ, đại thần cúi đầu tuân theo. Đại thần tâu gì, vua không thích cứ thẳng tay gạt bỏ. Một vài đại thần triều Lý cũng chủ trương theo Tống. Thuận-Thiên hoàng-đế không thế, ngài lắng nghe mọi giới phát biểu ý kiến. Nào các thiền sư Tiêu-sơn. Nào võ lâm thiên hạ. Nào quan trấn ở biên cương. Cho chí đến một người phụ nữ trẻ như dưỡng mẫu tôi. Đúng như Thiên-địa kinh của tộc Việt chép: "...Làm vua không phải ngồi trên đầu trăm họ. Không phải để ban phúc giáng họa khắp dân. Khi ngồi vào ngôi vua, việc đầu tiên, lắng tai nghe người hiền. Rồi sao cho trăm họ yên vui hạnh phúc...".
Nó ngừng lại cho mọi người theo kịp, rồi tiếp:
- Sau khi trúng tuyển, các thí sinh phải đến lễ tiến trình ở đền thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Việc này có nghĩa: Từ nay các người không còn là dân dã nữa. Các người là của quốc dân, phải gánh vác trọng trách sơn hà. Về việc về quê bái yết sư phụ, tạ ơn tổ tiên, phụ mẫu, mục đích khuyến khích hương đảng thi nhau dạy dỗ con em, để được hưởng vinh hạnh.
Thiệu-Cực hỏi Kim-Thành:
- Anh có thấy một số người đỗ đạt gốc Bắc-biên vinh qui. Dân trong khê động nghe tin con em mình trúng cách. Họ góp tiền làm tiệc linh đình lắm. Có khê động hai bố con dự thi. Bố đậu thấp, con đậu cao mới vui. Thế trong cuộc thi có truyện vui buồn gì không?
- Nhiều lắm. Có ba tường hợp gái giả trai, sau khi trúng tuyển, bà Huệ-Phương mật tâu với ông. Ông không trị tội, mà bổ làm quan dạy ở Quốc-tử giám cùng cung nữ học tập. Lại có nhiều người Khê-động không biết nói tiếng Việt, họ nói tiếng Thái, tiếng Mường, tiếng Mèo, tiếng Ra-đê. Bà Huệ-Phương phải nhờ cô hai kiếm người thông dịch. Ông nội thích mấy thí sinh này lắm. Người đậu đã đành, người không đậu cũng được bổ làm quan.
Chờ mãi không thấy hai chim ưng trở về. Tự-Mai hỏi Thiệu-Cực:
- Anh thử sai chim ưng lên dò thám xem. Biết đâu trên ấy chẳng có bọn khác đến ở? Em nghi bọn Hoa-sơn đến bái kiến ắt có dã tâm.
- Tại sao?
- Vì như anh trình bầy, trong kỳ tranh tài động chủ, có Khúc Chẩn, Triệu Tiết thuộc phái Hoa-sơn. Vì vậy bọn Hoa-sơn đi dọn đường trước chăng?
Thiệu-Cực gật đầu:
- Tự-Mai tinh tế hơn anh.
Chàng hú hột hồi dài. Mười con chim ưng đang bay trên trời từ từ đáp xuống các ngọn cây xung quanh. Thiệu-Cực huýt sáo, chỉ trỏ một lát. Năm chim ưng cất cánh bay bổng lên làn mây. Còn năm con bay lượn tuần phòng.
Kim-Thành hỏi:
- Anh đã lên đỉnh núi bao giờ chưa?
- Chưa! Vì đỉnh núi thuộc tổng đàn phái Tản-viên. Luật phái này cấm không cho người ngoài lên đó. Chỉ đệ tử mới có quyền lên. Cho nên dù gan bằng trời anh cũng không dám tò mò.
Chờ một lát không thấy năm chim ưng trở lại. Tôn Đản nhắc Thiệu-Cực:
- Anh Cực! Từ đây lên đến đỉnh núi tuy cao thực. Song không lẽ chim ưng bay lâu như vậy?
Thiệu-Cực cũng sốt ruột, chàng lại sai hai chim ưng nữa bay lên. Không phải đợi lâu. Hai con ưng bay xuống. Chúng kêu lên những tiếng dài, thê lương. Thiệu-Cực kinh hãi nói:
- Như vậy năm chim ưng trước lành ít, dữ nhiều.
Chàng cầm tù và rúc lên ba hồi dài. Lát sau, một đàn hơn trăm chim ưng bay đến. Chàng chỉ trỏ lên núi nói với chúng. Chúng cùng cất cánh bay lên cao tuyệt mù.
Thanh-Trúc giải thích:
- Anh Cực sai cả đoàn chim ưng lên cứu viện toán trước đấy.
Ước khoảng ăn xong bữa cơm, đàn chim ưng bay trở xuống với những con bị mất tích lúc đầu. Chúng kêu lên nhiều tiếng khẩn cấp.
Tự-Mai đề nghị:
- Anh Cực à! Em nghĩ trên núi có cái gì kỳ quái. Chúng ta phải lên dò thám cho biết rõ tình hình.
Thiệu-Cực đề nghị:
- Ở đây võ công Tự-Mai, Tôn Đản với Lê Văn cao nhất. Ba người theo anh leo núi. Còn các em ở lại với Thanh-Trúc.
Tôn Đản đã từng đi ra ngoài, nhiều kinh nghiệm. Nó đề nghị:
- Có lẽ tất cả trở về nhà trước, báo cho anh cả biết rõ việc chúng mình làm thì hay hơn.
Thanh-Trúc tán thành:
- Đúng vậy.
Thiệu-Cực chỉ vào ngọn suối đang chảy từ trên đỉnh xuống:
- Chúng ta leo theo ngọn suối mà lên núi.
Tự-Mai, Lê Văn xuất thân võ học danh gia, được huấn luyện cực kỳ chu đáo. Vì vậy bản lĩnh cao thâm không kém gì một cao thủ. Còn Thiệu-Cực, tuy có luyện tập, nhưng bản lĩnh không làm bao. Tôn Đản đã ở trong động Xuân-đài với Lý Long, Tự-Mai, được học di thư chân truyền. Nhưng thời gian luyện tập chưa có, thành ra bản lĩnh cũng chưa tới chỗ siêu việt.
Bốn người leo núi thoăn thoắt. Thiệu-Cực tuy chưa lên đỉnh Tản-viên bao giờ. Song nghiên cứu bản đồ rất kỹ, nên chàng dẫn đầu cả bọn. Vừa leo, chàng vừa quan sát mấy con chim ưng tuần tiễu, để phòng bị ám toán.
Leo được nửa chừng, Thiệu-Cực bắt đầu thở dốc. Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn phải ngừng lại chờ. Tự-Mai hỏi:
- Anh Cực này. Đường chúng mình leo là đường tắt. Dường như còn đường chính lên nữa phải không?
Thiệu-Cực vừa thở vừa đáp:
- Đúng vậy. Đường chính có thể dùng trâu, voi lên được, nhưng ngoằn ngèo khúc khủy quanh co, xa lắm. Tuy vậy tới chỗ phình ra, cũng phải theo đường hang. Đường chúng ta lên này, lát nữa có hang ngầm tới đỉnh, ít người biết. Ngay cả hồi Đỗ Xích-Thập trấn tại đây y cũng chẳng tường. Cửa hang bị lấp đá kín, chỉ để hở một lỗ nhỏ thông hơi. Ta phải khuân đá, mở cửa hầm, mới ra được.
Thình lình chim ưng dẫn đường kêu ré lên, rồi đâm bổ vào hốc đá trước mặt. Thiệu-Cực nói
nhỏ:
- Coi chừng trước mặt có người. Không biết tiều phu, hay đệ tử phái Tản-viên.
Tự-Mai tung mình lên phía trước. Một hình ảnh làm nó mở to mắt ra: Trên cành cây mọc ngang, treo lủng lẳng một người đàn bà. Nó gọi Lê-Văn:
- Văn đệ, lên đây mau. Mau, mau, mau.
Tiếng mau cuối cùng vừa dứt thì Lê Văn đã lên tới nơi. Nó rút kiếm đưa một nhát, dây dứt, thiếu phụ rơi xuống. Nó dùng tay trái đỡ lấy nạn nhân, rồi đặt xuống bãi cỏ bằng phẳng. Không tỵ hiềm nam nữ, tay phải nó để lên ngực nạn nhân, tay trái bắt mạch.
Thiệu-Cực hỏi:
- Có hy vọng gì không?
- Người còn nóng, nhưng mạch hết nhảy rồi. Để em dùng kim châm cứu xem... may chăng.
Nó mở bọc lấy cái hộp bằng bạc ra. Trong hộp đầy kim. Nó cầm lấy một cây rồi bảo Tự-Mai:
- Công lực Tự-Mai cao, hãy để tay lên huyệt Đản-trung rồi dồn chân khí vào.
Tự-Mai vận khí, xòe bàn tay rồi để lên huyệt Đản-trung nạn nhân. Nó dồn chân khí ra. Trong khi đó Lê Văn châm vào huyệt Nhân-trung thiếu phụ. Thiếu phụ mở mắt, rồi bật lên tiếng khóc. Máu theo tiếng khóc tràn ra mũi, miệng.
Tự-Mai nhận ra thiếu phụ, nó nói với Thiệu-Cực:
- Anh Cú rừng! Bà này người trang Thiên-trường nhà em. Chị ta là con của thầy lang Trần Tấn-Cang và con điếm già Anh-Tần.
Lời nói của Tự-Mai làm Thiệu-Cực suy nghĩ:
- Từ Thiên-trường lên đây đường xa diệu vợi, thân gái dặm trường mà bà dám ra đi là một điều đáng chú ý. Hai là tại sao bà ta lại leo lên sườn núi này mà treo cổ tự tử?
Lê Văn dùng châm cứu trị cho nạn nhân, lát sau máu đã ngừng chảy. Nó để bà ngồi tựa lưng vào tảng đá. Thiếu phụ gọi Tự-Mai:
- Trần công tử! Người cũng có ở đây sao?
- Tôi cũng đang muốn hỏi lại cô câu này: Tại sao cô lại tự ải?
Hai giòng lệ thiếu phụ tuôn dài trên má. Bà ta móc trong bọc ra bức thư trao cho Tự-Mai:
- Tôi không muốn sống nữa, mà dù có muốn sống cũng không nổi. Vì tôi đã bị bọn Hồng-thiết giáo hạ độc. Trần công tử! Đây là thư tuyệt mệnh của tôi, nhờ công tử mang về trao cho bố tôi. Như vậy, sau khi chết tôi mới yên tâm.
Tự-Mai tiếp lấy thư bỏ vào túi. Nó định hỏi mấy câu, thì thình lình thiếu phụ rút trong bọc ra con dao, tự đâm vào ngực. Lê Văn, Tự-Mai tuy võ công cao, nhưng bà ta ra tay đột ngột. Cả hai đều chỉ biết kêu lên tiếng ngăn cản:
- Không nên.
Nhưng đã trễ. Lê Văn chạy lại bắt mạch. Nó lắc đầu:
- Dao đâm trúng tim. Lần này bà ta chết rồi.
Thiệu-Cực bảo Tự-Mai:
- Em lấy thư tuyệt mệnh đọc lên xem tại sao bà ta lại cố đi tìm cái chết.
Tự-Mai trao thư cho Lê Văn. Lê Văn đọc:
Kính đệ thư này lên phụ thân là Trần y sư, trang Thiên-trường.
Lê Văn đọc tiếp:
Bố ơi, khi bố nhận được thư này thì con đã chết từ lâu rồi. Con chết ở trên sườn núi Tản-lĩnh vùng Bắc-cương.
Con sinh ra làm con một danh y, lòng dạ nhân từ, như vậy thực còn gì sung sướng bằng. Nhưng tại sao mẹ con không phải là một người bình thường? Tại sao mẹ con lại đi làm những chuyện điếm nhục cho bố, cho ông bà ngoại, cho tổ tiên?
Khi con mới có trí khôn, thì mẹ bỏ bố, bỏ anh chị em con để theo Hồng-thiết giáo, rồi lại lập hội giao hoan tập thể, tự hiến thân làm điếm thí cho thiên hạ. Thế mà khi con lấy chồng, bố vẫn khuyên con, mỗi tháng đôi lần dẫn chồng đến thăm mẹ. Con tuân lời bố. Bố có biết đâu nỗi đau khổ đứt ruột cho con, mỗi khi đến thăm mẹ không? Trong nhà mẹ lúc nào cũng đầy bọn trốn chúa lộn chồng quần tụ nhau nói truyện dâm đãng kinh tởm.
Con có đưa lời khuyên can mẹ. Không những mẹ không nghe, mà còn khuyên con nhập hội Vu-sơn, hành dâm tập thể.
Gần đây, con thấy mẹ hay đến nhà con trong những lần con đi vắng. Một vài lần không sao, sau gần như thành lệ. Vì vậy con phải tìm hiểu cho ra lẽ. Một lần con giả đi xa, rồi quay trở về ẩn ở trong vườn. Quả nhiên chỉ lát sau, mẹ đến. Chồng con đón mẹ, rồi đóng kín cửa lại. Chờ một lát không thấy mẹ ra, con theo lối bếp vào nhà, thì... hỡi ôi! Mẹ với chồng con trần truồng, đang hành dâm trên giường. Kinh tởm qúa, con hét lên: "Mẹ ơi ! Kinh tởm, kinh tởm".
Chồng con nghe tiếng hét, hơi có vẻ luống cuống. Nhưng mẹ con vòng tay ra ôm chặt lấy nó rồi nói: Kệ , việc ta ta cứ làm.
Rồi hai người tiếp tục hành dâm. Con ngồi chết lặng trước cảnh đó. Bố ơi, không biết bố có tưởng tượng nỗi cái đau đớn của con khi ấy không bố. Mãn cuộc, mẹ xỉa xói vào mặt con mà chửi bới rằng con theo bố, tin những gì thằng Thích, thằng Khổng, thằng Mạnh nói.
Sau hôm ấy chồng con với mẹ biến mất. Con dò hỏi được biết mẹ với chồng con lên Bắc-cương. Con quyết định lấy cái chết để thức tỉnh hai người. Con dự định sẽ dùng dao đâm vào ngực chết trước mặt mẹ để mẹ hồi tâm. Không quản đường đất xa xôi, con lên đường đi Bắc-cương. Thực không uổng công, con đã gặp mẹ giữa lúc mẹ đang hành dâm với một tên Hồng-thiết giáo Tây-vực lông lá như vượn.
Một bọn khác ngồi xung quanh vừa xem vừa uống rượu. Con nhìn cảnh tượng mà kinh khiếp trong lòng, rồi không giữ được, con bỏ chạy.
Bọn Hồng-thiết giáo Tây-vực đuổi theo, bắt được con. Mẹ không một lời can ngăn chúng thì chớ, lại còn khuyên con nên tình nguyện làm cây thuốc cho chúng. Suốt đêm hôm ấy con bị bốn tên mọi lông lá hãm hiếp đến ngất đi. Khi con tỉnh dậy thì mẹ với bọn chúng đã đi mất. Biết rằng con có tự tử trước mặt một bà mẹ dâm dãng hơn thú vật để mong tìm lấy cái hồi tâm cũng vô ích. Con đành viết thư này cho bố, rồi mượn dây lưng tự kết liễu đời mình.
Con biết chết như thế này là bất hiếu với bố. Nhưng bố ơi, dù con có sống cũng thành điên khùng, càng làm cho bố thêm đau lòng mà thôi. Con mong bố hãy tha hết tội lỗi cho con...» Thiệu-Cực nghiến răng:
- Con điếm già Anh-Tần chắc chỉ luẩn quẩn quanh Bắc-cương này chứ không xa đâu. Việc ở đây xong, hai em sẽ cùng anh bắt nó đem cho voi dày, ngựa xé để răn chúng.
Ba người lấy củi chất thành đống, để xác nạn nhân lên, rồi châm lửa đốt. Phút chốc lửa chảy đỏ rực. Tự-Mai lẩm nhẩm đọc kinh vãnh sinh.
Ba người tiếp tục leo núi. Leo được quãng nữa. Bỗng có tiếng quát:
- Ba đứa trẻ kia, đứng lại.
Hai người từ sau mỏm đá, tay cầm vũ khí bước ra. Một người béo tròn. Một người hình dạng kỳ dị: Râu tóc đỏ hoe, mũi cao, mắt xanh to. Cả hai chặn mất lối đi.
Thiệu-Cực hỏi:
- Phải chăng hai vị thuộc phái Tản-viên?
Người to béo lắc đầu:
- Không phải! Ta là đạo trưởng Thiên-trường thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Họ Vũ tên Huy.
Y chỉ vào người dị hình:
- Vị đại huynh đây đại danh Ma-Lăng thuộc Hồng-thiết giáo Tây-vực. Chúng ta được lệnh trấn đây, không cho bất cứ ai lên núi.
Tự-Mai kinh ngạc:
- Dường như các vị chưa biết thay đổi lớn trong quý giáo thì phải. Nhật-Hồ giáo chủ ngộ đạo, đi tu rồi. Hồng-thiết giáo đổi tên thành Lạc-long giáo, do tân giáo chủ Thân Thiệu-Thái thống lĩnh.
Vũ Huy cười nhạt:
- Chú bé chỉ biết một mà không biết hai. Truyện mới xẩy ra đây. Giáo chủ Hồng-thiết giáo Tây-thiên cử Ngũ-sứ sang Đông-phương kinh lược. Lão nhân gia cách chức tên Thiệu-Thái, phong đệ tử người là Trần Đông-Thiên làm giáo chủ. Tân giáo chủ giá lâm Tản-lĩnh. Người truyền chúng ta trấn nơi này.
Cả bọn kinh hoàng đưa mắt nhìn nhau. Thiệu-Cực không hiểu những gì xẩy ra. Tuy vậy, chàng cũng nói:
- Truyện quý giáo, bản chức không biết. Bản chức hiện là mệnh quan triều đình Bắc-biên lĩnh Khu-mật viện sứ. Bản chức tuần phòng lãnh thổ qua đây. Các người phải tránh đường mau.
Vũ Huy nói một tràng tiếng ộp ệp với Ma-Lăng. Ma-Lăng cũng đáp lại một tràng tiếng ốp ệp. Vũ Huy khoa đao lên:
- Vị nhân huynh này nói: Người chỉ biết lệnh trên, chứ không biết gì tới Bắc-biên. Các người không lui thì đừng trách chúng ta tàn độc.
Ma-Lăng, Vũ Huy cùng vần viên đá lớn. Viên đá lăn xuống với tốc độ kinh khủng. Bốn người vọt mình lên tránh khỏi. Thiệu-Cực ra lệnh:
- Kiềm chế chúng.
Tự-Mai tung mình lên cao. Nhấp nhô mấy cái, nó đã đến bên Vũ Huy. Vũ Huy vung đao chém nó. Nó vung tay, kẹp sống đao cứng ngắt. Vũ-Huy hết sức gỡ ra. Nhưng đao như đóng vào cột không nhúc nhích.
Ma-Lăng cầm búa sắt bổ vào đầu Tự-Mai. Lê Văn rút kiếm gạt búa. Choảng một tiếng, búa văng lên không. Người Ma-Lăng ngã ngửa về sau, đầu va vào tảng đá đến bốp một cái. Nó dí kiếm vào cổ y, nhưng không thấy y động đậy. Nó nhìn lại: Đầu y vỡ đôi, máu tuôn xối xả. Y chết rồi.
Tự-Mai đoạt đao của Vũ Huy. Tay nó đè lên vai y. Y vận công chống lại, nhưng không nổi. Y từ từ cúi xuống, như người quỳ gối. Tự-Mai sợ kình lực mạnh quá có thể khiến y chết. Nó vội buông tay ra. Không ngờ giữa lúc đó, Huy cố vận sức đứng dậy. Thành ra người y vọt lên cao, rơi xuống tảng đá nhọn. Bộp một tiếng, y dẫy mấy cái, rồi nằm im.
Thiệu-Cực chạy lại bắt mạch. Mạch y không còn nhảy, xương sống y bị gẫy. Y chết từ bao giờ.
Tự-Mai hỏi Thiệu-Cực:
- Anh nghĩ xem, cái gì đang xẩy ra trên
Tản-lĩnh?
- Khó hiểu! Chúng ta cứ leo lên, rồi tùy cơ ứng biến.
Leo được hơn trăm trượng, Thiệu-Cực chỉ vào hốc đá:
- Sau hốc đá kia, có hang ngầm lên đỉnh núi. Để anh cho chó sói đi trước dẫn đường.
Tôn Đản nhìn những viên đá xếp lại thành đống, che khuất cửa hang. Nó than:
- Bí mật thế này. Ai mà biết được!
Bốn anh em xúm vào khuân đá, lát sau, hiện ra một cửa hang. Thiệu-Cực vẫy tay gọi hai con sói, chàng hú lên một tiếng, chỉ vào hang đá. Cặp sói rừng chui vào trước. Lát sau, một con trở ra vẫy đuôi. Thiệu-Cực vui mừng:
- Vô sự. Chúng ta vào thôi.
Thiệu-Cực móc trong bọc ra bó bổi. Chàng lấy một thanh, châm lửa đốt, rồi dẫn đầu.
Đường trong hang không dốc cho lắm, nhưng gồ ghề khó đi. Bốn người vừa đi, vừa nói truyện. Thình lình một con sói chạy ngược trở lại, chúi mõm xuống đất gật đầu. Thiệu-Cực nghiêm trọng:
- Sắp tới đỉnh rồi. Trên đỉnh có gì kỳ quái lắm, nên sói báo cho mình biềt trước.
Chàng dặn nhỏ:
- Các em nhớ nhé, bất cứ gặp chuyện gì, cũng không được dụng võ.