Chương 20
Tác giả: Becca Fitzpatrick
Tôi trằn trọc cả đêm. Gió rít từng cơn qua những cánh đồng bao la quanh căn nhà trại, cuốn tung cát bụi và rác rưởi đập vào cửa sổ. Tôi cựa mình nghe tiếng những tấm ván bị bật tung khỏi mái nhà và lăn xuống. Mỗi tiếng động nhỏ, từ tiếng lạch cạch của khung cửa sổ đến tiếng cọt kẹt của đệm lò xo đều làm tôi tỉnh giấc.
Đến khoảng sáu giờ tôi bỏ cuộc, lê mình ra khỏi giường, bước qua hành lang để vào tắm nước nóng. Rồi tôi dọn phòng – tủ quần áo của tôi trông gọn hẳn, và dĩ nhiên, cái giỏ đựng đồ bẩn đã đầy đến ba chồng. Tôi đang ôm một chồng quần áo sạch leo lên cầu thang thì có tiếng gõ cửa. Tôi mở cửa và thấy Elliot đang đứng trên hiên.
Cậu ta mặc quần jean, áo sơ mi kẻ ca rô kiểu cũ xắn đến khuỷu tay, đeo kính râm và đội mũ lưỡi trai Red Sox – trông đặc sệt Mỹ. Nhưng tôi thấy có điều gì đó bất thường, và một cảm giác lo lắng ập đến đã chứng thực cho điều đó.
“Nora Grey,” Elliot nói, giọng kẻ cả. Cậu ta chúi đầu vào và cười, mùi rượu chua chua phả về phía tôi. “Gần đây cậu gây ra nhiều rắc rối cho mình quá đấy.”
“Cậu đang làm gì đấy?”
Cậu ta đang nhòm vào trong nhà tôi. “Trông mình có vẻ đang làm gì? Mình muốn nói chuyện. Mình vào nhà được không?”
“Mẹ mình đang ngủ. Mình không muốn làm bà thức giấc.”
“Mình chưa bao giờ gặp mẹ cậu.” Điều gì đó trong cách nói của cậu ta làm tóc gáy tôi dựng đứng lên.
“Mình xin lỗi, cậu cần gì à?”
Nụ cười của cậu ta nửa ủy mị, nửa mỉa mai. “Cậu không thích mình, đúng không, Nora Grey?”
Thay vì trả lời, tôi khoanh tay trước ngực.
Elliot lảo đảo lùi lại một bước, tay áp vào ngực. “Ôi. Mình đến đây, Nora, với nỗ lực cuối cùng để thuyết phục cậu rằng mình là một chàng trai bình thường và cậu có thể tin tưởng mình. Đừng làm mình thất vọng.”
“Nghe này, Elliot, mình có vài điều cần…”
Cậu ta đấm vào tường nhà, những khớp ngón tay đập vào ván lát tường mạnh đến nỗi tróc cả mảng sơn. “Mình chưa nói xong!” Cậu ta lè nhè nói, giọng giận dữ. Rồi đột nhiên Elliot ngửa đầu ra sau và khẽ cười. Cậu ta cúi xuống, đặt bàn tay rỉ máu giữa hai đầu gối và rên rỉ: “Mình cược mười đô la rằng sau này mình sẽ hối hận vì đã làm chuyện này.”
Dáng vẻ của Elliot khiến tôi sởn gai ốc. Vài ngày trước đây tôi còn thực sự nghĩ cậu ta điển trai và quyến rũ. Sao tôi lại ngu ngốc đến thế nhỉ?
Tôi đang định đóng cửa lại thì Elliot bỏ kính ra, để lộ đôi mắt vằn đỏ. Cậu ta hắng giọng, tuôn ra một tràng. “Mình đến đây để nói cho cậu biết Jules đang quá căng thẳng với việc học ở trường. Những bài kiểm tra, hội học sinh, đơn xin học bổng, vân vân, vân vân và vân vân. Jules đang cư xử rất khác lạ. Cậu ấy cần tránh xa tất cả những chuyện đó trong vài ngày. Bốn người chúng ta – Jules, mình, cậu và Vee – nên đi cắm trại đâu đó cho vui vẻ. Ngày mai chúng ta hãy đi Powder Horn và quay về vào chiều thứ ba. Chuyến đi sẽ giúp Jules khuây khỏa hơn. Cậu thấy thế nào?” Mỗi lời thốt ra từ miệng cậu ta đều có vẻ kỳ quặc và dường như đã được tập dượt cẩn thận.
“Xin lỗi, mình có kế hoạch khác rồi.”
“Hãy để mình làm thay đổi suy nghĩ của cậu. Mình sẽ chuẩn bị cho chuyến đi này. Mình sẽ chuẩn bị lều và thức ăn. Mình sẽ chứng minh cho cậu thấy mình là người tuyệt vời thế nào. Mình sẽ đem lại cho cậu một khoảng thời gian vui vẻ.”
“Mình nghĩ cậu nên đi đi, Elliot.”
Elliot chống tay lên gióng cửa, cúi sát về phía tôi. “Trả lời sai rồi!” Trong khoảnh khắc, vẻ lờ đờ trong mắt cậu ta biến mất, nhường chỗ cho một thứ gì đó xấu xa và nham hiểm hơn. Tôi vô tình lùi lại. Tôi gần như chắc chắn Elliot sẽ sẵn sàng giết người. Tôi gần như chắc chắn cái chết của Kjirsten là do cậu ta gây ra.
“Đi đi, hay mình gọi một chiếc taxi cho cậu nhé,” tôi nói.
Elliot mở tung cánh cửa mạnh đến nỗi nó đập cái rầm vào tường nhà. Cậu ta túm lấy áo choàng của tôi và kéo tôi ra ngoài. Rồi cậu ta xô tôi vào lớp ván ốp tường và dùng thân mình ép tôi vào đó. “Cậu phải đi cắm trại, dù muốn hay không!”
“Thả mình ra!” Tôi kêu lên, vùng vẫy cố thoát ra khỏi Elliot.
“Nếu không thì sao? Cậu sẽ làm gì?” Giờ thì cậu ta nắm lấy vai tôi, ấn người tôi đập vào tường lần nữa làm răng tôi va vào nhau lập cập.
“Mình sẽ gọi cảnh sát.” Tôi không biết sao mình có thể ăn nói cứng cỏi đến thế. Tôi thở gáp gáp và dồn dập, bàn tay lạnh toát.
“Cậu định hét lên gọi họ sao? Họ không nghe thấy cậu đâu. Mình chỉ thả cậu ra nếu cậu hứa sẽ đi cắm trại.”
“Nora?”
Elliot và tôi đều quay về phía cửa, nơi giọng mẹ tôi vọng đến. Elliot giữ tôi thêm lúc nữa rồi thốt ra một âm thanh phẫn nộ và xô tôi ra. Xuống nửa chừng bậc thềm, cậu ta ngoảnh lại. “Chưa kết thúc đâu!”
Tôi vội vào trong và khóa cửa lại. Mắt tôi bắt đầu cay xè. Lưng vẫn dựa vào cánh cửa, tôi từ từ trượt người xuống và ngồi bệt trên thảm chùi chân, cố nén khóc.
Mẹ tôi xuất hiện trên đỉnh cầu thang, đang cột lại đai áo choàng tắm. “Nora? Sao thế? Ai ở cửa thế con?”
Tôi vội chớp mắt để cho đôi mắt kịp ráo hoảnh. “Một bạn cùng trường ạ.” Nhưng giọng tôi vẫn chưa hết run rẩy. “Cậu ấy… cậu ấy…” Tôi đã có đủ rắc rối trong lần hẹn hò với Patch rồi. Tôi biết tối nay mẹ định đi dự tiệc cưới con gái một đồng nghiệp – nếu bà mà biết Elliot vừa mới giở trò bạo lực với tôi, bà sẽ không đời nào chịu đi. Và đó là điều mà tôi không muốn nhất. Tôi cần lái xe đến Portland để điều tra về Elliot, vì chỉ cần một mẩu bằng chứng buộc tội nhỏ nhoi thôi, cậu ta cũng có thể bị tống vào tù. Tôi cảm thấy một sự hung bạo đang lớn dần lên trong cậu ta, và tôi không muốn chứng kiến cái ngày sự hung bạo ấy vượt tầm kiểm soát. “Cậu ấy muốn chép bài luận về vở kịch Hamlet của con,” tôi nói dứt khoát. “Tuần trước, cậu ấy đã chép bài kiểm tra của con, và giờ cậu ấy không chịu từ bỏ thói quen đó.”
“Ôi, con yêu.” Mẹ đi xuống bên cạnh tôi, vuốt ve mái tóc ẩm đã lạnh ngắt từ lúc tôi tắm. “Mẹ hiểu tại sao con lại buồn thế. Mẹ có thể gọi điện cho bố mẹ cậu ta nếu con muốn.”
Tôi lắc đầu.
“Vậy mẹ sẽ làm bữa sáng nhé, bà nói. “Đi thay đồ đi. Mẹ sẽ chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng khi con xuống.”
Tôi đang đứng trước tủ quần áo thì chuông điện thoại reo.
“Cậu đã nghe tin gì chưa? Bốn người chúng ta sẽ đi c - ắ - m - t - r - ạ - i trong kỳ nghỉ mùa xuân đấy!” Vee nói, tỏ ra phấn khích đến kỳ lạ.
“Vee,” tôi nói, giọng run run, “Elliot đang có kế hoạch gì đó. Mình thấy sợ. Lý do duy nhất cậu ta muốn đi cắm trại là để có thể đi riêng với bọn mình. Chúng ta sẽ không đi đâu hết.”
“Cậu nói chúng ta không đi là có ý gì? Cậu đùa à? Mãi bọn mình mới có vụ gì đó thú vị trong kỳ nghỉ mùa xuân, thế mà cậu lại nói không? Cậu biết mẹ mình sẽ không bao giờ cho mình đi một mình mà. Mình sẽ làm bất cứ điều gì. Nghiêm túc đấy! Mình sẽ làm bài tập cho cậu trong một tuần nhé. Nào, Nora! Chỉ một lời ngắn thôi. Nói đi! Nó bắt đầu bằng chữ Đ…”
Tay cầm điện thoại của tôi run run, và tôi phải dùng tay kia để giữ nó cho vững. “Mười lăm phút trước Elliot vừa xuất hiện trước cửa nhà mình trong tình trạng say xỉn. Cậu ta… cậu ta đã đe dọa mình bằng vũ lực.”
Vee im lặng trong một thoáng. “Cậu nói “đe dọa bằng vũ lực” là thế nào?”
“Cậu ta lôi mình ra khỏi cửa và xô mình vào tường.”
“Nhưng cậu ta đang say, đúng không?”
“Thế thì sao?” Tôi cáu kỉnh.
“Ừm, Elliot đang gặp rất nhiều chuyện. Cậu ấy bị buộc tội oan là có dính líu đến vụ tự tử của một cô gái nào đó, và cậu ấy buộc phải chuyển trường. Nếu cậu ấy làm đau cậu – tiện đây cũng xin nói là mình không bào chữa gì cho những việc cậu ấy đã làm – thì có lẽ chỉ vì cậu ấy cần… một lời khuyên, cậu biết không?”
“Nếu cậu ta làm đau mình?”
“Elliot đang say. Có lẽ… có lẽ cậu ấy không biết bản thân đang làm gì. Ngày mai cậu ấy chắc sẽ thấy rất khủng khiếp.”
Tôi mở miệng, rồi lại thôi. Tôi không tin nổi là Vee lại đứng về phía Elliot. “Mình phải đi,” tôi nói cộc lốc. “Mình sẽ nói chuyện với cậu sau.”
“Mình có thể hoàn toàn thành thật không, cưng? Mình biết cậu đang lo lắng về gã trùm mặt nạ. Đừng giận nhé, nhưng mình nghĩ lý do duy nhất khiến cậu cứ cố gán tội cho Elliot là vì cậu không muốn nghĩ kẻ đó là Patch. Cậu đang cố hợp lý hóa mọi thứ, và điều đó khiến mình vô cùng lo lắng.”
Tôi chẳng nói được gì. “Hợp lý hóa? Patch có xuất hiện ở nhà mình sáng nay và đẩy mình vào tường nhà đâu!”
“Cậu biết không? Đáng lẽ mình không nên khơi chuyện này ra. Thôi bỏ nó đi, nhé?”
“Ừ,” tôi cứng nhắc nói.
“Thế… hôm nay cậu định làm gì?”
Tôi thò đầu ra cửa, nghe ngóng mẹ tôi. Tiếng máy đánh trứng quệt vào thành bát vọng ra từ bếp. Một phần trong tôi cảm thấy không cần phải chia sẻ thêm chuyện gì với Vee, nhưng một phần khác lại thấy bực bội và chống đối. Vee muốn biết những dự định của tôi? Cũng được thôi. Nếu nó không thích thì cũng chẳng sao. “Mình định đến Portland trong lúc mẹ mình đi ăn cưới ở bãi biển Old Orchard.” Đám cưới bắt đầu lúc bốn giờ chiều, và sau đó là ăn tiệc, ít nhất chín giờ tối mẹ tôi về nhà. Tôi sẽ có đủ thời gian ở Portland và về nhà trước bà. “Mình có thể mượn chiếc Neon của cậu không? Mình không muốn mẹ mình thấy số dặm đường mình đã đi trên xe.”
“Ôi trời. Cậu định điều tra về Elliot đúng không? Cậu định rình rập quanh Kinghorn à?”
“Mình sẽ đi mua sắm một lát và ăn tối,” tôi vừa nói vừa hạ đống mắc áo trong tủ quần áo xuống. Tôi lôi ra một cái áo phông mỏng dài tay, quần jean và một cái mũ len sọc hồng trắng được dành cho những ngày tóc tôi dở chứng cùng những dịp cuối tuần.
“Và sẽ ăn tối ở một quán ăn nào đó gần trường dự bị Kinghorn? Một quán ăn nơi cái cô Kjirsten gì gì đó từng làm việc?”
“Ý kiến không tồi đâu,” tôi nói. “Có lẽ mình sẽ làm vậy.”
“Và cậu sẽ thực sự ăn chứ, hay chỉ hỏi dò các nhân viên ở đó?”
“Mình có thể hỏi vài câu hỏi. Cậu có cho mình mượn chiếc Neon hay không?”
“Dĩ nhiên là có,” nó nói. “Có bạn thân để làm gì? Mình thậm chí sẽ đi với cậu trong cái chuyến đi vô nghĩa này. Nhưng trước hết hãy hứa với mình là cậu sẽ đi cắm trại.”
“Thế thì thôi. Mình sẽ đi xe buýt.”
“Bọn mình sẽ nói chuyện về kỳ nghỉ mùa xuân sau!” Vee nói trước khi tôi kịp ngắt máy.
Tôi đã đến Portland vài lần nhưng vẫn không rành đường phố ở đây cho lắm. Tôi bước xuống xe buýt, cầm theo điện thoại di động, một tấm bản đồ và cái “la bàn” mặc định sẵn trong trí óc. Vầng dương đang lặn phía sau những tòa nhà cao mảnh xây bằng gạch đỏ. Chút ánh sáng cuối ngày chỉ còn le lói xuyên qua một dải mây dông dày đặc khiến các đường phố bị bao phủ bởi một màn u ám. Một loạt biển hiệu kỳ quặc của những cửa hàng trải dài phía trên các khung cửa hay trước những mái hiên. Đường phố được thắp sáng bởi những ngọn đèn hình mũ phù thủy màu đen. Sau vài dãy nhà, các con phố hẹp chạy thẳng tới một vùng cây cối rậm rạp, và nhìn về phía xa, tôi thấy tấm biển của trường dự bị Kinghorn thấp thoáng. Một thánh đường, gác chuông và tháp đồng hồ ló ra trên những ngọn cây um tùm.
Tôi vẫn đi trên vỉa hè và rẽ vào con phố số 32. Bến cảng chỉ cách đây vài dãy nhà, và tôi thoáng trông thấy vài con thuyền lướt qua phía sau các cửa hàng khi chúng vào bến. Đi được nửa phố 32, tôi thấy biển hiệu của quán ăn Blind Joe’s. Tôi lôi những câu hỏi chuẩn bị sẵn ra và đọc lại lần cuối. Tôi phải làm sao để không tỏ ra là mình đang thực hiện một cuộc phỏng vấn chính thức. Tôi hy vọng nếu mình tình cờ đề cập đến chủ đề Kjirsten với các nhân viên ở đó, tôi có thể phát hiện ra điều gì đó mà các phóng viên ngày trước đã vô tình bỏ qua. Nhẩm xong các câu hỏi một lượt, tôi lén vứt tờ danh sách vào thùng rác gần nhất.
Chuông cửa kêu vang khi tôi bước vào.
Sàn nhà lát gạch trắng và vàng, bàn ăn bọc vải màu xanh lính thủy. Những bức tranh vẽ bến cảng được treo khắp trên tường. Tôi ngồi xuống một bàn gần cửa và cởi áo khoác.
Một nữ nhân viên phục vụ đeo tạp dề trắng nhem nhuốc xuất hiện trước mặt tôi. “Tôi là Whitney,” cô ta nói bằng chất giọng chua loét. “Chào mừng đến Blind Joe’s. Món ăn đặc biệt của ngày hôm nay là sandwich cá ngừ. Món súp của hôm nay là súp tôm hùm.” Cây bút của cô ta đã ở trong tư thế sẵn sàng ghi yêu cầu của tôi.
“Blind Joe’s?” Tôi nhướng mày và gõ cằm. “Sao cái tên này quen thế nhỉ?”
“Cô không đọc báo à? Tháng trước chúng tôi đã lên báo suốt một tuần đấy.”
“Ôi!” Tôi nói với vẻ như chợt nhớ ra điều gì. “Tôi nhớ rồi. Có một vụ giết người, đúng không? Cô gái đó làm việc ở đây à?”
“Kjirsten Halverson ấy hả?” Cô ta sốt ruột bấm bút. “Cô có muốn tôi mang bát súp đó ra để thưởng thức không?”
Tôi không thích súp tôm hùm. Thực ra thì tôi không đói chút nào. “Chắc là kinh khủng lắm. Cô và cô ấy có phải là bạn không?”
“Ôi trời, không đâu! Cô có muốn gọi món không nào? Tôi sẽ cho cô biết một bí mật: nếu tôi không làm việc, tôi sẽ không được trả lương. Tôi không được trả lương, tôi sẽ không trả nổi tiền thuê nhà.”
Đột nhiên tôi muốn anh chàng bồi bàn phía bên kia căn phòng mới là người ghi yêu cầu của tôi. Anh ta lùn tịt, tóc hói xuống tận tai, thân hình chẳng khác nào những que tăm trong cái ống tăm đặt trên mỗi bàn. Mắt anh ta không bao giờ ngẩng quá mặt đất mười phân. Một nụ cười thân thiện từ tôi có lẽ cũng đủ để anh ta tiết lộ toàn bộ câu chuyện về cuộc đời Kjirsten, dù sau đó tôi sẽ phải cảm thấy vô cùng tội lỗi. “Xin lỗi,” tôi bảo Whitney. “Tôi không thể ngừng nghĩ đến vụ án mạng. Dĩ nhiên với cô thì có lẽ đó là một tin cũ rích. Các phóng viên chắc cứ đến đây để hỏi chuyện suốt ấy nhỉ?”
Cô ta nhìn tôi chòng chọc. “Cô có cần thêm vài phút để xem thực đơn hay không?”
“Tôi thấy các phóng viên thật phiền phức.”
Whitney cúi xuống, chống một tay lên mặt bàn. “Tôi thấy các khách hàng thích câu giờ mới là những kẻ phiền phức.”
Tôi buông một tiếng thở dài lặng lẽ và giở thực đơn ra. “Cô bảo món gì ngon nhỉ?”
“Tất cả đều ngon. Hãy hỏi bạn trai tôi mà xem.” Cô ta cười mỉm. “Anh ấy là đầu bếp đấy.”
“Nhắc đến bạn trai… Kjirsten có bạn trai không?” Mình tiếp nối khéo thật, tôi tự nhủ.
“Nói thật đi,” Whitney hỏi. “Cô là cảnh sát, luật sư, hay là phóng viên?”
“Chỉ là một công dân có quan tâm.” Nó nghe không được thật cho lắm.
“Được thôi. Tôi sẽ nói cho cô hay. Hãy gọi sữa khuấy, khoai tây chiên, hamburger Angus, một bát súp, rồi cho tôi tiền boa hai nhăm phần trăm, tôi sẽ kể cho cô những điều tôi đã kể với những người khác.”
Tôi phải cân nhắc lựa chọn giữa khoản tiền ít ỏi mẹ cho hàng tháng với những câu trả lời mà tôi đang rất cần. Cuối cùng tôi cũng phải gật đầu: “Đồng ý.”
“Kjirsten có quan hệ với một gã tên là Elliot Saunders. Kẻ có tên trên báo ấy. Lúc nào hắn ta cũng ở đây. Để cuối giờ làm đưa Kjirsten về nhà.”
“Cô đã nói chuyện với gã Elliot ấy bao giờ chưa?”
“Tôi thì chưa.”
“Cô có nghĩ Kjirsten tự tử không?”
“Làm sao tôi biết được?”
“Tôi thấy trong báo viết là một bức thư tuyệt mệnh đã được tìm thấy trong căn hộ của Kjirsten, nhưng ở đó cũng có những dấu hiệu của một vụ đột nhập.”
“Và?”
“Cô không thấy điều đó hơi… kỳ cục sao?”
“Nếu cô định hỏi tôi liệu tôi có nghĩ Elliot đã đặt bức thư đó trong căn hộ của cô ấy không, thì tôi chắc chắn là có. Những tên nhóc giàu có như vậy có thể thoát được bất cứ tội gì. Hắn có thể thuê ai đó dựng lên lá thư kia. Đời là vậy khi cô có tiền.”
“Tôi không nghĩ Elliot có nhiều tiền.” Trong ấn tượng của tôi thì Jules mới là người giàu có. Vee không bao giờ ngừng lải nhải về căn nhà của cậu ta. “Tôi nghĩ cậu ta được học ở trường dự bị Kinghorn là nhờ học bổng.”
“Học bổng?” Whitney lặp lại và cười hô hố. “Thứ nước cô đang uống có chứa chất gì vậy? Nếu Elliot không có một khoản tiền cực lớn, làm sao cậu ta có thể mua cho Kjirsten căn hộ đó được? Nói tôi nghe xem?”
Tôi cố ngăn lại sự ngạc nhiên. “Cậu ta đã mua cho cô ấy một căn hộ?”
“Kjirsten luôn mồm kể về chuyện đó. Gần như làm tôi phát điên.”
“Sao cậu ta lại mua căn hộ cho cô ấy?”
Whitney trừng trừng nhìn tôi, tay chống nạnh. “Cô không thực sự ngớ ngẩn đến thế chứ?”
Ôi. Chuyện bí mật. Riêng tư. Hiểu rồi.
Tôi tiếp tục: “Cô có biết tại sao Elliot chuyển khỏi trường Kinghorn không?”
“Tôi không biết là cậu ta đã chuyển.”
Tôi lắp ghép những câu trả lời của cô ta với những câu mà tôi vẫn muốn hỏi, cố nhớ ra chúng. “Cậu ta có bao giờ gặp bạn bè ở đây không? Ai khác ngoài Kjirsten ấy?”
“Làm sao tôi nhớ được?” Cô ta đảo mắt. “Trông tôi có vẻ như lúc nào cũng ghi tạc hình ảnh của họ trong đầu lắm hả?”
“Còn về một anh chàng thực sự rất cao thì sao? Cao lắm ấy? Tóc dài vàng hoe, điển trai, quần áo được đặt may rất kiểu cách?”
Cô ta dùng răng cửa xé một cái móng tay bị xước và thả nó vào trong túi tạp dề. “Có, tôi vẫn nhớ gã đó. Không thể không nhớ. Hoàn toàn ủ rũ và trầm lặng. Gã đến đây một hay hai lần. Cách đây không lâu lắm – có lẽ trong khoảng thời gian Kjirsten chết. Tôi nhớ được vì hôm đó chúng tôi đang phục vụ món sandwich thịt bò muối cho ngày Lễ Thánh Patrick và tôi không thể khiến gã gọi món đó được. Gã chỉ trừng trừng nhìn tôi như thể sẽ rướn người qua bàn và cắt họng tôi nếu tôi còn đứng đó liệt kê những món đặc biệt hàng ngày. Nhưng tôi nghĩ là tôi có nhớ tới một điều gì đó. Không phải là tôi tò mò, mà là vì bức vách có tai. Đôi khi tôi không thể không nghe thấy vài chuyện. Lần cuối cái gã cao kều đó và Elliot đến đây, họ cắm cúi trên bàn và nói về một vụ kiểm tra nào đó.”
“Một bài kiểm tra ở trường?”
“Sao tôi biết được? Nghe qua thì có vẻ gã cao kều bị trượt vụ kiểm tra nào đó, và Elliot không vui chút nào. Cậu ta đẩy cái ghế lại và đùng đùng bỏ ra ngoài. Thậm chí còn không ăn hết cái sandwich của mình nữa.”
“Họ có nhắc đến Kjirsten không?”
“Gã cao kều đến trước, hỏi xem Kjirsten có làm việc hôm đó không. Tôi nói rằng không, Kjirsten hôm đó không đi làm. Thế rồi gã gọi điện thoại. Mười phút sau Elliot bước vào. Kjirsten luôn phục vụ bàn của Elliot, nhưng như tôi đã nói, hôm đó cô ấy không đi làm, vì thế tôi đã thay cô ấy. Tôi không nghe thấy họ nói gì về Kjirsten. Nhưng có vẻ gã cao kều không muốn Kjirsten có mặt.”
“Cô còn nhớ gì nữa không?”
“Cũng còn tùy. Cô gọi món tráng miệng chứ?”
“Chắc tôi sẽ ăn một miếng bánh nướng.”
“Bánh nướng? Tôi đã cho cô năm phút quý giá, vậy mà tất cả những gì cô gọi chỉ là bánh nướng thôi ư? Trông tôi có vẻ như không có việc gì khác để làm ngoài tán chuyện với cô sao?”
Tôi nhìn quanh quán ăn. Nó vắng teo. Ngoài một người đàn ông đang khom mình đọc báo ở quầy, tôi là thực khách duy nhất.
“Được rồi…” tôi lướt nhanh thực đơn.
“Cô sẽ muốn một ly nước chanh mâm xôi để nuốt cho trôi cái bánh nướng đó.” Cô ta viết lên giấy. “Và cà phê sau bữa tối.” Cây bút vẫn tiếp tục. “Tôi… mong chờ khoản tiền boa hai nhăm phần trăm lắm đấy!” Nói rồi cô ta nở một nụ cười tự mãn, nhét giấy vào tạp dề rồi ưỡn ẹo quay vào bếp.