Hồi 7
Tác giả: Cổ Long
Mọi người tại đại điện đều bị chấn động đến sửng sờ, tưởng chừng các mạch máu đều đức, tim vở...
Phương Dật quá say tại khách sạn, dọc đường chưa tỉnh hẳn, đến đây lại uống thêm, cơn say trở lại làm hắn điên đảo như người ngoại cuộc, trước diển tiến hãi hùng, hơi rượu tiêu tan, hắn tỉnh hẳn người.
Tỉnh, là hắn ý thức được tình hình, nhận thấy tầm quan trọng của sự việc, hắn điếng luôn.
Mồ hôi đổ ra, ướt đầu, đẩm mặt, rơi xuống ngực ròng ròng.
Rồi hắn nhớ lại cái cảnh diển ra ở khách sạn.
Hắn đã vô lễ với lão nhân, rất may, lão nhân nương tay, chỉ điểm huyệt suông, cảnh cáo hắn thôi chứ không nở hạ độc thủ. Nhờ thế, hắn thoát chết!
Chứ giết hắn, là cái việc dễ dàng hơn cho tay vào túi lấy một món đồ.
Vậy mà lúc đó, hắn còn muốn làm hùng làm hổ hơn nữa! Bây giờ, thấy tận mắt cái thực tài của lão nhân, bảo sao Phương Dật chẳng kinh khiếp hơn chính bọn đồng tử và Hoa Phi...
Triển Mộng Bạch thầm nghĩ:
- Tuyệt! Tuyệt độc! Luyện kiếm pháp đến mức độ thành tựu đó, trên đời nầy phỏng có mấy người? Kiếm pháp đã độc, lòng người cũng độc không kém!
Một chiêu kiếm, đi tròn đà, sát hại hai mạng người, gây tổn thương một người nữa, xử dụng chiêu đó, Cung Cẩm Bậc chỉ ngồi nguyên một chỗ.
Thanh trường kiếm đi trọn đà, trờ về tư thế củ, từ lúc xuất phát đến lúc thu hồi, thời gian không hơn một phút giây.
Kiếm xuất nhanh, thu nhanh, người bất động, thần sắc y nhiên, tựa hồ chẳng có việc gì xẩy ra. Cung Cẩm Bậc đã luyện tâm thần ổn định, trầm tỉnh vững hơn núi.
Tịch mịch! Trong khung cảnh tịch mịch nặng nề hơn cảnh chết! Có người chết, đương nhiên cảnh phải lạnh như cảnh chết, song khi một vài người chết, số còn lại sôi hờn, cảnh loạn động lên với sự báo hận.
Cho nên, đáng lẻ cái cảnh hiện tại do cuộc báo thù mà sôi động hơn, chứ làm gì tịch mịch đến lạnh lùng, như cảnh chết?
Thế mà đúng là cảnh chết, bởi chẳng ai nhút nhít!
Ai dám báo thù?
Dù có ai dám báo thù, cũng không xuất thủ làm gì, bởi chẳng ai ngu dại gì mà nuôi mộng.
Mà nằm mộng cũng không chắc được là thủ thắng trước tay kiếm tuyệt luân! Trong mộng, người ta được quyền mơ đến cái thắng, nhưng ở đây, người ta có thể mơ tất cả mọi việc trừ cái mơ thủ thắng trước một Cung Cẩm Bậc!
Nhưng qua một phút mất thần thôi, tất cả trở về thực tại.
Trở về thực tại, là ai ai cũng nghĩ ngay đến bổn phận của mình. Thuộc hạ nhớ đến nhiệm vụ của chúng, chủ nhân nhớ đến vai trò chủ động của mình...
Hai đồng tử đã bị loại rồi, còn lại sáu tên, chúng bình tỉnh là nhớ ngay đến việc phải làm trước nhất, cái việc bao vây, uy bức lão nhân mù.
Chúng không thể đứng lặng tại chỗ, dù chúng không dám làm gì, cũng phải làm một cái gì, bởi sự tình bắt buộc phải làm?
Sáu cánh tay cùng vung lên, sáu thanh kiếm chớp, mười hai chiếc chân nhít động.
Nhưng, tay vung, kiếm chớp chân nhít, chậm chạp làm sao!
Chậm quá! Người ngoài thấy rỏ sự miễn cưỡng của chúng!
Hổ khẩu tay bị tét, Phấn Hầu Hoa Phi vẫn còn cầm kiếm được, hắn quắc mắt phẩn nộ khi nhìn trừng trừng Cung Cẩm Bậc, rồi hắn di động thân hình.
Hắn không bước tới, về phía Cung Cẩm Bậc, hắn lại lùi, lùi đến chổ đứng của Cung Linh Linh.
Lúc đó Cung Linh Linh quá sợ, bình sanh nàng chưa thấy máu bao giờ, được dịp thấy, lại thấy máu chảy nhiều, nàng sửng sốt đến chết lặng người.
Nàng đâu còn tâm thần để nghĩ đến những việc chung quanh, cho nên chẳng hề hay biết Hoa Phi đang tiếp cận nàng.
Đột nhiên, Hoa Phi quăng kiếm, dùng tay không chụp nàng nhấc bổng lên, tung nàng, như tung một quả cầu.
Hắn không tung nàng về một hướng nào, hắn nhắm Cung Cẩm Bậc mà tung nàng đến với lão.
Đồng thời gian, tay kia còn nắm thanh chủy thủ, hắn lao vút thanh chủy thủ theo.
Một vệt sáng trắng nổi lên liền với chiếc thân nhỏ bé của Cung Linh Linh.
Cả hai, người và vật vút đi rất nhanh, sắp sửa chạm vào Cung Cẩm Bậc.
Triển Mộng Bạch biến sắc mặt xanh dờn...
Bây giờ Cung Linh Linh mới hoàn hồn, nàng hoàn hồn trong khi bay đi, hoàn hồn lúc lơ lửng giữa khoảng không...
Nàng sợ hãi vô tưởng, song nàng cắn răng, không phát xuất một tiếng kêu la.
Triển Mộng Bạch mắng thầm:
- Hoa Phi thật nham hiểm phi thường! Dùng gập ông đập lưng ông.
Rồi chàng tức bực nghĩ:
- Cô bé đó lạ thật! Làm gì chẳng chịu kêu lên? Kêu như vậy có làm mất danh dự của giòng họ Cung sao? Cái tính khí của ông cháu họ thật kỳ quái! Thảo nào mà trên giang hồ, chẳng thiếu chi người chết, người chết cách kỳ quái!
Nhưng chàng không còn đủ thì giờ suy nghĩ nữa, cái gì phải đến, đã đến.
Chàng muốn nhắm mắt lại, không nhìn, song muộn mất rồi.
Cung Cẩm Bậc cười lạnh mấy tiếng, vung tay quét thanh trường kiếm ra.
Trường kiếm chạm thanh chủy thủ, hất chủy thủ bay đi, mũi kiếm chuyển thế đâm vào ngực đứa cháu gái nội duy nhất của lão.
Một thanh kiếm báu, lại do Cung Cẩm Bậc xử dụng với toàn công lực tu vi suốt mấy mươi năm dài, dù đâm vào một thân hình bằng thép, mũi kiếm vẫn xuyên thủng như thường.
Huống hồ da thịt con người?
Hà huống Cung Linh Linh còn nhỏ dại, học nghệ chưa lâu, phản ứng chưa nhanh?
Mãi đến lúc đó, Cung Linh Linh mới rú lên một tiếng thảm.
Tiếng rú phát ra, để từ giả cỏi đời, sau khi nàng ra đi vỉnh viễn rồi, tùy ý Cung Cẩm Bậc có quở trách nàng như thế nào thì quở.
Dù nàng có làm mất thanh danh của dòng họ Cung, thì nàng cũng đã theo cha, về vỉnh cửu...
Chỉ khi nào, một chân đã đặt lên bờ bên kia thế giới, một chân sắp sửa rời bờ bên nầy, nàng mới chịu rú lên.
Rú lên để rút chân luôn, và vỉnh viễn xa rời nhân loại sống với những kẻ vô hình...
Nàng rú lên, tiếng rú của nàng như hốt hết số máu trong mình Cung Cẩm Bậc, lão biến sắc mặt xanh dờn, tứ chi cơ hồ rơi rụng, lão cũng rú lên:
- Linh Linh!
Lão đưa tay kia, đón lấy Cung Linh Linh vào lòng, rồi bứt một mớ tóc của lão đắp lên trên vết thương, vừa đắp vừa rung giọng hỏi:
- Linh Linh đây, phải không?
Gương mặt của Linh Linh lúc đó đương nhiên là một gương mặt chết, nhưng nàng chưa chết...
Nàng cũng rung giọng, ấp úng:
- Nội ơi! Con đâu có nói tiếng nào... nội đừng đánh con, nội ơi!
Máu trong người Cung Cẩm Bậc như chảy ngược, tim lão như bị ngàn vạn mũi dao xuyên thủng, lão thốt nhưng âm thanh của lão biến đổi quái dị, không còn giống tiếng người:
- Linh Linh... nội của con... không...
Lão vuốt chiếc xác của Linh Linh, vuốt ngực, vuốt xuôi, cử động của lão chứng tỏ một niềm xót xa, thương tiếc, tủi hận bốc lên cao độ.
Ai ở trong trường hợp lão mà không xúc động tâm tình mảnh liệt?
Mất Linh Linh, lão còn gì trên cõi đời nầy?
Con trai lão đã chết, chết để bảo toàn danh dự giòng họ Cung của lão!
Rồi cũng vì danh dự của họ Cung, lão cấm ngăn đứa cháu nội duy nhất của lão kêu la!
Lão cấm ngăn nghiêm khắc, nên nàng vong mạng!
Còn gì cho lão? Trong khi danh dự lão còn, thì tất cả đều mất!
Từ nay, lão sống với danh dự của lão chăng? Bao nhiêu người thân đều mất hết, để cho danh dự của lão còn!
Với danh dự đó lão sẽ không tịch mịch chăng?
Đáng khen lão, hay đáng hận lão?
Trong tuổi đó, khi đôi mắt đã mù, lão khóc!
Những hạt lệ nối tiếp nhau trào ra trủng sâu dưới chân mày, trên đôi má...
Hai cái trủng đó, không thể gọi là đôi mắt, thì những giọt lệ kia phát xuất tự con tim đau xót của lão.
Đã là lệ của con tim, thì lệ phải đỏ, màu đỏ đó, là giọt lệ hồng, hay chính là những giọt máu của con tim cằn cỗi vắt ra?
Có lẽ đó là những giọt máu, chứ lão còn nước mắt đâu mà đổ lúc bi hoài?
Triển Mộng Bạch nằm mộng cũng không tưởng nổi có sự tình như thế!
Chàng kinh hoàng, chàng sợ hãi, rồi buồn thương, rồi phẩn hận.
Việc, là việc của người, ai mượn chàng thương vay, hận mướn, sợ hộ, lo giùm? Đã là con nhà vỏ, thì không ai điềm nhiên tọa thị trước những diễn biến bất hợp tình, bất hợp lý.
Dù không ai dám can dự vào việc ngoại nhân, ít nhất cái tâm của họ cũng dao động ít nhiều!
Rồi chàng cũng khóc luôn.
Chàng khóc, kể ra cũng phải, bởi Linh Linh được bao nhiêu tuổi đầu, nàng đã làm gì nên tội, mà phải chết rất uổng oan?
Chàng khóc cho Cung Linh Linh, chàng tự hận lấy mình, trước cảnh tình, chỉ lấy mắt mà nhìn, chứ tấm thân bảy thước chỉ có giá trị của một khối thịt, không hơn không kém!
Không học vỏ, chàng có thể nhẩn được, dù rằng cái nhẩn đó chứng tỏ sự nhu nhược, sự yếu hèn.
Song có ai trách cứ một con người không vũ công, điềm nhiên tọa thị trước bất bằng?
Không học vỏ, tâm tình phải nguội lạnh, yếu mềm.
Có học vỏ, tinh thần mạnh mẻ thích phấn đấu, luôn luôn hiếu động.
Nhưng, chàng cũng học vỏ, để giờ đây, chỉ còn có cách là lấy mắt nhìn!
Tức uất thay!
Hiện tại, chàng không làm được gì cả. Chàng là người thừa nhưng đau cho chàng là đã thừa mà bắt buột phải nhìn tận mắt những cái bất bằng nhất!
Bi ai mà khóc, đồng thời phẩn hận dâng trào, những giọt lệ của chàng tựa hồ có pha máu!
Quanh đại điện, ai ai cũng khiếp đảm trước diển tiến vừa xảy ra.
Chỉ trừ một người.
Người đó là chủ động của cái cảnh đã dàn ra, cái cảnh đã diển đúng với cái dự định của hắn.
Người đó là Hoa Phi!
Hắn đứng riêng tại một góc đại điện, hắn bật cười cuồng dại, hắn cười một lúc, rồi cao giọng mỉa mai:
- Như nhau chăng? Không mắt và có mắt như nhau à? Cung lão tiên sanh nhận ra, như nhau hay khác nhau?
Dung mạo của hắn rất đẹp, cho hắn là một mỹ nam tử cũng được lắm.
Song, lòng dạ của hắn thì độc quá chừng, đến cả rắn rết cũng đầu hàng hắn luôn!
Triển Mộng Bạch căm hận, chỉ muốn vụt tay ra, vớ lấy hắn bót nát đầu hắn, chà đạp nhừ xác thân hắn, mới hả.
Cung Cẩm Bậc vụt đứng lên, gầm như hổ rống:
- Súc sanh!
Hoa Phi cười lớn, quát:
- Đừng vọng động! Cho ngươi biết quanh đại điện nầy, ta đã mai phục hai mươi bốn tay kiếm tuyệt luân, ngoài ra còn có năm mươi tay cung nổ thủ. Ngươi nhút nhích là cầm chắc đi theo con và cháu ngươi liền!
Bây giờ, tình đối lập đã hiện rỏ rệt lắm rồi, qua cái lối xưng hô giữa nhau.
Hoa Phi nói thế, bất quá bịa chuyện để áp đảo tinh thần của Cung Cẩm Bậc, chứ làm gì có mai phục kiếm và cung nổ thủ?
Cung Cẩm Bậc không sợ, trong tay lão còn có thi thể của Cung Linh Linh, lão ngại không thể bảo vệ cho thi thể của nàng nên dừng lại, rồi hét lớn:
- Súc sanh! Ta với ngươi, có oán thù chi...
Hoa Phi tiếp tục cười vang:
- Thù oán? Làm gì có thù oán? Mà cần gì phải có thù oán? Lão thất phu, ngươi còn nhớ chăng, mười sáu năm trước, một đôi vợ chồng đã chết dưới lưỡi kiếm của ngươi, đó là vợ chồng Hoa Bình? Chưa hết, lòng ác độc của ngươi không dừng lại với hai mạng người đó, ngươi lại hạ sát thêm một đứa bé gái! Cho ngươi biết, đôi vợ chồng Hoa Bình, là song thân của ta, đứa bé gái, là chị của ta! Riêng ta với ngươi, là hai kẻ xa lạ, riêng ta với ngươi chẳng hề có thù, có oán, trên phương diện cá nhân. Song ngươi có thù, có oán, với gia đình ta, bổn phận của ta là phải trả thù nhà, phải báo hận nhà! Cung Cẩm Bậc, từ bao lâu nay, ta tìm ngươi khắp bốn phương trời, hoàng thiên hữu nhản, dung ruổi, ta lại gặp ngươi, hay đúng hơn, ngươi tìm ta mà nạp mạng! Báo ứng tuần hoàn, đạo trời chí công, lão thất phu!
Giọng nói của hắn, vừa cao, vừa rợn, hàm xúc niềm oán hận vô biên, ánh mắt của hắn bốc rực lửa đỏ.
Cung Cẩm Bậc thoáng biến sắc.
Qua phút giây kinh ngạc, bởi lão không tưởng hôm nay lại gặp oan gia, lão lấy lại bình tỉnh, rồi bật cười ha hả.
Giọng cười của lão gieo rợn quanh đại điện, ai nghe cũng phải rùn mình Hoa Phi lại tiếp:
- Trọn đời ngươi, ngươi giử được lòng rắn, dạ chai, ngươi chẳng chút bi hoài khi lưỡi kiếm của ngươi đâm vào tim người, cắt đầu người, tay ngươi chẳng hề rung khi vấy máu, lúc đôi mắt ngươi còn đầy đủ, thì đôi mắt đó chẳng hề nháy trước một thây người? Chắc ngươi thích thú cái giết người? Chắc sự giết người tạo cho ngươi một tư vị rất đậm đà? Có khi nào ngươi tưởng tượng những nạn nhân của ngươi đau đớn ra sao chăng? Có khi nào ngươi nghĩ đến cái hậu quả của việc ngươi làm, mà gia quyến nạn nhân tiếp nhận chăng? Hôm nay, ngươi có dịp nếm tất cả, nếu cái đau của người bị giết, qua cái chết của cháu nội ngươi, nếm cái khổ của thân nhân kẻ chết, qua cái chết của Linh Linh! Càng đau hơn nữa, chính ngươi gây nên cái chết đó! Bao lâu nay ngoại nhân tiếp nhận hậu quả sự tàn ác của ngươi, thay ngươi, giờ đây ngươi tiếp nhận lấy cho ngươi! Nếu ngươi còn sống sót được phút giây nào, thì cố màø thưởng thức cái hậu quả đó!
Cung Cẩm Bậc rít lên:
- Ai nói rằng ta đã giết cháu ta? Ai nói rằng cháu ta đã chết?
Lão đưa tay sờ...
Lão chụp trúng bàn tay của Linh Linh. Bàn tay đó lạnh như giá băng. Cảm giác lạnh làm lão rợn người, toàn thân lão rung lên.
Lão rung người, mường tượng một tiếng sét vừa nổ ngay trên đầu lão.
Lão sững sờ, ngây người, nín lặng một lúc lâu.
Con người, qua cơn kích động mảnh liệt, trở nên bình tỉnh lạ thường, Cung Cẩm Bậc hiện ở trong tình trạng đó.
Lão bình tỉnh đến độ lạnh lùng, gương mặt như giá băng, chẳng biểu lộ một cảm tình nào cả.
Lặng người một lúc, lão từ từ cúi mình xuống, đặt thi thể Cung Linh Linh trên mặt nền, rồi từ từ đứng lên.
Gian đại điện vụt biến thành bãi tha ma, không gian trầm đọng, tử khí đâu đây bốc dậy, mọi người nín thở, chừng như máu của họ ngưng chảy, tim ngưng đập.
Người ngồi, người đứng, ngồi cũng như đứng, đều là những tượng gỗ, đến mắt cũng không chớp.
Nhưng những cặp mắt đó, đều hướng về một cái đích chung, cái đích chung hiển nhiên là lão nhân mù!
Tất cả, từ người đến vật, kể luôn không gian, đều báo hiệu một cái gì đáng sợ nhất, và trên thế gian nầy có cái gì đáng sợ hơn cái chết.
Chết mà có máu đổ, chết mà mình biết trước, đứng chờ cái chết đến với mình dù có muốn phản kháng cái chết, vẫn biết rỏ không phản kháng nổi, thì còn gì đáng sợ hơn?
Phải, ai ai cũng sợ, bởi chẳng ai là đối thủ của lão nhân mù, dù ai ai cũng còn đủ đôi mắt!
Lão chỉ danh ai, là người đó phải chết.
Người được hân hạnh lão chỉ danh đầu tiên, phải là Hoa Phi.
Ngoài ra, những người kia rất có thể lão bỏ qua cho, song họ làm sao chắc được điều đó?
Tự nhiên là họ phải sợ.
Kể cả Triển Mộng Bạch cũng phải sợ, biết đâu lão lại chẳng cho là chàng cùng bọn với Hoa Phi?
Thế tại sao chẳng ai chịu đi?
Không ai dám chạy đi, bởi chạy đi, thoát chết với lão nhân mù nhưng lại chết với Hoa Phi!
Không ai dám chạy đi, song cũng có người len lén đi ra xa Cung Cẩm Bậc, càng xa càng có lợi, xa trong tầm vừa phải, đừng để cho Hoa Phi quở trách là được.
Họ tránh xa xa, dù không khỏi chết, ít nhất họ cũng không làm vật tế cờ, trước khi lão nhân mù ra quân.
Người tránh xa trước hết, là một đồng tử đứng gần Cung Cẩm Bậc.
Nhưng hắn chỉ nới chân được một bước, ánh thép chớp lên, một nhát kiếm giáng xuống đầu hắn.
Hắn kinh hãi, vội vung kiếm lên, ngăn chặn.
Thanh kiếm của hắn đi được nửa đà, mũi kiếm của Cung Cẩm Bậc cành nhanh, trở lại bên dưới thanh kiếm của hắn, thọc ngay vào ngực của hắn.
Cung Cẩm Bậc nhít bàn tay, mũi kiếm rọc một đường, lão ngoặc tay trở lại, mũi kiếm rọc thêm một đường nữa.
Máu xối ra trong khi xác đồng tử ngã xuống.
Một đồng tử thét lên, lướt tới.
Trong trường hợp nầy, trước con mắt của Hoa Phi, không một ai dám lùi. Dù biết rằng tiến tới là chết cũng phải tiến.
Hắn lướt tới, tức nhiên hắn tấn công mặt trước.
Thanh kiếm trong tay Cung Cẩm Bậc lại chớp, không ai thấy lão nhít động thân pháp như thế nào, bất quá họ chỉ thấy mũi kiếm của lão đâm từ ót đồng tử, trở ra yết hầu.
Không một tiếng hự nào, dù rất khẻ. Xác đồng tử ngã xuống, máu lại bắn ra.
Chỉ mũi kiếm xuống nền, Cung Cẩm Bậc từ từ chuyển động thân hình.
Dưới ánh đèn, lão hiện thân với nhiều vệt máu, máu điểm đỏ tóc bạc, máu điểm hồng râu trắng, máu vấy bộ y phục lam lũ.
Dĩ nhiên, máu cũng nhuộm hồng luôn thanh trường kiếm.
Lão hiện thân như hung thần đang tác oai với lũ quỷ.
Bây giờ thì niềm sợ hãi nơi mọi người tăng gia cực điểm, họ bất động trước đó, họ bắt đầu run, run tay, run thân hình, rồi đôi chân run theo, nếu họ không cố kềm vững hẳn đã có người nhủn xuống nền rồi.
Họ không thở nổi, nhưng răng họ chạm, vào nhau, nghe rỏ tiếng cành cạch.
Phương Dật sợ quá độ, suýt ngất đi mấy lần.
Triển Mộng Bạch rùng mình từng cơn, nhưng cái tâm hùng của chàng dấy động bàn tay ngứa ngáy.
Rất may, chàng bị điểm huyệt thành phế nhân, nên không cử động được.
Chàng muốn cử động, song chẳng biết để làm gì.
Tiếp trợ lão nhân? Lão đâu cần điều đó? Nhân dịp nầy thoái đi? Chàng thấy chưa đúng lúc thuận tiện.
Người trong đại điện, chẳng dám rời đi, riêng bọn đại hán áo gấm ở bên ngoài, len lén rút đi!
Tất cả đều quá sợ, thậm chí có kẻ đã đái ra quần, đái mà vẩn không hay biết!
Bổng, một tiếng soảng vang lên.
Một đồng tử đứng vòng đầu, thấy hai bạn chết thảm, xỉu liền, thanh kiếm trong tay hắn rơi xuống nền.
Cung Cẩm Bậc vẫn lạnh lùng, nhít nhít thân hình, đột nhiên vung tay.
Một đường sáng xẹt ra phía cửa, gã đồng tử đứng về hướng đó, đinh ninh là khoảng cánh rất xa, không thể nào Cung Cẩm Bậc đến kịp, nếu hắn vọt đi lập tức.
Hắn vọt đi liền, nhưng vô ích, chân hắn vừa soạt qua, mắt hắn hoa lên, mũi kiếm của Cung Cẩm Bậc đã đến nơi.
Nhưng, mũi kiếm của Cung Cẩm Bậc không cần chạm vào người hắn, hắn rú lên một tiếng, nhủn chân ngã xuống, mạch máu đứt, hắn tắt thở ngay.
Rồi một vài người nữa, kế tiếp ngã gục dưới lưỡi kiếm thần diệu của Cung Cẩm Bậc.
Trong khoảng thời gian ngắn, sáu mạng người đã bị đường kiếm linh ảo của lão loại trừ vỉnh viễn khỏi thế gian.
Gương mặt lão vẫn lạnh lùng, không một cảm nghĩ nào biểu hiện.
Bây giờ, lão đứng áng tại cửa, thanh kiếm hoành ngang trước ngực.
Lão buông từng tiếng một, giọng trầm trầm:
- Các ngươi hại chết cháu ta, đừng một ai hòng sống sót!
Bây giờ Hoa Phi mới chen vào cuộc.
Hắn đợi một số người ngã gục, mới chịu ra mặt đối phó, hắn đứng lặng một chỗ, thản nhiên nhìn sáu đồng tử nối tiếp nhau ngã gục mới nói lên tiếng nói của người lảnh đạo.
Nhưng hắn chẳng nói gì khác, hơn là hét lớn:
- Tất cả cùng vào! Hạ lão tặc cho ta!
Bao nhiên máu đã chảy, hắn cho là chưa đủ, hắn muốn cho máu chảy nhiều hơn.
Và hắn dồn bầy dê non, nhào vào vấu cọp.
Hắn phát động cuộc tổng tấn công, một tay chụp chiếc cẩm đôn lao tới, tay kia cầm kiếm, hắn dùng mũi kiếm vít một chiếc cẩm đôn khác, bắn đi. Đồng thời hai chân đá bay hai chiếc cẩm đôn nữa.
Tất cả bốn chiếc cẩm đôn đều hướng về Cung Cẩm Bậc, động tác của hắn quá nhanh, cẩm đôn bay cùng một lúc, bốn chiếc tạo thành hình vuông. Hình vuông khép lại, ráp chụp vào nhau không chiếc nào chồm tới, không chiếc nào hụt lại sau.
Cung Cẩm Bậc lắng nghe tiếng gió, đảo thanh trường kiếm khoa một vòng.
Bốn chiếc cẩm đôn bị tiện thành tám đoạn, mổi đoạn văng đi một hướng.
Đúng ra, phải có mấy đoạn bắn vào mình lão, bởi dù bị tiện, phần ngoài bay đi, còn phần trong vẫn vút vào người lão.
Song, áp lực của thanh kiếm mạnh quá, đánh bạt luôn những đoạn đôn bên trong, thành cả tám đoạn cùng bay đi, không một đoạn nào chạm vào mình lão.
Đồng thời gian, Cung Cẩm Bậc vọt mình tới, tuy lão mù, song nhắm đúng hướng của Hoa Phi.
Phương Tần cấp tốc chụp ngang cổ Phương Dật, nhấc hổng lên, bàn tay kia tung mạnh một chưởng phong, phá bay khung cửa sổ, bàn tay đó hoành lại, bảy chiếc ám khí vút ra đoạn hậu. Trong thoáng mắt, lão đã thoát ra cửa sổ, ra ngoài, mang theo Phương Dật.
Phương Cự Mộc sợ quá, chẳng dám chậm trể, phóng chân chạy theo liền.
Bọn đại hán còn lại, một vài người trong đại điện, nhiều người ngoài đại điện, cùng rú lên một tiếng, cùng ôm đầu, khòm lưng, chạy chết, dù chưa ai làm gì đến chúng.
Chúng là những tên cầm đèn, tăng thêm sánh sáng cho những ngọn đèn treo trên vách, treo trên trần. Chúng chạy chết, bất kể đèn trong tay, chúng quăng ném bừa bãi, cốt sao cho nhẹ mình màø chạy nhanh, dù một chiếc đèn nơi tay cũng chẳng nặng gì cho lắm.
Đèn vất bừa bãi, dầu chảy loang, lửa bắt đầu cháy luôn cả cỏ vấy dầu, bốc lên thành một cơn hỏa hoạn, lửa gặp bổi tốt, cất cao ngọn gió phát sanh, lửa phừng phừng, gió ào ào.
Hoa Phi triển động thân pháp, chạy quẩn quanh đại điện, tay luôn vung kiếm, mũi kiếm cứ tìm cẩm đôn mà vít, cẩm đôn bay vèo vèo đến Cung Cẩm Bậc.
Cung Cẩm Bậc tuy mù, song cử kiếm hất những chiếc cẩm đôn rất đúng. Chiếc nào bay tới, chiếc đó bị tiện lìa, lão vừa vung kiếm hất cẩm đôn vừa chạy theo Hoa Phi, bám sát như bóng với hình.
Hoa Phi vừa chạy vòng vòng, vừa vít cẩm đôn, vừa nhìn quang cảnh trong đại điện.
Hắn nhận ra, tất cả đều chạy hết rồi, hiện tại chỉ còn Triển Mộng Bạch, hắn và hai tên đồng tử chưa chạy đi vì quá sợ chân như chôn cứng tại chỗ.
Không hơn mười người chết, nhưng xác chết nằm ngổn ngang, bởi lòng đại điện không rộng lắm. Những hình ảnh hầu như thu hẹp lại, rất vừa tầm mắt.
Bấc giác hắn càng kinh hoảng, càng kinh hoàng, hắn càng chạy loạn, lắm lúc gặp một chiến đôn, hắn đưa kiếm vít lên, nhưng vít hụt.
Mồ hôi đổ ra ướt cả đầu, cả mặt hắn, mồ hôi theo đà chảy của hắn, rơi xuống, bắn ngược về phía hậu, như hạt mưa to bị gió tạt.
Luận về khinh công, dù cho mười Hoa Phi chạy đi, Cung Cẩm Bậc vẫn thừa sức đuổi kịp, song may cho hắn là đôi mắt của lão đã mù, lão đuổi theo hắn bất quá nhận định tiếng gió mà đuổi, chứ làm gì thấy được. Do đó, bước chân của lão chậm lại phần nào, và mãi một lúc lâu, lão vẫn chưa bắt kịp hắn.
Bên ngoài, lửa cháy càng phút càng cao ngọn, càng lan rộng.
Bất thình lình, Hoa Phi chụp một đồng tử, quăng trở lại, thân xác của đồng tử lao vào Cung Cẩm Bậc từ phía hậu chạy tới.
Gã đồng tử chỉ còn kịp rú lên một tiếng, trường kiếm của Cung Cẩm Bậc xuyên thủng ngực hắn liền.
Trong khi đó Hoa Phi hoành thân, đâm thóc mũi kiếm lòn dưới nách đồng tử, chéo lên.
Cung Cẩm Bậc dĩ nhiên không trông thấy nhát kiếm đó rồi, và lão cũng không ngờ đối phương trong trường hợp nầy dám trở lại vung kiếm đâm lão.
Lão dù thấy được, cũng không tránh được, mũi kiếm lướt lên, rọc tét một đường nơi ngực lão.
Hứng nhát kiếm đó, Cung Cẩm Bậc nghe thương thế rất nặng, nhưng thay vì lùi lại, lão tiến tới, đồng thời hét lên một tiếng, đâm trường kiếm qua liền.
Hoa Phi kinh sợ bất thần, chụp chiếc xác đồng tử đưa ra nghinh đón mũi kiếm.
Cung Cẩm Bậc chạm mũi kiếm vào xác đồng tử, biết ngay Hoa Phi dùng xác người làm khiên, lập tức thu kiếm về rồi đánh ra sáu nhát kiếm liên tiếp, nhanh như một nhát.
Hoa Phi vẫn dùng xác đồng tử đón đở, chứ chưa hoàn kiếm.
Thương hại cho đồng tử tiền kiếp có làm gì nên tội, mà tái sanh trên đời nầy, tuổi chưa tròn hai mươi, lại chết khiếp rồi chết chém, chếm đâm luôn.
Gã đã chết từ lâu, nhưng xác của gã vẫn còn bị đâm, bị chém như thường.
Song, làm nô lệ, chịu sự sai khiến của một tiểu chủ ngông cuồng, chết đi, cái xác vẫn còn hữu dụng, các xác che chở sanh mạng của chủ nhân.
Buồn thay cho số phận tôi đòi!
Gã đồng tử duy nhất còn tại chỗ bừng tỉnh trước cảnh chết thảm của đồng bạn, phóng chân chạy về phía cửa, định thoát đi, song gã quá sợ, nhủn chân, lạng quạng ngã nhào.
Vừa ngã xuống gã xoay mình nằm sấp, tay trườn, chân đạp, cố nhoài ra cửa.
Hoa Phi nhận ra Cung Cẩm Bậc chẳng chú tâm đến người nào khác, chỉ biết đuổi theo hắn, rồi giờ đây, diện đối diện, lão cũng chẳng để ý đến ai cả, luôn luôn vung kiếm tránh né xác đồng tử để đâm hoặc chém trúng hắn cho kỳ được.
Đã sợ, hắn càng sợ hơn.
Hắn biết rỏ không thể nào chạy thoát được, sự chạy thoát còn khó hơn chạy lên đường trời.
Quá sợ thành liều, hắn cất tiếng oang oang, mắng vang lên.
Cái lễ độ vờ vỉnh vừa rồi hắn vất đi đâu mất, để lộ chân tướng của một kẻ lỗ mãng, thô tục.
Ngực của Cung Cẩm Bậc nhuộm đỏ máu tươi, lão xem như thường, cứ vung kiếm vù vù công tới.
Hoa Phi hét lớn:
- Lão thất phu! Chẳng lẻ dòng máu của ngươi vô tận? Hẳn cũng có lúc nó phải kiệt, ta sẽ cắt đầu ngươi tế điện trước mộ song thân và chị ta...
Bổng hắn nghe lạnh nơi vai hữu.
Một mũi kiếm đâm trúng vào đó.
Cánh tay hữu tê dại, bàn tay lỏng ngón, chiếc xác đồng tử rơi xuống nền, kêu phịch một tiếng.
Cung Cẩm Bậc rít lên ghê rợn:
- Vợ chồng Hoa Bình, có chết mười mạng cũng chưa vừa tội ác, ta hận năm xưa đã dành cho họ một cái chết sướng, nếu ta biết được ngày nay có kẻ báo thù cho bọn hung dữ, thì lúc đó, ta đã chặt xác họ thành trăm, thành ngàn đoạn rồi!
Lão nói, tay lão vẫn vung, kiếm vẫn chớp đều đều. Rồi bất thình lình, lão cử kiếm từ trên cao giáng xuống, theo chiêu Lập Phách Hoa Sơn, cái chiêu đó, tuy là một chiêu phổ thông, phàm ai có học múa kiếm cũng đều biết xử dụng.
Song, do lão thi triển thì một chiêu thông thường, dĩ nhiên ảo diệu không tưởng nổi.
Trước một chiêu thông thường như vậy, Hoa Phi có thừa một trăm phương pháp hóa giải, song hắn còn làm chi kịp, vì thủ pháp của Cung Cẩm Bậc quá nhanh, bắt buộc hắn phải liều, cử kiếm nghinh đón như một tay tầm thường, chỉ còn lấy kiếm chạm kiếm, chứ chẳng nhân công lấy thủ, nhân thủ tiến công.
Một tiếng soảng vang lên, to lớn quá, rồi dội quanh đại điện. Không gian rung chuyển, nóc đại điện tựa hồ rung rinh.
Hoa Phi bị chấn động, lùi lại mấy bước.
Nhưng, thanh kiếm của hắn, quý hơn thanh kiếm của Cung Cẩm Bậc, kiếm chạm kiếm, kiếm xấu phải gẩy.
Thanh kiếm của Cung Cẩm Bậc bị tiện thành hai đoạn, cũng may cho lão, mà rủi cho Hoa Phi vì thanh kiếm của hắn chỉ chạm phớt ra ngoài đầu, nên thanh kiếm của Cung Cẩm Bậc chỉ bị tiện một đoạn mũi thôi.
Cung Cẩm Bậc thoáng giật mình.
Bỗng, lão nghe tiếng rên ư ử phía sau lưng.
Tiếng rên rất nhỏ, song Cung Cẩm Bậc nghe rõ. Âm thinh mường tượng của Cung Linh Linh.
Cung Linh Linh rên?
Không phải nàng thì còn ai? Bởi tất cả đều bị lão hạ sát, chắc chắn không còn một tên nào sống sót dưới nhát kiếm của lão.
Chỉ còn Cung Linh Linh thôi, bởi lúc đâm kiếm vào ngực nàng lão có kịp thời dừng tay một chút, và vì đâm bất ngờ, có thể mũi kiếm lệch đi không trúng chỗ nhược.
Lão bỏ luôn Hoa Phi, quay mình vọt về phía Cung Linh Linh nằm, và lão nhào xuống thi thể nàng.
Hoa Phi bị chấn dội, lùi về phía hậu, máu trong người hắn sôi động, chân hắn loạng choạng, hắn hết sức sợ hãi, trong khi chưa đứng vững thì Cung Cẩm Bậc lướt theo, còn gì tánh mạng hắn?
Hắn thở dài, thầm kêu khổ:
“Thế là xong!” Hắn toan nhắm mắt chờ thanh kiếm của Cung Cẩm Bậc bay sang.
Hắn chờ chết, bởi hắn nhận mạng rồi.
Ngờ đâu, Cung Cẩm Bậc bỏ hắn luôn, nhào tới thi thể Cung Linh Linh, điều đó làm hắn sững sờ.
Nhưng hắn mừng, mừng trên chỗ tưởng.
Không chậm trễ, hắn quay mình, phóng chân vọt qua cửa sổ.
Triển Mộng Bạch ngồi lặng một chỗ, chứng kiến trọn vẹn tấn thảm kịch.
Hiện tại những người sống đã chết hết rồi, còn lại mấy xác chết với chàng, tại gian đại điện.
Trong tình cảnh đó, chàng lại không cử động được! Xác chết kia, nằm bất động đã đành, chàng chưa chết, song có khác nào một hình tượng đất, trong hình tượng đó, người ta gắn cho một điểm linh hồn? Điểm linh hồn giúp chàng suy tư, không hơn không kém, nhưng càng suy tư lại càng bực tức, uất hận, buồn thương, đau khổ, chứ có đem lại cho chàng mảy may ích lợi gì?
Cung Cẩm Bậc quăng thanh trường kiếm bên thi thể Cung Linh Linh, xoa vuốt nàng một lúc, rồi điểm nhẹ một nụ cười, rồi thở dài.
Chừng như lão quên tất cả, quên mình đang ở trong tình huống nào, giả như lúc đó có ai len lén bước vào, dùng một thủ đoạn tầm thường, ám toán lão chắc chắn là lão không hề phát giác kịp.
Thì ra Cung Linh Linh chưa chết, nhưng tâm mạch của nàng chừng như thoạt đứt, thoạt nối, hơi thở của nàng thoạt đứt, thoạt còn, mà còn thì rất nhẹ.
Cung Cẩm Bậc không thể đắn đo, dùng cả hai tay đặt tại chỗ âm dương giao thới trên thân thể nàng, khích động cho khí huyết lưu hành giao nối đại huyệt.
Lão hy vọng với công phu hàm dưỡng suốt mấy năm dài, vãn hồi sinh mạng của đứa cháu nội duy nhất.
Hai luồng chân khí từ người lão truyền qua tay sang cơ thể Cung Linh Linh, vào âm mạch của nàng.
Địa phương đó từ lâu chưa hề có một cơn mưa nào, ngôi đạo quán lại được kiến trúc nhiều năm, không người cư trú, tự nhiên không hề được tu bổ, nên lâm vào cảnh hoang tàn, mục nát, ngôi đạo quán hiện là một mồi nhạy lửa, lúc đó ở bên ngoài lửa càng lúc càng lan rộng, nếu lửa bén vào thì phải bốc cháy nhanh.
Lửa lan dần theo cỏ, đã đến bên ngoài các khung cửa sổ.
Chỉ trong giây phút thôi là gian đại điện bốc cháy bừng bừng.
Lửa đã bén đến gian đại điện rồi, gặp cây ván khô, cháy luôn.
Cây ván nổ lên răng rắc, gian đại điện chuyển mình chực đổ, lửa vô tình cứ bốc cao ngọn, mặc ba kẻ bên trong.
Trong ba người đó, một thọ thương trầm trọng đến hôn mê, một không còn lo nghĩ đến việc gì khác ngoài cái việc cứu người, một cuối cùng thì bị điểm huyệt thành bất động.
Cả ba gần như những chiếc xác không hồn, cả ba sẽ bị lửa thiêu đốt là cái chắc.
Lửa sang gió, gió trợ lửa, lửa và gió thi đua nhau làm cái việc hủy diệt ngôi đạo quán hoang tàn.
Lửa đến gần Triển Mộng Bạch trước nhất.
Triển Mộng Bạch cảm thấy miệng khô cổ họng ráo, mồ hôi đổ ra ướt đầu, kế thành hạt to rơi xuống dồn dập.
Nhưng nhiệt độ quanh mình chàng quá cao, mồ hôi rơi xuống hạt nào, đều bốc nhanh thành hơi hạt đó.
Bên kia, Cung Cẩm Bậc áng hai tay trên hai yếu huyệt của Cung Linh Linh, dù thấy lửa sắp cháy đến chỗ lão ngồi, cũng không dám rời tay khỏi huyệt đạo.
Lão vẫn bất động, tiếp tục truyền chân khí sang cơ thể của Cung Linh Linh.
Vừa lúc đó Cung Linh Linh thở nhẹ.
Cung Linh Linh thở được là lão có hy vọng thành công, song giả như lúc đó lão rút tay về thì tâm mạch của nàng phải đứt liền.
Giai đoạn cứu người hết sức quan trọng.
Cho nên, Cung Cẩm Bậc thà chịu cháy để kịp thời cứu tỉnh đứa cháu nội, miễn nó sống là được rồi, lão già rồi, có chết cũng chẳng sao.
Tuy nhiên, lão vẫn sợ không cứu kịp nàng tỉnh lại trước khi lão chết mà thôi.
Ầm!
Một cây kèo rơi xuống, sát bên cạnh Triển Mộng Bạch.
Kèo có bị cháy mới rơi xuống, lửa từ cây kèo bắn ra, trúng chiếc cẩm đôn của Triển Mộng Bạch, lửa bén vào mảnh gấm phủ trên chiếc cẩm đôn.
Một tiếng ầm nữa vang lên, một đoạn kèo rơi xuống trước mặt chàng, lửa bắn ra làm hoa mắt chàng.
Hai đoạn kèo rơi, sườn đại điện mất cái thế nương toàn diện, bắt đầu rung rinh, chực ngã.
Lửa bao vây chung quanh Triển Mộng Bạch, vòng lửa thu hẹp nhanh chóng.
Hiện tại, chàng như một tội đồ bị xử hỏa hình, hoặc giả một nhà sư tự thiêu.
Trong thoáng mắt, chàng vụt nhớ đến song thân, chàng lại nhớ đến những người bằng hữu sóng sót, chàng nhớ luôn đến mối huyết hải thâm cừu.
Bao nhiêu trách vụ đang chờ chực chàng bên ngoài lửa mà vòng lửa hiện tại là đường ranh sanh tử...
Bất giác, chàng bật khóc.
Rồi chàng nghĩ, bình sanh chỉ gặp toàn là những sự oan uổng, nhục nhã, nếu bây giờ chàng chết đi, thì niềm oan khôn giải, nhục nhã khôn rửa, thù thâm khôn báo. Chàng chết đi, sẽ thành con ma uất hận!
Chàng nghĩ đến đó, oán khí bốc lên lửa hận phừng phừng, lửa tâm cộng với lửa ngoài nung máu chàng sôi sục, đột nhiên chàng hét lên một tiếng, qua tiếng hét như có một mãnh lực nhiệm mầu tung mạnh chàng vọt lên cao.
Thân hình vừa vọt lên, chàng giật mình, thức ngộ ra niềm phẩn hận khích động mãnh liệt chân khí, chân khí vận chuyển khắp châu thân xung khai các huyệt đạo bế tắc vì bị điểm.
Một tấu xảo ly kỳ tạo cho chàng một may mắn lớn lao, cái tấu xảo đó ngẫu nhiên mà có, hay hoàng thiên thấy chàng chịu lắm bất công mà gia ơn phù hộ giải nạn cho chàng?
Chàng không cần biết những điều đó, chàng chỉ biết là mình thoát nạn.
Tuy nhiên trước một diễn tiến bất ngờ, chàng không kịp nhận thức là mình có vui hay không, bản năng sinh tồn bừng dậy, lập tức chàng vọt qua vòng lửa, tiến nhanh ra cửa.
Nhưng vừa đến nơi, một ý niệm phát sanh, chàng liền dừng chân lại.
Lúc đó lửa đã cháy khắp gian đại điện.
Cây đòn dông giữa nhà gãy.
Trọn sườn nhà sụp đổ. Những người trong đại điện phải bị chôn sống dưới đám lửa hồng.
Nếu chàng cứ đứng tại chỗ, hẳn cũng phải bị chết luôn.
Nhưng chàng không thể tham sống để vọt ra ngoài, bởi bên trong còn có Cung Linh Linh và Cung Cẩm Bậc. Chàng không thể để họ chết cháy.
Chàng phóng chân vọt mình đến cạnh ông cháu họ, đá bay những mảnh gỗ bốc lửa, chàng không ngờ khí lực của mình đã được khôi phục quan trọng.
Chàng biết rõ, hiện tại Cung Cẩm Bậc không thể làm một cử động nhỏ nhặt nào, chàng thầm ước mong lão hoàn thành công việc cứu chữa cho Cung Linh Linh, có như vậy chàng mới xốc cả hai ông cháu, mang ra ngoài. Cung Cẩm Bậc có rời tay khỏi huyệt đạo của Cung Linh Linh cũng chẳng phương hại gì đến tánh mạng nàng nữa.
Nhưng dùng sức lực của một người, hủy diệt lửa từ bốn phía táp vào, là làm một việc vá trời. Triển Mộng Bạch hất một mãnh gỗ đầu này, thì ba phía kia lại bị lửa xâm nhập vào gần hơn, mỗi lần chàng xoay người, ngăn chận một ngọn, là nhiều ngọn khác tắp tới. Do đó, chàng phải xoay người vòng vòng theo ông cháu Cung Cẩm Bậc, quay không ngừng mới ngăn chận được thế lửa bám gần.
Y phục của chàng thỉnh thoảng bén lửa, cháy lên từ mảnh, từ mảnh, chàng đưa tay dập tắt, y phục lại hao hụt một chút, cứ thế chống đỡ với lửa một lúc, tuy lửa không cháy đến sát người Cung Cẩm Bậc và Cung Linh Linh, song chàng gần như trần truồng rồi.
Sườn nhà chưa đổ vỡ hoàn toàn, những mãnh đoạn gỗ, những mảnh ván tiếp nối nhau mà rơi xuống, gỗ và ván đang cháy, chạm nền, lửa bắn lên, than hồng văng tung tóe như ngàn vạn điểm sao to.
Có nhiều điểm văng trúng mặt mày chàng, làm chàng rát bỏng khó chịu hết sức.
Cũng may, chưa có điểm than nào bắn vào mắt, bất quá một vài nơi trên tóc chàng bốc cháy mà thôi.
Con người ta sống là phải nhờ có thủy, có hỏa, có phong, nhưng chẳng có một tai họa nào lớn lao cho bằng những tai họa do thủy hỏa phong gây nên cả.
Bởi thế, đừng ai mọng thụ hưởng một cái gì tuyệt đối, bởi mỗi cái gì cũng có bề trái của nó, thuận chiều thì nó giúp ích ghê gớm, nghịch chiều thì nó sẽ trở thành một tai họa phi thường.
Giữa chàng và ông cháu họ Cung, thực ra nào có liên quan gì? Song hào khí của con nhà võ chân chánh bốc cao mỗi khi gặp một bất bình, có thể con nhà võ hy sinh bản thân để giữ cái hào khí cho toàn vẹn.
Cho nên, Triển Mộng Bạch bất chấp hiểm nguy, dù biết rằng cứu người là tự sát cũng chẳng hề tháo chạy để được tồn tại.
Lửa bắt cháy y phục, y phục cháy dần dần, da thịt bày ra, lửa không gặp y phục, xém vào da thịt, Triển Mộng Bạch bị phỏng mấy chỗ.
Phỏng một lần, nghe rát, phỏng nhiều lần, phải đau, phỏng mãi thì có ai đủ sức chịu đựng?
Hiện tại tự lực như tan biến hết rồi, và có một nhiệm mầu nào đó đang ngự trong trị trong đầu chàng, khiến chàng hoạt động.
Bỗng Cung Linh Linh mở mắt ra.
Đồng thời Cung Cẩm Bậc thở phào một tiếng dài.
Triển Mộng Bạch mừng vô tưởng, rú lên:
- Tiền bối chẳng việc gì à?
nhưng thở phào một tiếng, Cung Cẩm Bậc ngã người về phía hậu liền theo đó.
Thọ thương, máu ra nhiều, chân khí tiêu hao, phần chân khí còn lại chi tình trạng?
Hỏi xong, không nghe Cung Cẩm Bậc đáp, lại thấy lão ngã người ra Triển Mộng Bạch kinh hoàng.
Trong tình thế này, chàng không thể chậm trể mà cũng chẳng câu nệ tiểu tiết được, lập tức chàng cúi mình xuống, một tay bế xốc Cung Linh Linh cặp vào mình, tay kia nâng Cung Cẩm Bậc lên.
Để tự trợ lực, chàng hét lên một tiếng lớn, một mình đèo hai người, nhảy vọt qua vòng lửa đỏ.
Chàng nghe đau nhói ở đầu vai.
Một đoạn gỗ cháy dở dang rơi trúng vai chàng.
Chàng cắn răng, cố chịu đau gắng sức vọt ra bên ngoài cửa đại điện.
Ra đến bên ngoài rồi, chàng như mất cả nhân dạng. Tóc cháy, y phục cháy, mặt mày bám khói, thân hình phỏng từng chổ từng chổ, loang lỗ trông ghê gớm phi thường.
Đã thế, công lực tại tiêu hao quan trọng, công lực vừa được phục hồi năm sáu phần lại phải tận dụng, chàng hết sức xác xơ, tuy cố chạy nhưng đôi chân lạng quạng, không làm sao chạy nhanh được.
Dù vậy, chàng nào dám dừng chân?
Cứ như thế, chàng chạy mãi, đưa ông cháu Cung Cẩm Bậc đến một tòa tiểu sơn, tìm một tảng đá bằng mặt, khá rộng rãi đặt cả hai lên tảng đá đó.
Nghĩ sao chẳng rõ, chàng lại dời Cung Cẩm Bậc xuống một cột cây.
Xong xuôi, chàng ngồi xuống, đúng hơn là chàng rũ người dưới lao nhọc.
Hiện tại, dù một con thỏ chạy đến, chụp vào mặt chàng, đùa cợt, chàng cũng chẳng còn một điểm khí lực nhỏ xua đuổi con thỏ.
Chàng ngồi tại chỗ, cố thở.
Qua một lúc lâu, chàng nghe trong người hơi khỏe lại, song cơ thể vừa khỏe thì những vết thương do lửa gây nên bắt đầu hành hạ.
Trong cơn kinh hoàng, tranh sống với thần lửa, tự nhiên chàng không nghe đau.
Giờ, cơn nguy tạm thời đã qua, thì mọi ảnh hưởng lại bắt đầu làm việc trên thân xác chàng.
Nhất là vết thương nơi vai, do đoạn gỗ rơi xuống gây nên lúc chàng xung xuất biển lửa, làm chàng đau đớn phi thường.
Giả như đoạn gỗ đó to hơn một chút, có thể là xương vai của chàng phải gãy.
Tòa miếu sơn cách ngôi đạo quán không xa lắm, gia dĩ đang đêm chàng quay đầu nhìn về chỗ cũ, thấy lửa còn bốc cao ngọn, chiếu sáng một góc trời.
Thấy vùng lửa đỏ, chàng giật mình, bây giờ chàng mới ý thức cái tầm quan trọng của sự tình.
Cả ba thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
Bất giác, mồ hôi lạnh đổ ra, ướt đầu chàng, ướt cả thân thể.
Nơi cội cây, Cung Cẩm Bậc thở dài.
Triển Mộng Bạch vội đứng lên, ạ một tiếng:
- Tiền bối đã tỉnh lại!
Cung Cẩm Bậc ngơ ngác:
- Ai đó? Ai nói đó?
Giọng nói của lão khá lớn, Triển Mộng Bạch giật mình.
Giọng nói đó, không biểu lộ một hảo ý nào cả, giọng nói đó dùng với một kẻ đối lập là phải hơn.
Nhưng Triển Mộng Bạch đâu phải là đối lập với lão, thế tại sao lão lại dùng giọng nói đó với chàng?
Ảo ảnh chăng?
Dĩ nhiên chàng kinh hãi, sợ lão ngờ luôn chàng là Hoa Phi còn theo dõi lão đến đây.
Và, nếu vậy thì thật là phiền phức cho chàng lắm đó.
Cung Cẩm Bậc, mất đôi mắt từ lâu, lão dùng đôi tai thay mắt, thính giác của lão rất linh diệu, nhờ thính giác đó mà từ lúc hỏng đôi mắt đến giờ, lão thoát lọt qua nhiều cơn nguy hiểm.
Nhưng bây giờ, nghe Triển Mộng Bạch nói, lão chẳng còn nhận ra được âm thinh của chàng, thì người lão đã bị chấn động mãnh liệt trong cái diễn tiến vừa qua, sự chấn động vẫn còn đến giây phút nầy thính giác của lão cũng bị ảnh hưởng luôn.
Con người, sống bằng nghị lực sau khi rơi vào tình trạng tàn phế, nghị lực đó giúp phát triển những khiếu năng còn lại, hiện tại cái khiếu năng nghe thay vì thấy đã mất linh diệu rồi, tức nhiên nghị lực tiêu tan, dũng khí cũng tiêu tan luôn.
Triển Mộng Bạch giật mình, sợ lão phát tác, song liền sau đó, chàng thức ngộ nguyên nhân biến đổi nơi lão, bất giác thở dài.
Rồi chàng lên tiếng:
- Tại hạ đây mà tiền bối! Tại hạ là Triển Mộng Bạch. Tiền bối có nghe rõ tiếng nói của tại hạ chăng?
Cung Cẩm Bậc gật đầu, trầm buồn gương mặt.
Triển Mộng Bạch thở phào. Thì ra cơn hỏa hoạn vừa rồi chưa làm cho lão điếc luôn.
Chàng bước đến tảng đá, bế Cung Linh Linh, màng nàng đặt vào lòng Cung Cẩm Bậc.
Lão đưa tay sờ soạng khắp mình đứa cháu gái, hiện tại nàng đã thở đều đều.
Lão nhếch môi, điểm nhẹ một nụ cười, tuy héo hắt nhưng hàm chứa niềm sung sướng vô biên.
Việc làm của lão vừa qua, đã có kết quả. Tuy cái kết quả đó khong hoàn toàn do lão mà có, dù sao thì lão hy sinh hữu hiệu, chứ không đến nỗi vô ích.
Lão thở dài:
- Bình sanh lão phu không hề thọ một ân huệ của bất kỳ ai, trong bất cứ trường hợp nào.
Không ngờ, hôm nay, lúc sắp xa trời, gần đất...
Triển Mộng Bạch vội thốt:
- Việc chẳng có chi, vả lại bổn phận của tại hạ, bổn phận đó, phàm ai học võ cũng phải có. Lão tiền bối là bậc kỳ nhân, tự nhiên thừa tiểu sinh loạn giang hồ, hà tất phải thắc mắc vì một điều chẳng cần lưu ý?
Cung Cẩm Bậc lắc đầu:
- Đến lúc đã sắp sửa về cùng cây cỏ, lão thọ ân của ngươi thì làm sao lão phu đền đáp?
Thôi thì, chỉ còn có cách...
Lão dừng lại một chút rồi trầm giọng tiếp:
- Truyền thụ kiếm pháp của lão phu cho ngươi, để đáp ơn ngươi phần nào!
Truyền thọ kiếm pháp!
Sự truyền thọ lại do một bậc kỳ nhân, vũ lâm tôn kính là Thái Sơn Bắc Đẩu!
Phàm học võ, có ai không mơ ước được số mạng đãi ngộ như vậy?
Nhưng, trong ngàn mơ ước, có bao nhiêu người được toại nguyện?
Triển Mộng Bạch có mơ ước như hầu hết những người học võ chăng? Chắc chắn là có rồi!
Bởi, chàng còn mang nặng mối huyết hải thâm cừu, muốn báo cừu, phải có tài cao!
Dĩ nhiên, chàng mong muốn trong một thời gian ngắn, trở thành một kiếm khách phi phàm, chàng sẽ đi khắp bốn phương trời, tìm chủ nhân Tình Nhân Tiễn, biến cố, cho cha già ngậm cười nơi chín suối!
Tuy nhiên, chàng chưa biết phải thọ giáo nơi ai.
Đang trên đường đi tìm kỳ nhân với Tiêu Tam phu nhân, mẹ chàng, chàng trải qua bao nhiêu biến cố, chàng thọ nhân bao nhiêu oan uổng, để cuối cùng lại gặp Cung Cẩm Bậc!
Gặp được lão, biết lão là tay kiếm vô song đương thời, chàng không có chio ý mong cầu nơi lão.
Rồi vì hiệp khí hảo tâm, chàng mạo hiểm, cứu ông cháu của lão, lão lại cho đó là một cái ơn nặng đề nghị truyền kiếm pháp cho chàng để đáp ơn.
Nếu là ai, hẳn đã mừng trên chỗ mong ước, và chấp nhận liền.
Song, chàng chính sắc mặt đáp:
- Sao tiền bối xem sự việc lại quá quan trọng thế? Vì một hành động thông thường mà tiền bối lại ưng thuận truyền thọ tuyệt kỹ cho một kẻ lạ mặt sao? Tiền bối có biết tại hạ thuộc thành phần nào trong vũ lâm, xứng đáng làm một truyền nhân cho tiền bối chăng mà khinh thường thu nạp? Huống chi, Triển Mộng Bạch này dù là một tiểu tử vô danh, vẫn chẳng bao giờ làm một điều ân mà mong mỏi nhận lại một điều nghĩa! Tiền bối muốn cho tại hạ chấp nhận lại đề nghị đó, chẳng khác nào muốn cho tại hạ làm một kẻ súc sanh! Tại hạ không thể vâng lịnh tôn ý đâu, tiền bối!
Cung Cẩm Bậc giật mình:
- Ngươi cho là một việc nhỏ mọn? Ngươi, cũng biết chứ, nếu vừa rồi, ngươi chậm chân một chút, là ngươi cũng chết cháy như ông cháu ta! Sự hy sanh to lớn thế, mà ngươi vẫn nói chẳng có gì?
Triển Mộng Bạch điềm nhiên:
- Sanh mạng con người có quý là con người tha thiết với nó. Tại hạ xem cái chết rất thường thì sao gọi được là hy sanh? Đã không có ý nghĩa hy sinh, thì làm gì có ơn mà tiền bối đề cập đến việc đền đáp?
Cung Cẩm Bậc hừ một tiếng:
- Đành là ngươi không úy tử, tham sanh, song ít nhất cũng có một lý do khiến cho ngươi khinh thường cái chết, mạo hiểm cứu ông cháu ta chứ? Cái lý do đó như thế nào, ngươi nói cho ta nghe?
Âm thinh của lão biểu lộ sự kỳ quái rõ rệt.
Triển Mộng Bạch lạnh lùng:
- Cứu một người lâm nạn, cũng cần lý do nữa sao?
Trong một cuộc đối thoại, nếu có một người nặng tai thì người kia phải cao giọng một chút.
Triển Mộng Bạch sợ Cung Cẩm Bậc không nghe rõ ràng, nên thốt to tiếng quá, gần như hét.
Cung Cẩm Bậc cũng thấy thính giác của lão kém giảm, phàm những người nặng tai thường có tật nói lớn, bởi có cảm tưởng là người đối thoại cũng nặng tai như lão.
Do đó, lão cất cao giọng đối đáp, thành thử song phương đàm thoại với nhau, mà chẳng khác não cãi vã với nhau.
Cung Cẩm Bậc trầm ngâm một lúc lâu, đoạn thở dài thốt:
- Bình sanh, lão phu gặp rất nhiều người, thuộc đủ hạng tuổi, có đủ tánh khí, song thú thật chưa thấy một thiếu niên nào như ngươi! Trong khi bao nhiêu kẻ mong cầu lão phu truyền thọ sở học thì lão phu từ khước. Bây giờ, chính lão phu đề nghị, thì ngươi lại từ khước!
Ngươi càng khước từ, ngươi càng chấp ý, lão phu lại càng quyết tâm truyền thọ kiếm pháp cho ngươi. Trọn sỡ đắc của lão phu, nếu lão phu không lầm, thì chỉ có ngươi mới là kẻ xứng đáng nhất làm một truyền nhân của lão phu. Chỉ có mỗi một người là có thể bảo toàn thinh danh của lão phu sau nầy!
Triển Mộng Bạch vẫn lạnh lùng:
- Mong tiền bối đừng bức người phải làm một việc không thể làm. Như tại hạ đã tỏ bày, chấp thuận đề nghị của tiền bối, là tại hạ lợi dụng thời cơ, làm một cái ơn nhỏ, để mong cầu một sự đền đáp lớn. Chấp nhận như vậy, tại hạ sẽ mất tư cách con người, tại hạ sẽ trở thành một tên súc sanh. Nhận một kẻ súc sanh là truyền nhân, tiền bối có hãnh diện gì? Học thành tài mà mình là một kẻ súc sanh, thì học thành tài để làm gì?
Chàng trầm giọng kết luận:
- Hảo ý của tiền bối, tại hạ xin khắc ghi, còn như tuân theo ý đó, thì chắc chắn là không được rồi. Mong tiền bối xét cho!
Một sự kiện hết sức lạ lùng, bình sanh Cung Cẩm Bậc chưa hề thấy!
Người ta cầu mong suốt đời không được.
Triển Mộng Bạch, bỗng nhiên lại được, được mà không nhận nếu không lập dị, thì đúng chàng là một con người có tính cố chấp nặng vậy.
Nhưng, Cung Cẩm Bậc thấy chàng kiên quyết quá độ, thay vì bực tức, giận dữ, trái lại, lão càng vui mừng.
Lão lấy trong mình ra một quyển sách, tờ sách bằng lụa mỏng, thốt:
- Lão hu đui từ lâu, bây giờ lại mang chứng điếc, hơn thế, lão phu lại quá già, đường về âm cảnh chẳng còn xa lắm. Tuy lão phu sống quá nhiều, bình sanh đã làm chẳng biết bao nhiêu việc, dù vậy, đến lúc sắp về với lòng đất lạnh, kiểm điểm lại còn hai việc chưa xong.
Còn đọng hai việc đó, chưa thi hành, là lão phu không an lòng ra đi vĩnh viễn.
Lão dừng lại một chút, rồi thở dài, tiếp:
- Việc thứ nhất, cháu gái của lão phu còn nhỏ tuổi quá, việc thứ hai là lão phu chưa tìm được truyền nhân, để chỉ dạy tất cả sở học của lão phu. Bây giờ lão phu đem hai việc đó, ủy thác cho ngươi, Cung Linh Linh đó, ngươi đã thấy rồi, còn quyển sách này là sở học bình sanh của lão phu, trong đó mọi chi tiết đều được ghi đầy đủ. Ngươi hãy tiếp lấy.
Lão nói như thế, có khác nào một người đang hấp hối, cố trối trăn gấp những việc còn đọng lại trên đời, và sau khi trối trăn rồi là rũ áo ra đi, đi luôn không bao giờ trở lại.
Điếc!
Tuy chưa điếc hẳn, song có khác nào như điếc bởi mỗi lần đối thoại, là phải thốt to, người đối thoại cũng phải thốt to, đối thoại mà như cãi vã nẩy lửa với nhau như vậy, còn thích thú gì?
Huống hồ, ngoài cái điếc một ngày thêm nặng, lão lại mù. Một vị đại anh hùng trở về già, mù và điếc, liệu còn gì đau đớn bằng? Từ nay làm sao tranh thắng với ai nữa?
Sống có khác nào chết, sống còn phải chịu khổ, thì thà chết còn hơn!
Trong trường hợp của lão thiết tưởng chẳng ai yêu đời mà cố bám vào cái sống nữa.
Giả như người ta còn gượng chịu khổ, lây lất qua thêm một thời gian nữa, có lẽ là chỉ để chờ một vài việc gì đó còn dang dở giải quyết cho xong.
Một khi những việc đó được giải quyết tròn vẹn rồi, thì họ không thiết tha đến cái gì trên đời nữa cả.
Cái chết không đến với họ, họ cũng đi tìm!
Lão đang chờ Triển Mộng Bạch lấy quyết định.
Triển Mộng Bạch cao giọng:
- Tiền bối ủy thác việc trọng cho tại hạ, cái nghĩa khí là chẳng thể từ khước, song tại hạ chỉ chấp nhận chiếu cố tiểu cô nương mà thôi, còn pho bí kíp kia, nhất định là tại hạ không tiếp lãnh được rồị..!
Chàng dừng lại một chút, rồi nghiêm sắc tiếp, mặc dù Cung Cẩm Bậc chẳng thể trông thấy thần sắc của chàng:
- Nếu cần tại hạ xin giữ hộ quyển bí kíp đó, bảo tồn nó dành lại một ngày mai hậu, hoặc giả cho tiểu cô nương, hoặc giả cho tiền bối chỉ lịnh phải làm cách nào, chứ còn giữ để dùng, thì chẳng bao giờ tại hạ giở trang đầu, đừng nói là đọc tất quyển.
Vừa lúc đó, từ phía chân núi, một bóng người theo triền bay vút lên.
Người đó lướt nhanh vô tưởng, tay hữu cầm kiếm, đâm mạnh mũi kiếm vào ngực Cung Cẩm Bậc, tay tả hoành ngang chụp pho bí kíp của lão.
Bóng đó, tuy động tác rất nhanh, song qua bóng đêm mờ Triển Mộng Bạch cũng nhận ra được tên đồng tử cuối cùng thoát chết, môn hạ của Phấn Hậu Hoa Phi.
Thì ra tại đại sảnh tòa đạo quán, trông thấy oai khí của Cung Cẩm Bậc quá hùng mạnh, hắn hoảng sợ nên nhào lăn trên nền, thoát đi, chạy thẳng một mạch đến núi nầy.
Vô hình chung, gã lùi vào một bụi cỏ rậm, che khuất gã với bên ngoài, thành ngẫu nhiên mà gã có một chỗ nấp an toàn.
Gã nằm luôn tại đó nghỉ mệt.
Nằm một lúc, gã mỏi mòn, ngủ luôn.
Chỗ gã nằm cách không xa lắm nơi Triển Mộng Bạch đặt ông cháu Cung Cẩm Bậc.
Gia dĩ, Cung Cẩm Bậc và Triển Mộng Bạch đối thoại nhau to tiếng quá, gã giật mình tỉnh lại, lắng tai nghe rõ câu chuyện.
Gã hết sức mừng rỡ, thầm nghĩ:
“Hoa Phúc nầy đã chạy đi rồi thì chẳng còn hy vọng trở lại. Không trở lại được thì ta thành kẻ không nhà. Nếu ta mộng tưởng một ngày nào đó sẽ thành danh trên chốn giang hồ, thì hiện tại cơ hội đã đến với ta. Cung lão đầu đã mù lại điếc, còn tiểu tử kia không đáng sợ lắm, nếu bất thình lình ta xuất hiện đoạt pho bí kíp của lão Cung, ta sẽ học được kiếm pháp vô song. Trên đời nầy, còn có ai đáng cho ta sợ nữa đâu!” Tuy nghĩ thế, gã còn e ngại sợ việc bất thần.
Song, tham vọng bùng lên quá mạnh, gã cắn răng, đánh liều vụt lên.
Sự chụp vật do đó mà có.
Hứng phải mũi kiếm đó, Cung Cẩm Bậc tắt thở chết ngay.
Nhưng Triển Mộng Bạch đã thấy kịp, chàng hét lên một tiếng lớn nhảy vọt tới.
Gã đồng tử vì đâm quá mạnh tay, mũi kiếm trúng xương, dính cứng lại đó, trong cơn hấp tấp gã không làm sao rut kiếm ra nổi.
Triển Mộng Bạch đã tiếp cận gã rồi, mồ hôi lạnh đổ ra ướt đầu gã.
Không chậm trễ, gã bỏ luôn thanh kiếm, quay mình chạy bay xuống núi.
Triển Mộng Bạch bị phỏng khắp mình, vì đau đớn quá, khí lực của chàng tiêu hao hần lớn, nên lúc nhào tới định quật gã đồng tử, chàng mất thăng bằng nhào luôn, xương vai va chạm mặt đất, làm chàng đau nhói mãnh liệt.
Trong khi đó, gã đồng tử mang luôn pho bí kíp chạy bay xuống núi chàng trông thấy rõ ràng, nhưng chẳng làm gì được, khí uất bốc lên, chàng hôn mê liền.
Đêm sắp tàn, bình minh gần trở lại, gió núi bốc mạnh tung bay râu tóc của Cung Cẩm Bậc phất phơ, thanh kiếm của gã đồng tử còn cắm đúng nơi ngực lão, tua kiếm cũng bay phất phơ theo gió, quyện lấy tóc và râu lão.
Thế là xong một đời oanh liệt của vị lão anh hùng! Xưa kia lão giết người, một nhà họ Hoa bảy mạng chết dưới kiếm của lão, ngày nay lão lại chết dưới tay một gã vô danh, nhưng cái tấu xảo là gã đồng tử lại thuộc gia đình họ Hoa, một môn nhân của Hoa Phi, như vậy đúng là lẽ oan oan tương báo.
Rồi, cháu gái của lão lớn lên, tìm Hoa Phi mà trả thù, tìm Hoa Phác mà báo hận!
Oan oan tương báo!
Tại sao người ta không cởi mở oan gia, alị cố tìm cách kết thêm cho chặt hơn?
* * * Sao thưa dần, những ngôi sao còn lại cũng nhạt sáng dần.
Đêm tàn, ngày sắp đến, sương mai đã sớm rơi xuống khắp đồng núi nơi nào cũng lớp lớp trắng mờ, lớp trắng đó dần dần sáng lên, sáng đục, theo bình minh trở lại trên thế gian.
Mục đồng đi dẫn thú vào những bãi cỏ quen thuộc, thình thoảng có tiếng hát nghêu ngao, rồi tiếng sáo vang theo, mông lung, phiêu diêu trong sương...
Triển Mộng Bạch đã tỉnh lại rồi.
Chàng rút thanh kiếm của gã đồng tử khỏi ngực Cung Cẩm Bậc tìm một chỗ khuất tịnh, đào tạm một lỗ huyệt, vùi chôn thi hài của lão.
Chông xong xác chết, Triển Mộng Bạch hồi ức lại sự việc đã qua bất giác thở dài.
Không đầy mấy ngày, từ lúc rời nhà ra đi, chàng đã chứng kiến cái chết của hai nhân vật trong số Thất Đại Danh Nhân võ lâm!
Rồi chính chàng đào huyệt, chôn xác của hai vị đó!
Còn riêng phần chàng?
Đau khổ, buồn thương, uất hận, oan uổng, vất vả gian lao, hiểm nguy còn cái gì bất hạnh trên đời này chàng chưa trải qua.
Nếu cho rằng tất cả đều do số mạng, thì không hẳn đúng lắm.
Hơn ai hết, chàng phải tự hiểu lấy mình.
Và chàng hiểu cái nguyên nhân của mọi điều bất hạnh đó. Chính tại vì chàng kém võ công.
Giả như chàng có bản lĩnh khá hơn, tất có thể sự việc đã xoay chiều phần nào, và dù có bất hạnh xảy đến cho chàng cũng như cho người thì cũng bớt đi được phần nào.
Điều đáng hận hơn hết, là chàng không bảo vệ được sanh mạng của một người vừa mù vừa điếc, trước thủ đoạn của một đồng tử tầm thường.
Võ công!
Võ công cần thiết lắm vậy thay!
Đã biết là vì võ công mà nhiều điều bất hạnh xảy đến cho chàng thì tại sao chàng không tập luyện đúng mức!
Không người truyền thọ?
Bí kíp Bố Kỳ Môn về tay, chàng không nhận, bí kíp của Cung Cẩm Bậc, chàng không nhận.
Kỳ nhân đã đến với chàng, chứ nào phải chàng không gặp kỳ nhân mà cho rằng chưa có duyên may gặp người truyền tuyệt kỹ?
Có thái độ đó, Triển Mộng Bạch phải là ngu xuẩn chăng?
Chính chàng cũng chẳng biết là mình làm như vậy đúng tư cách con người chánh đại, vô tư, liêm minh hay mình ngu xuẩn.
Bất quá, chàng nhận ra rằng, chàng như thế thì lương tâm chàng an tịnh vô cùng, bời những tâm hồn thanh khiết thì làm gì vấp phải những phiền nhiễu do tham vọng cấu tạo rồi ràng buộc mãi? Tham vọng luôn luôn theo thời gian, có tăng chứ chẳng có giảm, tham vọng càng cao, phiền lụy càng nhiều, chỉ nội một cái việc bảo vệ những gì thủ đắc cũng đủ phờ phạc thân và tâm lắm rồi, nói chi đến trường hợp để mất đi rồi tìm cách lấy lại bằng mọi giá?
Chàng không lợi dụng cái nguy của người mà chiếm hữu một cách không công.
Huống chi giữ nơi mình một vật mà toàn thể võ lâm đều nuôi cái mộng tranh đoạt chủ quyền, thì đời chàng còn biết có phút giây nào an ổn, giữa cơn lốc trường cửu của những cuộc tranh chấp?
Dù sao, nghĩa là dù có ngu xuẩn, dù có vì từ khước những cái may bất ngờ đó mà chàng sẽ gặp những sự không may sau nầy thì chàng vẫn nghe lòng lâng lâng nhẹ, không thẹn với thiêng liêng, không hổ với lương tâm.
Bởi chàng vẫn còn là con người và con người đúng nghĩa, là con người không tham vọng một cach dơ dáy.
Chàng không hối hận, luyến tiếc vì đã bỏ qua nhiều dịp may, tuy nhiên con đường tương lai hiện ra lờ mờ, chừng như nhiều cạm bẫy đang chực chờ ở mỗi khúc quanh, lại cảm thấy mình còn kém quá, Triển Mộng Bạch không tránh khỏi bồi hồi, lo nghĩ...
Nhìn nấm mộ vừa đắp lên đó, sơ sài, những mảnh đất còn rời rạc, chàng than thầm:
“Suốt đời, tranh đua nhau để được tiếng anh hùng, được tiếng đó rồi khi trở về lòng đất lạnh, âm thầm như con chó chết bên đường sao? Anh hùng có một kết cuộc như thế sao?” Vất vả, gian lao hầu như dồn dập đến với chàng suốt tháng dài, thân dù bằng đá, đá cũng phải mòn, huống chi bằng xương thịt? Triển Mộng Bạch lả người trước đầu mộ, chàng nhắm mắt lại, định dưỡng thần một lúc.
Bên cạnh chàng, thanh trường kiếm không vỏ của gã đồng tử còn đó, ngoài ra có thêm một chiếc tiêu bằng trúc xanh.
Trường kiếm, đương nhiên là phải được giữ gìn, dù không cần dùng đến cũng phải giữ gìn, để cho Cung Linh Linh sau này nhìn đến nó, sẽ nhớ mãi cái cừu hận hôm nay. Nó là một chứng tích, dù là chứng tích của sự buồn thương.
Còn chiếc tiêu?
Nó là một vật quá cũ, màu xanh nhạt đi nhiều, hầu như biến thành màu vàng. Chiếc tiêu đó, chàng giữ cho chính mình, để nhìn đến nó chàng sẽ nhớ lại việc hôm nay.
Chiếc tiêu, chẳng phải là vật quý giá gì, song nó là bạn tâm tình của Cung Cẩm Bậc.
Từ sau ngày mù đôi mắt, lão chỉ lấy nó làm vui, lão đã gởi bao nhiêu ý tưởng nơi đó, lão mượn âm thanh nó để diễn tả ưu sầu, lão cũng vuốt ve nó trong những đêm trường không ngủ và nó cũng an ủi lão trong phút giây cô đơn thấm thíạ..
Nó có cái giá trị tinh thần rất lớn, Triển Mộng Bạch làm sao vất bỏ nó được dù mang theo mình một vật vô dụng là gây thêm vướng bận, mà khách giang hồ càng tránh được vướng bận, càng hay.
Chàng giữ nó như một mảnh thinh danh hào hùng, nó là vật bất ly thân của một con người hùng, có nó bên mình, như có một cái gương sáng.
Nhìn vào gương đó, chàng sẽ giữ cái tâm luôn luôn tráng, cái khí luôn luôn hùng.
Dù anh hùng có kết cuộc thảm thương, như cảnh hiện ra trước mắt với cái chết của Cung Cẩm Bậc, song có sá gì, bởi anh hùng là vong kỹ, là vị tha, bao nhiêu người chung quanh mình được ấm áp với cái khí anh hùng, tâm tráng của mình, thì mình có âm thầm về trong đất lạnh phỏng có sao?
Người ta xây hằng trăm ngôi mộ giả tạo, để nghi trang cố giấu thi hài, chẳng qua người ta là gian hùng, sợ người đời moi xác mà vầy đạp, mà băm vằm, chứ còn anh hùng thì dù vùi xác giữa hoang tàn vắng lặng lạnh lùng người đời không biết được thì thôi, chứ nếu biết được rồi, sẽ tìm mọi cách mà cải táng cho mồ êm mả ấm.
Không xa lắm, bên Triển Mộng Bạch, trong đám cỏ non, Cung Linh Linh nằm bất động.
Nàng tỉnh lại rồi, nội lực bắt đầu khôi phục, song vết thương quá nặng, nếu để cho nàng tỉnh, chắc là nàng không chịu nổi cơn đau hành hạ, nên Triển Mộng Bạch điểm huyệt nàng để nàng ngủ một giấc dài, thừa thời gian chuẩn bị cái hình hài quen với đau đớn.
Huống chi, người thân duy nhất của nàng lại mất luôn, niềm thương tâm cộng với thương thế sẽ dày vò nàng vô tưởng.
Hiện tại, nàng nên ngủ là phải hơn, giấc ngủ càng dài càng có lợi cho nàng.
Thực ra, Triển Mộng Bạch không còn làm sao hơn được khi chính mình bất lực. Bất lực vì cô đơn, bất lực vì thương thế do lửa gây nên, tự cứu, chưa chắc đã xong lại còn đèo thêm một thiếu nữ mang thương tích trầm trọng?
Bắt buộc chàng phải dừng chân lại đó.
Đi không đủ sức mà đi, bởi đi hai chứ không đi một, mà đi thì còn biết phải đi đâu, khi cả hai đều là những kẻ không cửa, không nhà? Khi nào chàng trở lại quê quán?
Chàng nhắm mắt, dưỡng thần, song chốc chốc lại thở dài.
Bình minh lên, thái dương buông sáng khắp vũ trụ, không còn ngồi tại chỗ lâu hơn nữa được, Triển Mộng Bạch bế Cung Linh Linh từ từ xuống núi.
Không lâu lắm, cả hai đến con lộ lớn.
Khách đi đường, trông thấy cả hai, đều tránh ra xa.
Triển Mộng Bạch không lưu ý đến sự kiện đó cứ ngang nhiên đi tới, người ta dù khinh miệt chàng và Cung Linh Linh là hai kẻ ti tiện nhất trên đời, điều đó có nghĩa gì đối với chàng? Người ta khinh chàng, chàng cũng có khinh lại, huống chi, chàng có cần kêu gọi đến tình thương của ai đâu?
Chàng bế Cung Linh Linh, lừ lừ bước đi, thần sắc an nhiên, không hề tỏ lộ tự ti mặc cảm.
Không lâu lắm, cả hai đến huyện Vô Tích.
Triển Mộng Bạch đi quanh quẩn khắp các con đường trong thị trấn, tìm một khách sạn tầm thường, chàng cũng không quên mua mấy món thuốc cần yếu tạm thời dịt vết thương cho Cung Linh Linh.
Y phục, thì rách bươm tả tơi, song tiền nong vẫn còn, lúc rời nhà, chàng mang khá nhiều vàng bạc, gia dĩ chàng ly gia cũng không lâu lắm, lại trong thời gian đó, chàng không có dịp xài tiền.
Nhờ vậy, hiện tại chàng mua được mấy món thuốc quý, chữa trị cho Cung Linh Linh.
Xuất thân từ một gia đình chánh trực vô tư, cho nên từ đời ông đến đời cha, cái nghèo vẫn đuổi theo mãi, Cung Linh Linh có thừa hưởng được gì, ngoài cái danh dự hão huyền của ông cha, trong mình nàng chẳng có một số nhỏ bạc vàng nào giúp nàng chi dụng độ vài ngày, sau khi Cung Cẩm Bậc chết.
Giờ đây, nàng hoàn toàn nương tựa vào Triển Mộng Bạch. Bởi kham khổ ngay từ nhỏ, nàng rất quen chịu đựng, cái nghèo có chỗ hay là vậy, giúp con người rèn luyện cái chí nhẫn nại kiên cường.
Nàng, khi có tánh nhẫn nại rồi, con người còn được thêm cái tánh trầm tịnh.
Câu hỏi thứ nhất của nàng, sau khi hồi tỉnh hoàn toàn là:
- Nội của tôi đâu?
Nàng hỏi như vậy Triển Mộng Bạch phải đáp làm sao?
Có nên nói sự thật cho nàng hiểu chăng? Nói sự thật trong lúc này, có khác nào giết chết nàng? Mà dối quanh là điều trái ngược với tính cách của Triển Mộng Bạch.. Nhưng, dối cũng không được, chàng phải bịa là ông của nàng bận việc đi đâu đó trong vài hôm sẽ trở lại đây.
Cung Linh Linh lại hỏi:
- Ông tôi có oán trách chi tôi không?
Câu hỏi đó chứng tỏ sự hiếu thuận của nàng vô cùng tận. Đã ra thân thể đó, do chính ông nội gây nên, nàng vẫn còn sợ ông nội buồn!
Triển Mộng Bạch cười nhẹ lắc đầu.
Tuy miệng điểm nụ cười, chàng nghe niềm chua xót dâng lên trong tâm tư.
Trong tình trạng đó, nàng tuyệt nhiên không hề đề cập đến sự an nguy của nàng. Nàng chỉ nhớ đến ông nội, nàng không nghe đau đớn mà chỉ lo sợ ông nội phiền trách.
Triển Mộng Bạch lắc đầu, nghĩa là ông nội nàng không phiền trách, nàng cao hứng quá chừng mắt mở to lên, rồi nhìn sững lên trần nhà mơ màng...
Trông tình cảnh của nàng, Triển Mộng Bạch càng xúc động bi hoài, chàng cảm thấy thương hại cho nàng quá.
Thương hại nàng, là phải làm sao cho nàng chóng bình phục và điểm cần yếu là đừng bao giờ để cho nàng biết sự tình.
Dĩ nhiên, sau nầy rồi nàng sẽ hiểu, hoặc tự tìm hiểu, hoặc chàng sẽ tường thuật lại cho nàng hiểu.
Còn hiện tại thì không! Bằng mọi giá, chàng phải giữ sự bí mật tuyệt đối.
Tuy nhiên, cái «sau nầy» đó chỉ được kéo dài hai hôm thôi.
Cũng như, hiện tại sẽ được thay đổi sau hai ngày.
Bởi chàng đã nói với nàng là trong hai hôm nữa, ông nàng sẽ trở lại.
Làm sao? Triển Mộng Bạch sẽ ăn nói làm sao, khi hai ngày đã mãn.
Còn nàng, tỉnh lại rồi, là biết rõ, sở dĩ mình còn sống là nhờ chiếu cố thành thật của Triển Mộng Bạch.
Tuy vậy, nàng không hề mở miệng tỏ lời cảm kích.
Tại sao? Nàng vô tình chăng? Hay, tuy còn nhỏ tuổi mà nàng đã hiểu là đại đức bất báo? Bởi bất báo nên chẳng cần thốt lời đa tạ?
Cứu mạng là cái đức tái sanh, dĩ nhiên phải là một đại đức.
Nàng không tỏ lời cảm tạ, song ánh mắt của nàng thừa nói lên điều đó, ánh mắt cảm kích rõ rệt.
Có lời nói nào bằng ánh mắt đó?
Nàng an tâm để cho Triển Mộng Bạch săn sóc.
Cứ mỗi một ngày mới, trước khi nói gì, làm gì, nàng hỏi một câu:
- Nội tôi đã trở lại chưa?
Nhờ nàng hỏi như vậy, Triển Mộng Bạch khỏi phải giải thích tại sao ông nàng đi đúng hai hôm rồi, mà vẫn chưa trở lại.
Chàng sẽ viện dần thêm lý do, thành ra cái triển hạn định hai ngày, cầm như thông qua.
Nàng vốn tính trầm tịnh, quen cô đơn nên ít nói. Hỏi xong một câu cần hỏi, có khi nàng nín lặng suốt ngày.
Một ngày! Hai ngày!
Hai ngày qua rồi, hôm nay là ngày thứ ba Triển Mộng Bạch chẳng còn việc gì phải làm sau khi soát lại vết thương của Cung Linh Linh thay thuốc cho nàng. Chàng lại gọi thêm rượu uống.
Mấy hôm rồi, chàng luôn uống rượu, uống để khuây sầu.
Tiểu nhị trong khách sạn nơm nớp lo ngại chàng không đủ tiền trả ăn, trả uống, trả trọ có ý dần dùn, chưa vội mang rượu đến cho chàng.
Rách rưới như chàng, người ta sợ chàng quỵt là lẽ tự nhiên, chàng không phiền trách ai cả.
Chàng bình thản mở bọc ra, cho tiểu nhị thấy là chàng có nhiều tiền.
Chàng cũng có thể quát tháo, mắng tiểu nhị hấp tấp, song mắng mà làm gì, khi người đời quen nhìn cái mã bên ngoài mà định giá con người?
Đến lúc đó, tiểu nhị mới yên tâm.
Cảm khái vì thân thế, hoàn cảnh chán ngán vì tình đời, Triển Mộng Bạch uống đậm.
Trong khi chàng chờ đợi thương thế của Cung Linh Linh giảm dần, bởi hai ngày qua, tình trạng của nàng khả quan lắm thì đột nhiên, qua ngày thứ ba, thương thế đó bỗng biến chuyển thành nguy kịch.
Những thứ thuốc chàng mua, toàn là những loại đắt giá, song chỉ có công hiệu xoa dịu thôi.
Do đó, trong hai hôm đầu, Triển Mộng Bạch cứ tưởng là mình dùng đúng thuốc, và tin tưởng là không lâu lắm Cung Linh Linh sẽ khôi phục nguyên trạng.
Ngờ đâu, thương thế lại biến chuyển, chẳng khác nào nàng đã quen thuốc, và thuốc hết linh hiệu rồi.
Thoạt tiên, toàn thân nàng nóng ran lên, nóng như thiêu đốt.
Nàng cắn răng, cố giữ cho tiếng rên khó chịu không bật ra khỏi miệng, nhưng niềm đau hiện rõ trong ánh mắt nàng.
Triển Mộng Bạch nhìn thoáng qua là hiểu ngay nàng đang cố chịu đựng cơn hành hạ mãnh liệt.
Làm sao? Bây giờ chàng sẽ làm gì cho nàng?
Trong thâm tâm, chàng hết sức thán phục sự kiên trì của nàng.
Tại đại điện tòa cổ quán, nàng đã tỏ rõ sự kiên trì đó một lần rồi, giờ đây, nàng lại biểu lộ thêm một lần nữa.
Triển Mộng Bạch cảm thấy mình cũng đau đớn theo nàng.
Chàng gọi nhanh một tên tiểu nhị, hỏi hắn xem trong thành huyện Vô Tích nầy, có vị y sư tài ba nào chăng?
Tên tiểu nhị chỉ đường cho chàng tìm đến vị y sư đó.
Thời gian đã về đêm. Triển Mộng Bạch bất chấp đêm tối, lập tức đến nơi.
Khi chàng đến nhà y sư, đêm đã khuya rồi, y sư sắp sửa đi ngủ thấy chàng, trông vào y phục chàng, lão bất mãn hỏi qua loa mấy tiếng đoạn bảo:
- Đêm đã khuya, phần ta có việc bận lo, ngươi nên tìm đến một y sư khác, ta không đi được đâu!
Lão thốt xong, quay mình, định bước vào hậu đường.
Cử chỉ đó, hẳn là một cách đuổi khách, tuy có phần bất nhã song cần gì? Khách tỏ vẻ lam lũ quá, dù có đi theo khách, lão cũng chẳng có lợi gì.
Huống chi, làm cái nghề chữa bịnh, đâu có ai bị bắt buộc phải nhân đạo?
Triển Mộng Bạch thấy thái độ của y sư khả ố quá chừng bất giác sôi giận, gằn từng tiếng:
- Mạng người quý hơn vàng, bịnh nhân đang cơn hấp hối, lão trượng nỡ từ khước tế độ à?
Tại hạ hỏi quyết lão trượng, đi hay không đi?
Một tiếng bình vang lên.
Để thị oai, chàng vung tay đấm xuống chiếc ghế trà bên cạnh, mặt ghế kêu vang, chân ghế gãy vụn.
Y sư hoãng sợ không dám từ chối nữa song mắng thầm chàng.
Ngồi trên xe do Triển Mộng Bạch thuê đến rước lão, lão luôn luôn thở dài, tỏ cái ý bất mãn rõ rệt.
Triển Mộng Bạch lờ đi, giá như lão có mắng chàng to tiếng chàng cũng cố chịu, miễn sao lão chịu đến xem bịnh chứng của Cung Linh Linh là được.
Về đến khách sạn, Triển Mộng Bạch đưa ngay y sư vào phòng Cung Linh Linh.
Nhìn qua thương thế của nàng, lão lắc đầu, cau mày lại, rồi lè lưỡi đoạn thốt:
- Nếu mũi kiếm nhích qua độ ba phân thôi, là quả tim bị thương rồi, quả tim bị thương thì có trời cứu!....
Triển Mộng Bạch hân hoan ra mặt:
- Tim không bị chạm, mạch tim vẫn còn, thì tánh mạng chưa đến nỗi nào!
Oán khí còn tràn ngập trong tâm, y sư lạnh lùng tiếp:
- Lão phu nói là tim chưa bị chạm, chứ nào có nói là mạch tim còn nguyên đâu?
Triển Mộng Bạch biến sắc:
- Như vậy là... nàng... nàng...
Y sư đứng lên, vòng tay:
- Y thuật của lão phu đến đây là cùng, lão phu tự nhận mình bất lực. Công tử thứ tội cho vậy!
Trông bộ dạng của y sư, Triển Mộng Bạch nhớ lại, ngày nào tại nhà chàng, Tần Sấu Ông cũng có thái độ đó khi soát qua tình trạng phụ thân chàng.
Cái bực hôm nay được nung nấu lên do sự hồi ức việc cũ chàng toan phác tác, song nghĩ lại, có làm gì đi nữa, bất quá y sư chỉ chữa trị vờ vĩnh, chứ chắc chi lão kiêng oai mà chữa trị tận tình?
Chàng nén giận, đưa lão ra ngoài.
Sau đó, chàng còn tìm thêm mấy vị y sư nữa, nhưng vị nào đến xem qua tình trạng nàng cũng lắc đầu, cáo lui, không một ai dám xưng tài cho thuốc.
Không biết làm sao hơn, chàng đành thúc thủ, nhìn Cung Linh Linh, miệng tuy an ủi nàng, song ánh mắt mờ dần vì màn lệ thảm.
Đột nhiên, Cung Linh Linh nắm cổ tay chàng, bóp nhẹ, nhếch nụ cười khổ, thốt:
- Thúc thúc không nên quá lo ngại cho tôi! Từ lâu lắm rồi tôi biết là tôi sanh ra trên đời này, chỉ để chịu khổ đau buồn tủi thôi, một kiếp sống như vậy, càng kết thúc sớm, càng hay, còn gì đáng lưu luyến cho tôi phải thiết tha! Tôi biết là mạng của tôi yểu, tôi sẵn sàng vĩnh viễn ra đi, thúc thúc ạ!
Trời!
Mới ngần ấy tuổi đầu, lại thốt lên những lời bi đát, nghe não nuột làm sao!
Triển Mộng Bạch có cảm tưởng là từng nhát đao bén và lạnh cứa qua tâm can, chàng vô cùng xúc động với hai tiếng thúc thúc do nàng vừa thốt!
Đưa bàn tay gạt qua nước mắt, quét đi phần nào lệ đọng bờ mi, chàng cố gượng cười, đáp:
- Ai cho rằng đời Linh Linh là một chuỗi dài đau thương sầu khổ? Ai cho rằng Linh Linh thọ yểu? Không! Không đúng cả! Hiếu thuận như Linh Linh, khi nào hoàng thiên lại cho đoản thọ? Phải có những ưu đãi dành riêng cho Linh Linh sau này! Đừng nói nhảm Linh Linh!
Cung Linh Linh lắc đầu:
- Thúc thúc đừng an ủi tôi, vô ích! Tôi có ra đi vĩnh viễn điều đó không tìm cho tôi tiếc hận chút nào. Còn một điểm nầy làm cho tôi thắc mắc mãi, là tại sao đến hôm nay ông nội tôi chưa trở lại?
Chợt nàng quay mặt về hướng khác.
Triển Mộng Bạch kịp trông thấy bờ mi nàng chớp chớp.
Bờ mi chớp dưới ánh đèn, là bờ mi đẫm ướt, thì ra nàng khóc. Nàng quay mặt đi, dấu những hạt lệ sắp tràn ra, nàng không muốn cho chàng thấy những hạt lệ đó.
Tuy trầm lặng, nàng có tánh kiên trì, nàng không muốn chàng trông thấy điểm nhu nhược của nàng.
Bởi lệ, là tượng trưng sự yếu hèn, nhu nhược.
Một lẽ khác, nàng biết mình sắp chết, nàng gượng làm ra vẻ thản nhiên, cốt không để cho ai thương cảm vì nàng. Nếu để cho người ta thấy nàng khóc, người ta sẽ nghĩ là nàng có bi hoài, tự nhiên người ta phải thương cảm.
Triển Mộng Bạch kêu lên:
- Linh Linh! Chưa có gì khiến cho chúng ta phải tuyệt vọng! Linh Linh không thể chết vô lý như vậy được! Bằng mọi cách, Tiêu Thúc phải cứu Linh Linh cho kỳ được! Nếu không, Tiêu Thúc cũng chẳng thiết sống làm gì.
Chàng quay mình, bước những bước dài và nhanh ra khỏi phòng nàng. chàng bước luôn ra khỏi cửa khách sạn.
Chàng đi đâu?
Chàng đi đâu được, giữa lúc đêm khuya, những con đường xuyên thành huyện tuy nhiệt náo về ngày, song giữa đêm khuya rất vắng vẻ lạnh lùng, nhà nhà đều đóng cửa, chàng còn tìm ai?
Vả lại, chàng có quen biết ai nơi nầy mà tìm?
Chàng như đi hoang, đi quanh quẩn, cốt sao đừng lui lại trong gian phòng, bởi nhìn Cung Linh Linh trong cảnh tình đó chàng mất cả tâm trí, mất cả nghị lực. Hiện tại, chàng cần có trí sáng suốt, có nghị lực kiên cường để đối phó với tình thế.
Gió đêm từng cơn quét qua gieo lạnh.
Gió mang theo luồng, những lớp sương mờ, cũng lạnh.
Nền trời điểm ánh chen chúc những vì sao, sao thưa dần dần. Ánh sao nhạt mờ dần dần.
Rồi phuông Đông rực sáng, vầng sương nơi phía đó, phản chiếu một màu đục đục mơ hồ.
Không lâu lắm, trên đường đi, khách bộ hành đã bắt đầu xuất hiện.
Những khách bộ hành đó, thoạt trông thấy chàng, phờ phạc xác xơ mường tượng kẻ điên mà cũng giống hành khất, không ai dám đến gần chàng.
Bỗng, có tiếng kêu kinh hãi vang lên.
Một đoàn xe bảo tiêu, rầm rộ xuất hiện trên con đường lớn.
Trên cỗ xe đầu, có một ngọn cờ, là cờ bằng gấm, giữa nền gấm có thêu hình một con sư tử màu hồng.
Hai vị tiêu sư mặc y phục hoa lệ, ngồi trên lưng ngựa, ngựa cất vó song song, hai vị đưa tay chỉ trỏ, bên này bên kia, trên trời dưới đất, nói nói cười cười.
Họ có vẻ tự đắc quá, phàm hộ tống xa bảo tiêu, thì ai cũng đề cao cảnh giác, phòng biến cố bất ngờ, song hai vị này ung dung như thường, chừng như nghĩ mình là kẻ bất khả xâm phạm, nên chẳng cần thận trọng.
Triển Mộng Bạch đang bị cảnh trạng thừa chết thiếu sống của Cung Linh Linh ám ảnh, thành nghĩ vẫn nghĩ vơ, quên hẳn thực tại.
Bọn tiêu sư có lẽ cũng từng chứng kiến những cảnh tử vong, nên mạng người đối với họ chẳng còn giá trị gì.
Do đó, một đàng không sợ chết, chẳng cần quan tâm đến sự việc bên mình, trước mắt dù đoàn xe đang lăn bánh đều đều cũng không nhớ đến là mình phải tránh đường.
Một đàng thì quen thấy người chết xem thường tánh mạng của người, cũng không quan tâm đến những khách bộ hành tại khoảng đường đội xe lướt qua.
Khách bộ hành thì nép vào lề, chỉ có mỗi một mình Triển Mộng Bạch vẫn cứ nghinh nang giữa lộ, xác thân đi đông nhưng hồn chơi vơi tận đâu.
Đang vui câu chuyện, hai vị tiêu sư bỗng thấy một lão hết sức lam lũ, phờ phạc đứng giữa đường, ngăn trở đoàn xe, cả hai cùng cau mày.
Người bên tả hét to một tiếng.
Người bên hữu quát lên:
- Tránh mau!
Y cử cao ngọn roi ngựa, toan quất xuống đầu Triển Mộng Bạch.
Đúng lúc đó, Triển Mộng Bạch quay mình lại nhìn hai vị tiêu sư.
Người bên tả sững sờ vội đưa tay ngăn chặn người bên hữu.
Cái nhìn của Triển Mộng Bạch sắc bén vô cùng, ngươi bên tả mường tượng có thấy ánh mắt đó ở đâu một vài lần.
Người bên hữu lẩm nhẩm:
- Chừng như bằng hữu không phải là người lạ? Chẳng haỵ..
Triển Mộng Bạch trông thấy hai vị tiêu sư chợt biến sắc, rồi nhe một người hỏi như vậy, chúng càng biến hơn, lắc đầu nhanh:
- Các hạ lầm!
Vừa đáp, chàng vừa bước gấp vào thềm nhà.
Trong tình cảnh nầy, chàng còn để cho cố nhân nhận ra chàng làm gì chứ?
Chàng bước tránh vào thềm nhà rồi, khoảng đường thành trống trải, hai vị tiêu sư giục ngựa đi tới.
Người bên tả, cúi đầu suy nghĩ.
Người bên hữu mỉm cười, hỏi:
- Hán tử đó tiều tụy xác xơ quá chừng, Tây Môn huynh lại có thể quen biết một gã như vậy sao? Hay hắn giống một người nào đó rồi Tây Môn huynh nhìn lầm?
Người bên tả lắc đầu:
- Một người có đôi mắt đó, quyết chẳng phải thuộc hạng tầm thường đâu! Đáng hận cho tại hạ là biết rõ con người có đôi mắt đó, tại hạ có thấy y ở tại địa phương nào đó, một đôi lần, song trong nhất thời, không nhớ ra đấy thôi!....
Nguơì bên tả, có gương mặt đỏ, thân hình khôi vĩ, khí thái oai minh vô cùng. Gia dĩ y vận y phục hoa lệ, trông có vẻ là một vị công tử.
Họ đi xa dần dần.
Triển Mộng Bạch nhìn theo bóng họ, mơ màng...
Bọn tùy tùng đoàn xe bảo tiêu lướt qua, chúng thay phiên nhau chốc chốc lại hô to danh hiệu của Tiêu Cục.
Một tên cất cao giọng hô lớn:
- Oaị.. Chấn... Bá... Phương...
Gã hô lên dừng lại một tiếng, cố nhấn mạnh, để tăng thêm cái chí khí của danh hiệu.
Tên thứ hai tiếp nối liền, cũng dừng lại ở mỗi tiếng, cũng nhấn mạnh từng tiếng:
- Nam sư Tây Môn, Bắc sư Đông Phương, Võ lâm Song Sư, Oai chấn Bát Phương...
Rồi chúng dừng, dừng một lúc, lập lại, cũng y cái điệu bộ đó.
Chúng làm như đoàn xe bảo tiêu là một cuộc du hành của vị quan to, hay của một vị vua, có tiền hô, hậu ủng.
Quả có hậu ủng thật.
Bởi cuối đoàn xe, có hai người. Hai người này không nói năng chi hết, vũ khí lủng lẳng bên mình, thỉnh thoảng nhìn ngang, nhìn dọc thời thường lưu về phía hậu.
Triển Mộng Bạch thở dài từ từ trở vào khách sạn, chàng đứng bên ngoài cửa phòng, bồi hồi một lúc, sau cùng đẩy cửa bước vào.
Bình minh đã lên.
Những tia sáng sớm qua khe cửa, song cửa vào trong phòng.
Gian phòng, thuộc hạng rẻ tiền nhất, khách sạn lại thuộc hạng thấp nhất trong huyện thành, thì gian phòng thượng đẳng cũng chẳng tránh khỏi tồi tàn, huống hồ là một gian hạ đẳng?
Đồ vật sơ sài, trần nhà thì nhện giăng mắc khắp nơi, dưới nền thì bụi lớp dày, lớp mỏng, có chỗ đùn đống lại, trông dơ dáy quá chừng.
Nhân công trong khách sạn không buồn quét dọn bởi chúng nghĩ rằng hạng lam lũ như chàng, được trọ trong một gian phòng kín đáo lá quý lắm rồi, cần gì đến cái sự sạch sẽ?
Mà chàng cũng rối loạn tâm thần từng chập, rối loạn vì hiện cảnh, rối loạn vì tương lai, vì dĩ vãng, chàng cũng không buồn lưu ý đến cái khung tạm bợ trong mấy hôm.
Chàng gọi khẽ:
- Linh Linh! Bây giờ Linh Linh nghe trong mình ra sao?
Bỗng, chàng dừng chân lại khung cửa. Mắt chàng giương tròn, nhìn trừng trừng chiếc giường. Mồm chàng há hốc, có lẽ chàng muốn kêu lên một tiếng to, song chiếc hàm đã cứng.
Trên giường, chăn màn tốc lên, chẳng có bóng người!
Cung Linh Linh đi đâu? Làm sao nàng đi được?
Chàng nhìn qua khung cửa sổ, hai cánh cửa mở toang! Cửa sổ phòng của người bệnh thừa chết thiếu sống, làm gì lại mở toang mà ai mở? Linh Linh đi đứng được sao?
Trên mặt bàn, một mảnh giấy đặt dưới chiếc chén, trên giấy có mấy hàng chữ, viết nguệch ngoạc nét chữ trẻ con.
Triển Mộng Bạch đọc liền:
“Thúc Thúc ơi! Tôi làm phiền lụy đến Thúc Thúc trong mấy hôm, thật tôi hết sức áy náy.
Giờ đây tôi phải ra đi, tìm nội tổ tôi, đi tìm song tôi biết chắc là vĩnh viễn khổng thể tìm gặp được người! Không tìm gặp được người, ít nhất tôi cũng tìm được một nơi nào đó, yên tịnh, để chết yên tịnh. Tìm người trên thế gian không gặp, thì hẳn phải có lúc tôi sẽ gặp người hoặc nơi thiên đàng hoặc tại âm cảnh. Thúc Thúc có tin là tôi sẽ gặp nội tổ tôi chăng?” Nét bút trẻ con, ý tứ cũng trẻ con, nhưng có cái gì kiên quyết phi thường trong chữ đó, cái kiên quyết được đúc kết bằng đau thương thống khổ.
Triển Mộng Bạch vừa đọc, vừa run tay, tim chàng đập mạnh, lồng ngực phập phồng.
Chàng không còn khí lực đứng vững nữa, buông mình rơi xuồng chiếc ghế gần đó.
Bỗng, từ bên ngoài, một tràng cười vang lên, lồng lộng, vọng vào.
Rồi một hán tử mặt đỏ, vận áo gấm, đẩy cửa. Cửa không cài liền bật ra.
Hán tử lại cười, vẫn sang sảng như tràng cười trước, hắn thốt:
- Triển thế huynh! Cuối cùng rồi tại hạ cũng nhớ ra chính là Triển thế huynh! Thế huynh đã đến vùng Vô Tích nầy, tại sao không quá bộ đến Tiêu Cục của tại hạ? Dù sao thì tại hạ cũng có một vài chén rượu nhạt dâng hiến thế huynh...
Hắn chợt thấy rõ thần sắc của Triển Mộng Bạch. Hắn ngưng ngay câu nói, đồng thời nụ cười viền quanh vành môi hắn cũng tắt lịm.
Qua phút giây sửng sốt, hắn tiếp:
- Giả như Triển thế huynh có điều chi lo nghĩ đến, phiền muộn nặng nề, thì thế huynh cứ tỏ thật với tại hạ! Bởi, bất cứ trong thời khắc nào, tại hạ cũng nhớ đến đoạn giao tình của tại hạ với lịnh tôn ngày trước, làm được cái gì cho thế huynh, tức là chứng tỏ còn hoài niệm cố nhân của tại hạ đó, thế huynh!
Hán tử lại dừng, đoạn nghiêm giọng tiếp luôn:
- Một vài năm cách biệt, phỏng có nghĩa gì, chẳng lẽ thế huynh không còn nhớ đến Tây Môn nhị thúc?
Cố nhân của thân phụ! Cố nhân của chàng!
Trong trường hợp tha phương lạc phách, gặp lại cố nhân, cảm tình của cố nhân ngày nào đối với phụ thân hiện như dồn hết cho chàng, cố nhân lại tỏ rõ cái vẻ thành khẩn, Triển Mộng Bạch chua xót vô cùng.
Thân phận của chàng giờ đây có đáng cho cố nhân quan tâm ưu đãi nữa chăng?
Chàng nghe cay nơi mắt, không muốn cho đối tượng thấy chàng rơi lệ vội quay mặt về hướng khác.
Quay mặt về hướng khác rồi, chàng khoanh tay trao mảnh giấy do Cung Linh Linh lưu lại, cho cố nhân.
Cố nhân, là chỉ nhân chỉ điểm tại Giang Nam của Hồng Sư Tiêu Cục, y cùng Đông Phương Sư, một nhân vật lừng danh tại Bảo Định phủ, thuộc vùng Hà Bắc, từng được giang hồ tới xưng là Vũ Lâm Song Sư.
Y chính là Tây Môn Sư.
Xem xong mảnh giấy. Tây Môn Sư thoáng biến sắc, hỏi qua Triển Mộng Bạch mấy câu, rồi thở dài, thốt:
- Điều đáng trách, là thế huynh không sớm... Hừ! Sự việc đã qua như thế này rồi thì...
nói gì cũng bằng thừa. Chúng ta còn cái may cuối cùng là nàng nhỏ tuổi, lại cô đơn, chắc chẳng đi đâu xa, là đi lại không định hướng. Bây giờ, thế huynh hãy về với tại hạ, ngơi nghỉ để lấy lại sức khỏe và tinh thần, tại hạ sẽ cho các thuộc hạ phân tán khắp các vùng phụ cận tìm nàng, có lẽ chúng ta sẽ tìm gặp nàng.
Triển Mộng Bạch gật đầu, quay mình bước theo Tây Môn Sư.
Đi theo Tây Môn Sư, chàng cũng chẳng biết là mình có đồng ý chăng, bởi hiện tại, chàng vừa bối rối, không một chủ trương, vả lại qua mấy hôm liền, chàng vất vả gian lao cực độ mệt mỏi quá chừng, thân thể như rã rời, chàng bước đi như cái máy do Tây Môn Sư điều động.
Chỉ điếm Hồng Sư Tiêu Cục có cái khí phái kiêu hùng vô tưởng, kẻ nào quen hống hách, đến đó rồi, cũng phải gờm gờm mà dẹp bớt oai phong phần nào.
Chưa vào Tiêu Cục, vừa đến cửa, Tây Môn Sư đã gọi gia nhân oang oang, bảo dọn rượu thịt ngay đoạn và đưa Triển Mộng Bạch vào.
Một lịnh truyền ra, trăm người thi hành, trong thoáng mắt, một bàn tiệc long trọng được dọn nơi phòng khách.
Dĩ nhiên, tiệc đó dành đãi Triển Mộng Bạch.
Bao nhiêu ngày qua, từ lúc xa gia đình, gặp toàn là phũ phàng, oan uổng, hiểm nguy, bỗng nhiên lại được tiếp đón vừa trọng hậu vừa thành khẩn như thế này, Triển Mộng Bạch xúc động vô cùng, niềm cảm kích dâng lên, nếu không ngại mang tiếng là con người ủy mị, chàng bật khóc lên ngay.
Rượu qua ba tuần, Tây Môn Sư nói:
- Tại hạ vừa làm xong chuyến bảo tiêu đến Hoán Nam mới về tới huyện. Vô tình bất ngờ lại gặp thế huynh. Gặp thế huynh, hẳn tại hạ phải tiếp đãi thế huynh cho thỏa lòng hoài niệm qua thời gian cách biệt. Dù có phải nghỉ sinh hoạt lại mấy hôm cũng chẳng sao.
Y mơ màng một chút như bâng khuâng nghĩ ngợi xa vời, rồi tiếp:
- Mang tiếng tại hạ bỏ luôn cái nghề này!....
Triển Mộng Bạch nói:
- Nhị thúc định bỏ nghề, có phải vì cái việc quanh Tình Nhân Tiễn chăng?
Tây Môn Sư thoáng biến sắc.
Trầm ngâm một lúc y thở dài tiếp:
- Phải! Có một ngày cách đây không lâu, dọc đường, tại hạ gặp ba anh em họ Hạ....
Chắc thế huynh biết Lao Sơn Tâm Nhạn chứ. Gặp ba anh em họ tại hạ mới biết được hung tin về lịnh tôn đại nhân. Già như lịnh tôn, cũng chết, già như tại hạ, rồi cũng chết, chính khí của vũ lâm không còn do bọn già duy trì, mà phần việc đó từ nay hẳn thuộc về giới trẻ, lứa tuổi của thế huynh.
Triển Mộng Bạch toan nói gì đó, chợt một thuộc hạ của Tây Môn Sư từ hậu đường bước ra đến sát bên y, thì thầm mấy tiếng.
Tây Môn Sư khẩn trương ra mặt, cao giọng hỏi; - Hắn đến đây từ lúc nào? Ai đã chủ trương lưu hắn tại đây?
Gã thuộc hạ đáp:
- Đêm qua, nhị gia đến đây, nói là muốn lưu lại trong tiêu cục nầy còn ai dám nói gì?
Tây Môn Sư hừ lạnh một tiếng, lại hỏi:
- Hắn đã ngủ chưa?
Vừa trở về Vô Tích, gặp Triển Mộng Bạch, y mời ngay chàng đến tiêu cục, rồi sai gia nhân dọn tiệc đãi chàng. Chính y cũng chưa vào hậu đường, thăm qua thân nhân, xem xét gia đình, tắm rửa, thay đổi y phục, cho nên y chẳng hay biết gì, tại nhà có sự chi lạ.
Vị tiêu sư cùng đi với y, về đây trước y, người đó chẳng bận việc gì, nên đã tắm rửa, ăn uống, có lẽ giờ này đã ngủ cũng nên.
Cái người mà y gọi là hắn đó, nhất định chẳng phải là bạn đồng nghiệp, cùng đảm nhiệm công tác vừa qua.
Thế thì, người mà y gọi là hắn đó, là ai?
Gã thuộc hạ chưa kịp đáp, từ bên cạnh, có tiếng thốt oang oang:
- Tiểu đệ nghe nói đại ca vừa trở về, và đang uống rượu chứ chưa đi nghỉ, nên hấp tấp dẫn người bằng hữu, đến giới thiệu với đại ca.
Nghe âm thinh đó, Triển Mộng Bạch biến sắc liền.
Rồi bức màn che đại sảnh được vẹt qua một bên, hai người xuất hiện:
một cao một thấp.
Người cao có gương mặt vàng như nghệ, như làn da mặt một bịnh nhân nan y, còn người thấp có đôi gò má không thịt, mắt luôn luôn láo liên.
Hai người đó, chẳng xa lạ gì đối với Triển Mộng Bạch, chính là Kim Diện Thiên Vương Lý Quan Anh và Bút Thượng Sanh Hoa Tây Môn Hồ.
Tuy Tây Môn Sư bất mãn song phải gắng gượng đứng lên, giữ cho trọn lễ.
Y miễn cưỡng điểm một nụ cười:
- Khỏi cần giới thiệu, tại hạ thừa hiểu Lý huynh!
Y quay qua Tây Môn Hồ, nói:
- Làm sao mà Lý huynh cùng đi với ngươi?
Tây Môn Hồ bật cười khanh khách:
- Thì ra Lý huynh có quen biết trước đại ca của tại hạ? Đại ca của tại hạ đối xử rất tốt với mọi người nhưng riêng với người em đồng bào thì lạị..
Bỗng Lý Quan Anh biến sắc mặt.
Hắn giương mắt nhìn về phía hậu của Tây Môn Hồ, hắn đã trông thấy Triển Mộng Bạch.
Hắn kêu lên kinh hãi:
- Triển Mộng Bạch? Thì ra người còn sống?
Triển Mộng Bạch cười lạnh, ngồi bất động.
Lý Quan Anh run người lên, lí nhí:
- Nhưng người đưa nàng... đến nơi nào?... Hở...
Hắn nhấc chân lên, định bước tới.
Tây Môn Sư liền giương mặt, dịch chân qua, chận trước mặt hắn gằn giọng lại:
- Chẳng lẽ Lý huynh quên nơi đây là đâu?
Lý Quan Anh đỏ mặt, cao giọng thốt:
- Được! Được! Tiểu tử họ Triển kia, kể ra ngươi cũng tốt số đấy.
Hắn hừ một tiếng, đoạn nói:
- Ngươi định bước ra bên ngoài chăng?
Hắn đi khắp mọi nơi từ đêm đó, tìm Trần Thanh Như, hắn chưa hay biết gì đã bị Tôn Ngọc Phật điểm vào tử huyệt.
Bất ngờ đến đây, hắn lại gặp Triển Mộng Bạch.
Gặp kẻ cướp người yêu, còn ai giữ bình tĩnh được chứ? Tự nhiên Lý Quán Anh mất cả tự chủ.
Tây Môn Hồ nói liền:
- Lâu nay người chạy thoát, lần nầy, liệu ngươi tránh khỏi chết chăng?
Mặc cho Tây Môn Sư đứng chắn phía trước mặt cả hai. Lý Quan Anh và Tây Môn Hồ, một do tả, một do hữu, vòng qua Tây Môn Sư bọc thẳng đến Triển Mộng Bạch.
Tây Môn Sư vỗ tay xuống bàn kêu một tiếng bốp, chân bàn suýt gãy, rồi quát to:
- Đứng lại đó ngay!
Tây Môn Hồ cất tiếng:
- Đại ca nên...
Tây Môn Sư càng quát lớn:
- Ai là đại ca của ngươi? Tây Môn Sư này không thể có một người em cỡ ngươi? Trước mặt ta, ngươi dám vô lễ như vậy, ta nhất định không cho ngươi ở lại đây thêm một giây, một phút! Ngươi hãy đi đi! Đi gấp!
Tây Môn Hồ cười lạnh:
- Xa cách nhau qua nhiều năm, bây giờ gặp lại, tiểu đệ không ngờ đại ca đổi tánh đến độ kết giao với dâm tặc...
Hắn chưa dứt câu. Triển Mộng Bạch vụt đứng lên, bước ra ngoài.
Lý Quan Anh cấp tốc theo sau, gần như chạy đuổi, sợ chàng đi mất.
Tây Môn Sư biến sắc mắt xanh dờn, vọt theo liền.
Trong thoáng mắt, cả ba ra đến bên ngoài đại sảnh.
Lý Quan Anh cao giọng thốt:
- Tây Môn huynh! Tốt hơn hết, đừng can thiệp vào việc của người!
Tây Môn Sư nổi giận:
- Các hạ muốn gì chứ?
Lý Quan Anh không đáp, bước nhanh, vọt mình ra bên ngoài cửa tiêu cục, rồi quay mình lại, hỏi:
- Họ Triển kia, ngươi có can đảm ra đây chăng?
Tây Môn Sư ngăn chặn:
- Triển thế huynh! Cứ đứng đó...
Nhưng, Triển Mộng Bạch đã ra bên ngoài rồi.
Lý Quan Anh nhấc động đôi vai, tay tả vung quyền, tay hữu phát chưởng, tấn công liền.
Tây Môn Sư không đợi Triển Mộng Bạch phản ứng, lập tức đảo bộ lướt tới, nghinh đón thế công của Lý Quan Anh.
Cả hai bắt đầu động thủ ngay tại trước cửa tiêu cục.