watch sexy videos at nza-vids!
Truyện TAY SÚNG CUỐI CÙNG-Chương 24 - tác giả DAVID BALDACCI DAVID BALDACCI

DAVID BALDACCI

Chương 24

Tác giả: DAVID BALDACCI

DD ã mấy ngày nay Web chưa đọc tờ báo nào. Cuối cùng anh mua một tờ Washington Post và đọc lướt qua những trang báo khi ngồi uống cà phê bên một chiếc bàn kê gần đài phun nước ở Trung tâm Reston Town.


Trước đó anh đã lượn lờ khắp các phố xá Washington và tích lũy một lượng hóa đơn đáng kể cho Cục thanh toán. Thỉnh thoảng Web lại ngẩng đầu lên và mỉm cười ngắm nhìn những đứa bé cố leo lên bờ tường để tung những đồng xu vào đài phun nước trong khi những bà mẹ thì cẩn thận níu chặt đuôi áo chúng để con mình chẳng may không cắm đầu xuống nước.


Anh đã xem lướt qua các trang Thể Thao, Đô Thị, Phong ách. Đọc ngược từ trang cuối về trang nhất. Đến trang A6 thì thái độ hờ hững của anh vụt biến mất. Anh đọc đi đọc lại bài báo đến ba lần liền và chăm chú nhìn những bức ảnh đi kèm. Khi anh ngồi lại và bình tĩnh suy nghĩ về những gì vừa đọc trong đầu Web bắt đầu xuất hiện những kết luận tường chừng như không thể và ít nhiều gượng gạo. Bất giác anh sờ lên phần mặt bị thương của mình rồi lần lượt áp đầu ngón tay vào những lỗ sẹo do đạn gây ra trên người. Chẳng nhẽ sau ngần ấy thời gian anh lại sắp phải đối mặt với nó nữa sao?


Anh bấm số gọi nhanh trên máy. Bates không có trong văn phòng.


Web bèn nhắn vào máy nhắn tin của anh ta. Vài phút sau anh ta gọi lại cho anh. Web vội kể cho anh ta nghe về bài báo.


“Luis Leadbetter. Đó là vị thẩm phán ở Richmond người đã làm chủ tọa phiên tòa xét xử vụ án Hội Tự Do. Bị bắn. Watkins là công tố viên trong vụ này. Ông ta bước vào nhà và nó nổ tan tành. Cả hai vụ đều xảy ra cùng một ngày. Rồi còn những gì xảy ra với Đội Charlie nữa. Chúng tôi chính là đội được huy động theo yêu cầu của Văn phòng Địa bàn Richmond. Chính tôi đã hạ hai tên trong nhóm này trước khi bị bỏng mặt và lãnh hai viên đạn. Rồi còn tên Ernest B. Free kia nữa. Hắn trốn tù. Cái gì? Cách đây ba tháng rồi, anh biết chưa? Hắn đã mua chuộc một người lính gác, nhờ anh ta kiếm một chiếc xe thùng, rồi cắt cổ anh ta để bịt đầu mối.”


Câu trả lời của Bates làm Web sững sờ. “Chúng tôi biết hết rồi. Web.” Máy tính của Cục đang sục sạo thông tin liên quan đến vấn đề này thì hai cái chết kia, hai vụ mưu sát thì đúng hơn xảy ra. Và còn chuyện này nữa.”


“Gì vậy?”


“Tốt nhất là cậu vào đây mà xem.”


Khi đến trụ sở của WFO. Web được dẫn lên phòng Điều hành Tác chiến Chiến lược với tất cả những loại chuông báo động và còi hụ mà người ta thường thấy ở một cơ quan phòng chống tội phạm giàu sụ của Nhà nước Liên bang, cả những bức tường bọc đồng tiêu chuẩn, những hệ thống an ninh nội bộ cực kỳ hiện đại, tiếng sóng nhiễu ù ù chống nghe lén ở tất cả những khu vực dễ bị tổn thương, máy soi võng mạc và nhận dạng vân tay, hàng dãy siêu máy tính đắt tiền, những thiết bị hiển thị hình ảnh và quan trọng nhất là thừa mứa cà phê ngon vừa pha cùng cơ man nào là bánh rán Krispy Kreme nóng hổi.


Web tự rót cho mình một cốc cà phê và lịch sự chào vài nhân viên đang hối hả chạy qua chạy lại trong căn phòng lớn. Anh chăm chú nhìn những sơ đồ vẽ bằng máy tính về khoảnh sân định mệnh và những tòa nhà xung quanh được gắn lên các tấm bảng lớn treo trên tường. Trên sơ đồ gắn chi chít những chiếc đinh ghim nhiều màu sắc, Web biết chúng thể hiện những khu vực quan trọng có bằng chứng hoặc đầu mối liên quan. Tiếng bước chân, tiếng lách cách trên bàn phím không bao giờ dứt. Điện thoại lúc nào cũng réo vang, giấy tờ loạt soạt và không khí căng thẳng trong phòng cho Web biết có chuyện quan trọng đang diễn ra. Trước kia anh cũng từng là một phần của những cơ quan tham mưu tác chiến như thế này rồi.


“Vụ đánh bom ở Oklahoma ([48] ) tạo ra một tiền lệ với tiêu chuẩn quá cao,” Bates nói với một nụ cười mỉa mai khi Web ngồi xuống đối diện với anh ta. “Bây giờ mọi người mặc nhiên cho rằng chúng tôi chỉ cần xem xét vài chiếc xe, kiểm tra mấy cuốn băng vi deo, lùng tìm mấy cái biển số, gõ vài phím máy tính và a lê hấp! Tên tội phạm sẽ bị tóm sau vài tiếng.” Anh vứt toẹt tập giấy đang cầm trên tay xuống bàn. “Nhưng hầu như chẳng bao giờ có chuyện gặp may như thế cả. Dù là người hay máy thì cũng phải có lúc nghỉ chứ. Mẹ kiếp, chúng tôi vừa nhận được cơ man nào là điện mật. Chắc chắn có kẻ đang muốn chúng ta biết hắn đã thoát ra ngoài.”


“Tôi sẽ đi tiên phong trong mọi trường hợp. Perce. Dù kẻ đó là ai chăng nữa cũng có thể kiểm soát được tất cả những gì xảy ra sau đó.”


“Cậu có biết là tôi đã rất bực mình khi cậu quyết định rời bỏ WFO để chơi trò leo dây và bắn súng lớn không? Nếu như cậu vẫn ở lại với tôi rất có thể ngày nào đó cậu sẽ trở thành một đặc vụ FBI hàng đầu rồi.”


“Nhiều khi nghề chọn người chứ người có chọn được nghề đâu. Anh bảo là anh có tin gì mới mà.”


Bates gật đầu và thảy một tập tài liệu vào tay Web. Web đọc lướt nhanh.


“Scott Wingo…tên này nghe quen chứ?”


“Tất nhiên, ông ta bào chữa cho anh bạn cũ Ernest B. Free của chúng ta. Tất nhiên là tôi không có mặt ở phiên tòa. Lúc đó tôi vẫn đang được điều trị trong bệnh viện. Nhưng những người có mặt ở đó có nói đến Wingo.”


“Một tay khôn ngoan và xảo quyệt. Ông ta cứu hắn thoát án tử hình còn gì. Và giờ thì ông ta cũng chết.”


“Bị giết?”


“Chất Atropin được bôi lên ống nghe điện thoại trong phòng làm việc của ông ta. Anh nhấc điện thoại lên, tất nhiên là anh sẽ áp nó vào da mặt gần lỗ mũi và những vùng nhạy cảm khác. Atropin được hấp thụ vào cơ thể qua màng nhầy nhanh hơn nhiều so với đường máu. Nó khiến mạch của anh đập loạn nhịp gây khó thở, tạo ảo giác chỉ trong vòng khoảng một giờ gì đó. Nếu anh bị suy thận hay những trục trặc khác về tuần hoàn máu khiến cơ thể không thể đào thải chất độc đó thì tác động của nó còn phát huy nhanh hơn nhiều. Wingo bị đái tháo đường, tim mạch cũng có vấn đề nghiêm trọng và lại phải ngồi xe lăn, nên atropin là sự lựa chọn quá lý tưởng. Thứ Bảy nào ông ta cũng tới văn phòng một mình, vì vậy không có ai ở bên cạnh để giúp đỡ khi ông ta bắt đầu cảm thấy những ảnh hưởng của atropin trong người mình. Hơn nữa, cuối tuần nào ông ta cũng trả lời rất nhiều cuộc điện thoại, đó là những gì các đồng nghiệp ở Richmond cho chúng ta biết.”


“Vậy kẻ mưu sát ông ta phải biết rõ về tiểu sử bệnh và thói quen làm việc của Wingo?”


Bates gật đầu. “Leadbetter thì bị bắn khi ông ta bật đèn trong xe lên để đọc một bài báo nào đó mà một thẩm phán khác đã khuyên ông ta nên đọc. Người sĩ quan cảnh sát tư pháp nhận cuộc gọi nói rằng đó là một ông thẩm phán Mackey nào đó. Tất nhiên, đó là một kẻ mạo danh.”


“Lại là điện thoại.”


“Chưa hết đâu. Người hàng xóm của Watkins lái xe về đúng lúc Watkins đang đi bộ vào nhà. Ông ta khai với cảnh sát rằng ông ta trông thấy Watkins cho tay vào túi áo và lấy điện thoại ra. Ông ta không nghe thấy tiếng chuông điện thoại, nhưng ông ta cho biết hình như Watkins đang trả lời cuộc gọi nào đó. Trong nhà có khí gas; ông ta ấn nút nghe máy. Bùm!”


Web vội nói, “Khoan đã. Một chiếc điện thoại di động đâu phải là cái công tắc điện. Tia lửa điện của nó cũng không đúng loại và cũng không đủ lớn để làm nổ khí gas.”


“Chúng tôi đã kiểm tra chiếc điện thoại; những gì còn lại của nó thì đúng hơn. Mấy tay pháp y và giám định hiện trường đã phải nạo nó ra khỏi tay Watkins. Có kẻ đã cài một cuộn đây Sôlênôit vào trong điện thoại để tạo ra tia lửa điện cần thiết có thể làm cháy bùng khí gas.”


“Vậy là phải có kẻ ăn trộm điện thoại của Watkins lúc ông ta ngủ say hoặc bỏ nó ở đâu đó trong khoảng thời gian dài, hắn cài cuộn dây vào trong điện thoại, và chắc chắn hắn còn phải theo dõi ông ta khi mọi chuyện xảy ra thì mới bảo đảm sự trùng khớp về thời gian như thế chứ.”


“Đúng vậy. Chúng tôi đã cho kiểm tra danh sách các cuộc gọi đến máy của Watkins và của viên cảnh sát tư pháp kia. Cả hai đều là những thuê bao trả trước, dùng xong là bỏ. Không có dấu tích gì nữa.”


“Giống như những gì các đặc vụ chìm vẫn dùng. Tôi đoán là tay đặc vụ chìm của anh vẫn chưa lộ diện?”


“Quên anh ta đi.”


“Không đời nào, tôi sẽ nói chuyện về anh ta sau. Nào, tin mới nhất về thằng Free này là gì?


“Chẳng có gì. Dường như hắn trốn sang một hành tinh khác vậy.”


“Tổ chức của hắn vẫn hoạt động chứ?”


“Thật đáng tiếc là vẫn. Có lẽ cậu còn nhớ là chúng đã phủ nhận sự liên quan đến vụ tấn công vào trường học ở Richmond và Ernie cũng không chịu phản lại đồng bọn, hắn khai rằng một mình hắn lên kế hoạch tấn công trong khi tổ chức hoàn toàn không biết gì hết, thế là vụ án đành khép lại. Những đồng bọn khác thì đều đã chết, mà chính cậu đã hạ hai thằng đấy thôi. Chúng ta không tóm được thành viên nào khác nên không thể bắt chúng ra làm nhân chứng, thế là Hội Tự Do vẫn bình yên vô sự.


Hoạt động của chúng có chìm xuống một thời gian vì bị dư luận lên án dữ dội, nhưng nghe đồn là chúng đang trỗi dậy khá mạnh mẽ.”


“Hiện chúng đóng ở đâu?”


“Miền nam Virginia, gần Danville. Cậu phải biết là chúng tôi đã có người theo dõi rất sát sao nơi đó. Chúng tôi cho rằng thằng Ernie sẽ quay về đó sau khi đào thoát. Nhưng từ đó đến nay vẫn chưa thấy tăm hơi hắn đâu cả .”


“Sau tất cả những chuyện vừa xảy ra, chúng ta vẫn không có lệnh khám xét sào huyệt của chúng sao?”


“Gì cơ? Chúng ta đến tòa án và bảo họ rằng vừa có ba vụ giết người. Sáu vụ, nếu tính cả nhà Watkins, và chúng ta nghi Hội Tự Do đứng sau việc này. Trong khi chúng ta hoàn toàn không có bằng chứng gì cho thấy chúng có liên quan đến vụ tấn công vào HRT hoặc bất kỳ ai khác sao? Anh tưởng bọn Liên minh Dân quyền Mỹ sẽ để yên à?” Bates ngừng lại. “Cho dù tất cả đều rất rõ ràng. Nạn nhân là công tố viên, thẩm phán, trả thù là động cơ hoàn hảo nhất.”


“Nhưng tại sao lại cả luật sư bào chữa? Chẳng phải ông ta đã cứu hắn thoát án tiêm thuốc độc à?”


“Đúng thế, nhưng chúng ta có nói đến những kẻ có đầu óc bình thường đâu cơ chứ, Web. Theo tôi, chúng căm hận vì tên đồng bọn điên rồ của chúng đã phải ngồi tù, dù là một ngày thì cũng là ngồi tù. Hoặc có thể Ernie đã có cãi vã gì đó với tay luật sư nên khi trốn được ra ngoài hắn quyết định thanh toán tất cả cho gọn.”


“Hừ, ít ra thì mọi việc giết chóc coi như xong. Không còn ai nữa cả.”


Bates với một tập hồ sơ và rút ra một tờ giấy có dán ảnh khác. “Chưa chắc. Cậu có nhớ là có hai giáo viên bị bắn chết trong trường học đó không?”


Web hít một hơi dài nặng nề khi những ký ức đau đớn ồ ạt tràn về.


“Cả thằng bé nữa, David Canfield.”


“Đúng vậy. Một giáo viên trong đó đã có chồng. Và cậu biết gì không? Cách đây ba hôm chồng cô ta đã thiệt mạng ở phía tây bang Maryland trên đường lái xe đi làm về nhà lúc trời tối.”


“Giết người à?”


“Không chắc lắm. Đó là một vụ đâm xe. Cảnh sát vẫn đang điều tra. Trông như một vụ đâm rồi bỏ chạy.”


“Có liên quan gì đến điện thoại không?”


“Có một chiếc điện thoại trong xe. Sau khi chúng ta liên lạc; cảnh sát địa phương cho biết họ sẽ kiểm tra danh sách gọi trong máy để xem anh ta có nhận được cuộc gọi nào ngay trước khi xảy ra tai nạn không.”


“Thế còn gia đình người giáo viên còn lại?”


“Người chồng và những đứa con đã chuyển đến Oregon. Chúng tôi đã liên hệ với họ và giờ thì họ đang được bảo vệ 24/24 rồi. Nhưng thế chưa phải đã là xong đâu. Cậu còn nhớ bố mẹ của David Canfield chứ, Bill và Gwen ấy?”


Web gật đầu. “Tôi nằm trong bệnh viện MCV ở Richmond một thời gian dài. Billy Canfield đã đến thăm tôi vài lần, ông ta là một người tốt. Ông ấy gần như suy sụp sau cái chết của đứa con trai, mà có ông bố bà mẹ nào không thế chứ? Tôi chưa bao giờ gặp vợ ông ta. Và từ đó đến nay tôi cũng không gặp lại Billy nữa.”


“Họ đã chuyển chỗ ở. Hiện họ đang sống ở Hạt Fauquier, điều hành một trang trại ngựa giống.”


“Có chuyện gì bất thường xảy ra với họ không ?”


“Ngay sau khi nhận ra mối liên hệ giữa các vụ việc này. chúng tôi đã liên lạc với họ. Họ cho biết hiện chưa có gì bất thường xảy ra cả. Họ cũng đã biết việc Free đã vượt ngục. Và theo lời Billy Canfield thì ông ta không hề muốn nhận sự giúp đỡ của chúng ta và ông ta còn hy vọng là tên vô lại đó đang bám theo mình vì ông ta muốn được tự tay mình bắn nát đầu hắn.”


“Billy Canfield không phải là kẻ nhát gan đâu. Tôi có thể nói như vậy ngay từ lần đầu tiên ông ta đến bệnh viện thăm tôi; mạnh mẽ đến mức thô bạo, cứng rắn và ương ngạnh. Một số đồng đội của tôi tham gia làm chứng trước tòa đã kể với tôi là trong quá trình xét xử ông ta cũng cãi vã rất hăng. Mấy lần liền ông ta suýt bị tòa cáo buộc là có thái độ khinh mạn.”


“Hồi đó ông ta có một công ty vận tải, nhưng sau khi con trai chết, ông ta đã bán lại công ty đó.”


“Nếu bọn Tự Do đứng đằng sau những vụ mưu sát ở Richmond thì Hạt Fauquier rõ ràng là gần hơn bang Oregon rất nhiều. Rất có thể gia đình Canfield đang gặp nguy hiểm.”


“Tôi biết. Tôi đang cân nhắc đến việc đến đó một chuyến để cố nói chuyện phải quấy với ông ta.”


“Tôi sẽ đi với anh.”


“Cậu chắc chứ? Tôi biết chuyện xảy ra trong trường học đó không phải là điều mà cậu muốn nhắc đến mà.”


Web lắc đầu. “Có những chuyện mà anh không bao giờ bỏ lại sau lưng được, Perce, cho dù có mất cả đời chăng nữa. Hai cô giáo đã bị bắn chết trước khi chúng tôi đến, đó là chuyện hoàn toàn nằm ngoài khả năng của tôi, nhưng David Canfield thì bị chúng giết hại ngay trước mặt chúng tôi, đó lại là chuyện hoàn toàn khác.”


“Cậu đã làm nhiều hơn bất kỳ ai có thể làm, kể cả suýt mất mạng. Và tấm huân chương vĩnh cửu vẫn còn kia trên mặt anh đấy thôi. Cậu chẳng có gì để phải cắn rứt cả.”


“Thế thì anh không hiểu tôi rồi.”


Bates chăm chú nhìn Web. “Thôi được, nhưng đừng có quên. Nếu như xóa sổ đội Charlie là mục tiêu của Hội Tự do thì chúng vẫn còn chưa xong việc đâu. Vì anh là tay súng cuối cùng còn sống đấy.”


Thoi thóp thì đúng hơn , Web nghĩ. “Đừng lo, tôi sẽ quan sát cả hai bên mỗi khi sang đường.”


“Tôi đang nói nghiêm túc, Web. Nếu chúng đã thử một lần, chúng sẽ thử nhiều lần nữa. Đây là một bọn bệnh hoạn.”


“Vâng, tôi biết rồi. Hãy nhớ là tôi có tấm huân chương vĩnh cửu đây mà.”


“Còn chuyện này nữa. Tại phiên tòa Wingo đã đâm đơn kiện ngược lại HRT và FBI về việc giết người vô cớ.”


“Chuyện nhảm nhí.”


“Đúng thế. Nhưng đó là cách chúng sẽ khám phá được một số thông tin về HRT. Rất có thể Hội Tự do đã biết được nhiều điều về phương thức hoạt động của các anh, quy trình, cơ cấu tổ chức…Đó có thể là những thông tin giúp chúng bố trí trận phục kích vừa rồi.”


Web chưa hề cân nhắc đến khả năng này. Giờ thì mọi chuyện có vẻ đã rõ ràng hơn rất nhiều.


“Tôi hứa là nếu tôi có nhận được cú điện thoại mờ ám nào, anh sẽ là người đầu tiên được thông báo. Và tôi sẽ kiểm tra ống nghe xem có atropin không. Giờ thì hãy cho tôi biết về tay đặc vụ chìm của anh đi. Rất có thể bọn Hội tự do là chủ mưu, nhưng nhất định chúng phải có tay trong chứ. Nào, tôi đã biết anh ta là người da đen, và tôi cũng không tin là bọn cuồng tín như Hội Tự do lại làm việc với một người không phải da trắng như chúng, nhưng nói chung ngay lúc này chưa thể loại bỏ nghi vấn nào hết. Anh nói với tôi là Cove sống độc thân. Anh còn biết những gì về anh ta nữa nào?” Web vẫn chưa nhận được thông tin gì từ Ann Lyle liên quan đến Cove, nên anh quyết định hỏi thẳng Bates.


“Ô, nhiều chứ. Tất cả nằm trong tập hồ sơ kia kìa, có gắn nhãn “Những Điều Cần Biết Về Các Đặc Vụ Chìm Của FBI”


“Perce, rất có thể tay này chính là chìa khóa.”


“Không có chuyện đó đâu! Cứ tin tôi đi.”


“Tất cả những gì tôi muốn nói là tôi đã làm những loại công việc này rồi. Và ngược lại với điều anh nghĩ tôi không hề quên cách làm việc của một đặc vụ FBI khi tôi gia nhập HRT. Tôi có một người thầy giỏi - anh không cần phải phổng mũi làm gì. Và dù sao hai cái đầu vẫn hơn là một cái đầu. Chẳng phải anh vẫn luôn cố nhồi nhét cho tôi bài học đó sao?”


“Nhưng tôi không thể làm thế được, Web, rất tiếc. Quy định là quy định.”


“Hình như tôi nhớ là ngày trước anh dạy tôi khác đấy.”


“Thời gian thay đổi, con người thay đổi.”


Web ngồi ngả người ra sau ghế và cân nhắc anh có nên tung ra con át chủ bài của mình không. “Được rồi. Vậy anh nói sao nếu tôi cho anh biết một điều cực kỳ quan trọng mà anh không biết?”


“Tôi sẽ hỏi là vì lý do chó chết nào mà cậu không nói cho tôi từ trước?”


“Tôi chỉ vừa mới biết.”


“Hừ, thế đấy.”


“Tóm lại là anh có muốn nghe hay không nào?”


“Đổi lại cậu sẽ nhận được gì?”


“Tôi cung cấp cho anh tin liên quan đến cuộc điều tra, anh cũng làm như vậy cho tôi.”


“Thế nếu tôi cứ bắt cậu phải nói vô điều kiện thì sao nào?


“Thôi nào, hãy vì những ngày xưa yêu dấu.”


Bates gõ gõ nên tập hồ sơ trước mặt. “Sao tôi biết đó là một thông tin hữu ích?”


“Nếu không giá trị thì anh chẳng nợ gì tôi hết. Tôi tin tưởng sự đánh giá khách quan của anh.”


Bates chằm chằm nhìn anh một lúc. “Nói đi.”


Web kể lại cho anh ta việc Kevin Westbrook bị đánh tráo. Trong khi anh nói, mặt Bates mỗi lúc một đỏ bầm lên và Web có thể dám chắc là mạch của anh ta chắc chắn phải vượt xa sáu mươi tư, và thậm chí lên cả ba con số chứ chẳng chơi.


“Chính xác thì anh biết chuyện này từ khi nào? Nói cụ thể đến từng phút vào cho tôi.”


“Lúc tôi đang ngồi uống bia với Romano và tôi nhắc đến việc Kevin Westbrook mà tôi gặp có một vết sẹo do đạn bắn trên má. Nhưng anh ta lại nói là thằng bé chẳng có vết sẹo nào. Cortez cũng kể đúng như vậy. Mà anh đừng trách họ. Tôi đã hứa là sẽ thông báo cho anh trong thời gian sớm nhất có thể.”


“Đúng là sớm thật. Nhưng ai đã đánh tráo thằng bé và tại sao?”


“Tôi có đoán mò cũng không nghĩ ra. Nhưng tôi xin khẳng định với anh rằng thằng bé tôi cứu trong con hẻm và thằng bé mà Romano bàn giao cho tay tự xưng là đặc vụ FBI kia là hai đứa hoàn toàn khác.” Anh gõ gõ lên mặt bàn, anh thấy sao? Đáng giá đấy chứ?”


Bates đáp lại bằng cách mở tập hồ sơ, mặc dù anh ta thuộc lòng những gì có trong đó. “Randall Cove. 44 tuổi. Gia nhập FBI từ khi bắt đầu đi làm. Anh ta từng là một cầu thủ bóng bầu dục ở Oklahoma, nhưng bị vỡ đầu gối trước khi thử việc ở NFL ([49] ). Đây là ảnh mới chụp của anh ta.” Bates đẩy bức ảnh qua bàn và Web chăm chú nhìn. Người đàn ông trong ảnh có bộ râu quai nón tỉa ngắn, tóc bện thành nhiều lọn và đôi mắt chỉ có thể gọi là sắc lạnh. Bộ ngực và đôi vai lực lưỡng cho thấy anh ta là một người khổng lồ, cao khoảng gần hai mét. Trông anh ta thừa sức đối đầu với một con gấu xám và có lẽ còn hạ nó một cách dễ dàng. Web cúi hẳn người về phía trước làm ra vẻ xem xét kỹ khuôn mặt của người đàn ông trong ảnh, nhưng thực ra mắt anh đang gắn chặt vào tập hồ sơ mà Bates đang mở toang trên mặt bàn. Những năm tháng làm một đặc vụ FBI chính thống đã dạy anh nhiều thủ thuật để chỉ cần nhìn lướt qua là có thể ghi nhớ rất nhanh và lâu. Anh cũng quá lão luyện trong cách đọc ngược trang giấy.


Bates lên tiếng, “Anh ta là người biết chăm sóc bản thân, thông thạo đường phố hơn bất kỳ tên trùm xã hội đen nào. Lạnh lùng và bình tĩnh ngay trong những hoàn cảnh áp lực nhất.”


“Hừm, thì xưa nay mấy tay bánh mì trắng ([50] ) tốt nghiệp Princeton mang những cái họ như William hay Jeffrey có bao giờ hòa nhập được với Thành phố Ma túy của nước Mỹ, nhiều lúc tôi cũng tự hỏi là tại sao nhỉ ” Web nói. “Anh có nói là anh ta không vợ không con. Anh ta chưa bao giờ lấy vợ à?”


“Có chứ, nhưng vợ anh ta chết rồi.”


“Vậy họ không có con sao?”


“Đã từng có.”


“Chuyện gì đã xảy ra với chúng vậy.”


Bates bực bội ngọ ngoạy trên ghế. “Chuyện lâu lắm rồi.”


“Tôi đang nghe đây.”


Bates buông một tiếng thở dài nhưng không hề có vẻ gì là định trả lời câu hỏi thúc giục của Web.


“Tôi đã mất cả đội của mình, Perce, tôi sẽ rất biết ơn nếu anh không úp mở gì với tôi hết.”


Bates ngồi thẳng dậy và vặn vẹo hai bàn tay trước mặt mình. “Anh ta đang làm một chuyên án ở California. Chuyên án tuyệt mật và cực kỳ nguy hiểm vì liên quan đến một băng nhóm người Nga, bọn này sẵn sàng bắn cả quả tên lửa vào mông anh chỉ cần anh dám ho cạnh chúng thôi. Đối với bọn này thì dân mafia Italia chỉ là bọn trẻ con. Bates chợt ngừng lại.


“Và?”


“Và vỏ bọc của anh ta bị lộ. Chúng lần ra gia đình anh ta.”


“Và giết họ?”


“Phải gọi là tàn sát thì đúng hơn.” Bates hắng giọng, tôi đã xem ảnh rồi.”


“Lúc đó Cove ở đâu?”


“Chúng đã đánh lạc hướng khiến anh ta vắng nhà để chúng rảnh tay hành động.”


“Chúng không bám theo anh ta sao?”


“Có chứ, ngay sau đó. Chúng đợi đến khi anh ta mai táng xong cho vợ con. Bọn tử tế thật. Cove đã chờ sẵn khi chúng đến.”


“Và anh ta giết chúng?” Bates bắt đầu hấp háy mắt và bỗng nhiên Web nhận ra là mắt trái của anh ta đang giật giật.


“Tàn sát. Tôi cũng xem ảnh rồi.”


“Vậy mà Cục vẫn để anh ta hoạt động à? Sao thế? Sao họ không cho về hưu non đối với những đặc vụ có gia đình bị giết?”


Bates khoát tay tỏ vẻ bất lực. Cục đã cố, nhưng anh ta không chịu. Anh ta muốn hoạt động. Và nói thực lòng, sau những gì xảy ra với vợ con, anh ta còn làm việc hiệu quả và gan lì hơn bất kỳ đặc vụ chìm nào chúng tôi từng có. Họ thuyên chuyển anh ta đến WFO để quên đi California. Xin nói để anh biết là anh ta có khả năng thâm nhập vào những nơi mà từ trước đến nay chúng ta không thể nào mon men đến. Sở dĩ chúng ta có thể tống rất nhiều tên trùm đầu sỏ vào nhà đá thời gian qua là nhờ có Randall Cove.”


“Nghe có vẻ anh ta là một người hùng.”


Cuối cùng thắt trái của Bates cũng hết giật. “Anh ta là một đặc vụ khác thường, chủ yếu là hành động theo cách của mình và xưa nay cấp trên hiếm khi chấp nhận điều đó, kể cả với các đặc vụ chìm, cho dù có vợ con bị tàn sát hay không cũng thế. Nhưng với Cove thì không ăn thua. Tôi không thể nói là điều đó không gây tổn hại cho sự nghiệp của anh ta. Ý tôi là quả thật Cục cũng chẳng đời nào bố trí được cho anh ta cương vị nào khả dĩ ngoài mảng hoạt động chìm đó, và Cove cũng thừa biết vậy. Nhưng anh ta vẫn tuân theo luật chơi của Cục. Và lúc nào cũng có phương án phòng thân cẩn thận. Anh tử tế với anh ta thì anh ta tử tế lại, bao giờ cũng thế, ít nhất là cho đến lúc này.”


“Việc bọn mafia Nga lần ra vợ con anh ta - liệu đó có phải là do lỗi của FBI không?”


Bates nhún vai. “Có vẻ như Cove không nghĩ thế đâu. Từ đó đến nay anh ta vẫn hoạt động rất mẫn cán mà.”


“Anh có biết người ta nói gì về sự trả thù không, Perce, rằng đó là món duy nhất càng để nguội càng ngon.”


Bates lại nhún vai. “Có thể.”


Web bắt đầu cảm thấy mất kiên nhẫn. “Anh biết không. Chuyện này chỉ càng làm tôi thấy băn khoăn tại sao một người như thế vẫn được ở lại trong Cục và có thể anh ta đã xỏ mũi cả đội tôi đi vào con đường hủy diệt để trả thù cho vợ con mình. Các anh không có cách nào để kiểm soát và ngăn ngừa chuyện này sao?”


“Web ạ, đặc vụ chìm là loại người khác hẳn chúng ta. Cả đời họ phải sống trong dối trá nên nhiều lúc họ dấn quá sâu và có thể người thì trở mặt, người thì hóa điên. Đó là lý do Cục phải áp dụng chính sách luân chuyển từ ngoài vào trong, thay đổi nhiệm vụ và cho họ có thời gian sạc lại pin.”


“Vậy họ có làm thế với Cove không? Đưa anh ta trở vào trong Cục để anh ta sạc lại pin? Cho anh ta đi gặp chuyên gia tâm thần sau khi chôn vợ con xong?”


Bates lặng thinh không nói gì.


“Hay là vì anh ta vẫn hoạt động hiệu quả đến nỗi họ quyết định cứ để mặc như thế đến khi cuối cùng anh ta hóa điên và trút giận lên đội của tôi?”


“Tôi sẽ không bàn chuyện đó với anh. Tôi không thể bàn chuyện đó với anh được.”


“Thế nếu tôi nói thẳng toẹt rằng đó chỉ là chuyện nhảm nhí thì sao?'


“Thế nếu tôi nói thẳng toẹt rằng anh đang đi quá giới hạn của mình thì sao?”


Hai người trừng trừng nhìn nhau cho đến khi cơn điên giận từ từ hạ xuống.


“Vậy còn những tên chỉ điểm của anh ta? Cũng là thông tin mật à?” Web hỏi.


“Trong chuyện này thì Cove rất kín kẽ. Chỉ một mình anh ta được tiếp xúc với nguồn tin, không còn bất kỳ ai khác. Điều này không đúng với quy định của Cục cho lắm, nhưng như tôi đã nói, không ai có thể nghi ngờ gì về hiệu quả tin tức mà anh ta cung cấp. Đó là quy tắc của anh ta.”


“Vậy chúng ta biết thêm gì về mục tiêu vừa rồi không? Anh nói đó là bọn trùm tài chính của một đường dây ma túy lớn à. Của bọn nào?”


“Hừm, về chuyện đó thì vẫn còn một số ý kiến khác nhau.


“Ồ, đừng có kẻ cả thế, Perce. Tôi thích giải câu đố từ hai đầu mà.”


“Cái trò điều tra này đâu phải là một môn khoa học chính xác. Web.Khu vực mà các cậu được điều đến là địa bàn hoạt động của băng Big F; như tôi đã nói với cậu rồi.”


“Vậy là chúng ta tấn công vào tòa nhà đó để triệt phá đường dây của hắn?”


“Cove không cho là vậy.”


“Anh ta cũng không dám chắc mà.”


“Sao, thế cậu tưởng bọn chúng đi lại lăng xăng khắp nơi với tấm thẻ tên lủng lẳng trên cổ là ‘Tôi là thành viên của băng X’ à?”


“Vậy quan điểm của Cove là gì?”


“Theo anh ta thì những hoạt động tài chính đó là của một tay chơi lớn hơn nhiều. Có thể đường dây này đang cung cấp một loại ma túy có tên gọi Oxycontin cho khu vực D.C. Anh đã nghe nói chưa?”


Web gật đầu. “Mấy tay bên DEA ở Quantico cũng suốt ngày nhắc đến loại ma túy này. Không phải lo điều chế, chưng cất. Cũng chăng việc gì phải mất công tuồn hàng qua cổng hải quan. Tất cả những gì cần làm là cứ mua được thuốc là xong, mà có đến hàng chục cách để có thuốc một cách hợp pháp, rồi cứ thế mà ngồi in tiền.”


“Một cảm giác chẳng khác nào Niết bàn đối với dân nghiện,” Bates nói thêm với giọng khô khốc. “Đó là một trong những loại thuốc giảm đau công hiệu và phổ biến nhất trên thị trường hiện nay. Nó ức chế việc truyền tải những tín hiệu đau đớn từ dây thần kinh đến bộ não và tạo cho người ta cảm giác hưng phấn, đê mê. Thông thường thì nó cho tác dụng từ từ trong vòng hai mươi bốn giờ, nhưng nếu nghiền vụn thuốc ra để hít hoặc chích thì nó có thể cho tác dụng trực tiếp không kém gì heroin. Người lạm dụng thuốc có thể bị ngưng thở đột ngột, đây là hiện tượng xảy ra khá thường xuyên.


“Tác dụng phụ này hay đấy. Anh đang định nói với tôi là anh hoàn toàn không biết tay chỉ điểm của anh ta là ai à?”


Bates bâng quơ gõ gõ ngón tay lên tập hồ sơ trước mặt. “Chúng tôi cũng có vài phỏng đoán. Nhưng vào thời điểm này thì tất cả vẫn còn chưa chính thức.”


“Vào lúc này tôi chỉ cần tin đồn và tin giả cũng được.”


“Một khi Cove có thể vào sâu được mục tiêu như vừa qua, chúng tôi cho rằng tay chỉ điểm của anh ta cũng phải là dân tay trong khá có máu mặt. Anh ta đang theo dõi các hoạt động của Westbrook thì anh ta tình cờ phát hiện ra những động thái về Oxycontin. Nhưng tôi nghĩ là dù kẻ mà anh ta đang sử dụng để thâm nhập vào đường dây của Westbrook có là ai chăng nữa thì đó cũng chính là người giúp anh ta tiếp cận thông tin mới này. Antoine Peebles là COO ([51] ) của Westbrook; dùng tạm từ này cho có vẻ kinh doanh một chút vậy. Hắn điều hành công việc làm ăn rất chặt chẽ và chủ yếu là nhờ hắn mà chúng ta chưa thể chạm được một ngón tay vào Westhrook. Đây là Westbrook, thằng kia là Peebles.” Anh ta đẩy hai tấm ảnh qua bàn.


Web nhìn những bức ảnh. Westbrook quả là một con quái vật, còn bự con hơn cả Cove. Trông hắn như một người đã dạn dày trận mạc. Đôi mắt của hắn, dù chỉ là trên bức ảnh hai chiều, cũng toát lên vẻ sắt đá và kiên định mà chúng ta thường thấy ở những người sống sót trong mọi khó khăn. Peebles thì hoàn toàn trái ngược. “Westbrook đúng là một con ngựa chiến. Còn Peebles trông như dân tốt nghiệp Stanford ra vậy.”


“Chính xác. Tên này còn rất trẻ và theo chúng tôi thì chính Peebles là hiện thân cho một thế hệ trùm ma túy mới, ít hung hãn hơn, tháo vát và chuyên nghiệp hơn, nhưng không hề kém phần tham vọng. Trên phố bọn chúng đang đồn đại là có kẻ nào đang tìm cách tập hợp tất cả các nhà phân phối trong vùng lại với nhau, làm cho chúng trở nên hiệu quả hơn, tăng cường quy mô hoạt động và tầm vóc kinh tế, với cung cách hoàn toàn chuyên nghiệp.”


“Nghe có vẻ như anh bạn Antoine muốn trở thành một CEO chứ không cam phận làm COO.”


“Cũng có thể. Westbrook thì trưởng thành từ đường phố. Hắn rất già đời và tinh quái, nhưng chúng tôi được biết là hình như hắn đang tìm cách rút hẳn ra khỏi nghề buôn bán ma túy.”


“Chà, có thể Peebles lại có một chương trình nghị sự hoàn toàn khác nếu hắn đứng đằng sau việc tổ chức các băng nhóm trong vùng lại với nhau. Nhưng cung cấp những thông tin vô giá cho Cove như vậy có vẻ không có lợi lộc gì đối với một ông trùm tương lai như hắn. Nếu như chúng ta đập tan đường dây, Peebles lấy gì mà điều hành nữa?':


“Vấn đề là thế đấy,” Bates thừa nhận.


“Còn nhân vật nào đáng chú ý nữa không?”


“Cánh tay phải của Westbrook. Clyde Macy.” Bates chìa cho Web bức ảnh của Macy. Của đáng tội, thằng này trông như cô hồn chẳng khác nào một tên tử tù đang chờ đến lượt mình lên ghế điện. Macy trắng bợt như một tên bạch tạng; cái đầu cạo trọc lốc và đôi mắt lạnh lẽo, vô cảm khiến Web liên tưởng đến những tên giết người hàng loạt khủng khiếp nhất mà anh từng biết.


“Nếu Chúa Giê-su mà gặp thằng này trước mặt thì chắc Người cũng phải gào toáng lên mất.”


“Rõ ràng là Westbrook chỉ làm việc với những thằng giỏi nhất, Bates nhận xét.


“Làm thế quái nào mà Macy lại có thể hòa hợp với những tên đồng bọn khác? Trông nó như là một thằng cuồng tín da trắng ấy.”


“Không. Đừng có nhìn cái đầu trọc ấy mà tưởng nhầm. Chúng ta không biết nhiều về hắn lắm trước khi hắn đến D.C. Mặc dù chưa có cơ sở nào để kiểm chứng, nhưng người ta đồn là hắn từng làm tay chân cho một vài ông trùm đang nằm bóc lịch trong nhà tù liên bang ở Joliet. Sau đó hắn đến D.C và làm cho Westbrook. Hắn khét tiếng trong giới xã hội đen vì lòng trung thành và ra tay cực kỳ tàn khốc. Một kẻ bệnh hoạn thực sự, nhưng rất chuyên nghiệp, theo cách riêng của hắn.”


“Như bất kỳ tên tội phạm nguy hiểm nào.”


“Hành động ác ôn đầu tiên của hắn là bổ cả một con dao chặt thịt vào đầu bà nội mình vì hắn phàn nàn rằng bà cụ dám nói dối hắn về giờ ăn tối.”


“Tại sao hắn vẫn được tự do sau một hành động man rợ đến thế được?”


“Hồi đó hắn mới mười một tuổi nên chỉ bị đưa vào trại giáo dưỡng vị thành niên. Từ đó tới nay, tội duy nhất của hắn mà chúng ta biết là ba cái giấy phạt vì phóng xe quá tốc độ.”


“Thằng này thú vị đây. Tôi giữ những bức ảnh này được không?”


“Cứ tự nhiên. Nhưng nếu anh tình cờ đối đầu với Macy trong một con hẻm tối hay giữa một đường phố sáng choang chăng nữa, lời khuyên của tôi dành cho anh là hãy chạy cho nhanh.”


“Tôi là HRT mà, Perce. Tôi nhai rau ráu những thằng như nó trong bữa sáng.”


“Được rồi. Cứ tự huyễn hoặc mình thế đi.”


“Nếu Cove quả thực giỏi như anh nói, thì không thể nào có chuyện anh ta đâm đầu vào một trận phục kích. Có chuyện gì đó ở đây.”


“Có thể, nhưng ai mà không có lúc sai lầm.”


“Anh có khẳng định là Cove không hề biết khi nào chúng tôi sẽ đến đó không?”


“Tôi khẳng định. Cove không hề được thông báo gì về thời điểm tấn công.”


“Tại sao anh ta lại không biết?”


“Họ không muốn thông tin bị rò rỉ, và đằng nào thì anh ta cũng không có mặt ở đó, vì vậy anh ta được xếp vào nhóm những người không cần được thông báo.”


“Tuyệt thật, vậy là anh cũng không tin ngay chính người đặc vụ chìm của mình. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là anh ta không thể có được thông tin từ nguồn khác. Như WFO chẳng hạn?”


“Hay là như HRT?” Bates vặc lại.


“Lại còn chuyện ở đó có thể có những nhân chứng tiềm năng nữa chứ, cũng là thông tin của Cove à?”


Bates gật đầu.


“Anh biết mà. Perce, lẽ ra bọn tôi phải được biết tất cả những điều này ngay từ đầu.”


“Chỉ những gì cần biết thôi, Web. Và các anh đâu cần biết những thông tin đó thì mới làm được công việc của mình.”


“Mẹ kiếp, sao anh có thể nói như vậy khi anh hoàn toàn không biết chó gì về công việc của chúng tôi cả?”


“Anh lại sắp vượt quá ranh giới rồi đấy, bạn thân mến. Đừng có hấp tấp thế .”


“Thẳng toẹt ra thì có ai quan tâm đến việc sáu lính đặc nhiệm đã bị bắn rụng như sung không vậy?”


“Về cơ bản là không, Web ạ. Chỉ có những người như anh là tôi mới quan tâm thôi.”


“Nếu thế thì làm chó gì có cái tôi không cần biết hả?”


Từ đống tài liệu to đùng của mình Bates rút ra một cặp hồ sơ dầy cộp, chọn lấy một túi hồ sơ và mở nó ra. “Tại sao anh không nói ngay từ đầu rằng Harry Sullivan là ông già anh vậy?”


Web đứng bật dậy và tự rót cho mình một cốc cà phê khác. Thực ra anh cũng chẳng cần lắm thứ đồ uống toàn caffeine này, nhưng ít nhiều thì hành động đó cũng giúp anh có thêm thời gian suy nghĩ để trả lời hoặc tìm ra một câu nói dối. Khi anh quay lại ghế ngồi thì Bates vẫn đang nhìn tập hồ sơ. Với ánh mắt của Bates khi ngẩng lên nhìn Web thì rõ ràng là anh ta muốn có câu trả lời cho câu hỏi của mình trước khi chịu từ bỏ chủ đề này.


“Tôi chưa bao giờ coi ông ta là bố mình. Chúng tôi cắt đứt quan hệ từ khi tôi lên sáu tuổi. Đối với tôi, ông ta chỉ là một kẻ xa lạ.” Sau một lát, anh hỏi, “Anh biết ông ta là bố tôi từ khi nào?”


Bates kéo ngón tay trỏ lướt trên các trang giấy. “Sau khi tôi cho lục lại toàn bộ hồ sơ lý lịch của anh. Thật lòng là khi nhìn vào mớ tiền án tiền sự này tôi ngạc nhiên khi ông ta có đủ thời gian để khiến mẹ anh có thai đấy. Cơ man nào là tội,” Anh nói với vẻ thích thú.


Web chỉ muốn giật bộ hồ sơ khỏi tay Bates và chạy ra khỏi phòng.


Tuy nhiên, cuối cùng anh vẫn ngồi yên đó, chằm chằm nhìn những trang giấy lộn ngược, kiên nhẫn chờ đợi. Những âm thanh hối hả trong phòng dường như đã tan biến hoàn toàn. Chỉ còn lại anh, Bates, và những trang giấy về người bố tội lỗi của anh.


“Vậy tại sao đột nhiên anh lại quan tâm đến, anh vừa bảo gì nhỉ? À, “một kẻ xa lạ” thế này?” Bates hỏi.


“Tôi nghĩ khi đến một tuổi nhất định, những chuyện như vậy bỗng trở nên quan trọng.”


Bates gập lại bộ hồ sơ và đẩy cả cặp qua bàn cho Web. Đọc cho vui nhé.”


-------


[48] Vụ đánh bom ở Thành phố Oklahoma xảy ra vào ngày 19/04/1995 nhằm vào Tòa nhà Liên bang Alfred P. Murrah nơi đặt trụ sở nhiều cơ quan chính phủ Mỹ làm 168 người chết và hơn 800 người bị thương. Ngay sau khi vụ nổ xảy ra một sĩ quan cảnh sát thuộc Đội tuần tra trên đường Cao tốc Oklahoma đã tạm giữ Timothy McVeigh vì lái xe không có biển số và mang vũ khí bất hợp pháp. Vài ngày sau vụ đánh bom, Timothy McVeigh và đồng bọn là Terry Nichols chính thức bị bắt vì bị xác định là chủ mưu trong vụ đánh bom này. Các điều tra viên đã xác định McVeigh và Nichols là những kẻ ủng hộ phong trào vũ trang chống chính phủ và động cơ khủng bố của chúng là trả thù việc chính phủ Mỹ trấn áp hai vụ Waco và Ruby Ridge (vụ đánh bom xảy ra đúng vào ngày kỷ niệm vụ Waco.)



[49] NFL: National Football League.





[50] Tiếng lóng chỉ người Mỹ da trắng, tầng lớp trung lưu.





[51] Chief Operating Officer: Có thể hiểu là chức Giám đốc điều hành, thấp hơn một chút so với CEO - Tồng giám đốc điều hành.
TAY SÚNG CUỐI CÙNG
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22
Chương 23
Chương 24
Chương 25
Chương 26
Chương 27
Chương 28
Chương 29
Chương 30
Chương 31
Chương 32
Chương 33
Chương 34
Chương 35
Chương 36
Chương 37
Chương 38
Chương 39
Chương 40
Chương 41
Chương 42
Chương 43
Chương 44
Chương 45
Chương 46
Chương 47
Chương 48
Chương 49
Chương 50
Chương 51
Chương 52
Chương 53
Chương 54
Chương 55
Chương 56
Chương 57
LỜI CẢM ƠN