Phần 1
Tác giả: Ernest Hemingway
Lão đã già, một mình một thuyền câu cá trên dòng Nhiệt lưu và đã tám mươi tư ngày qua lão không bắt được lấy một mống cá nào. Bốn mươi ngày đầu thằng bé đi với lão. Nhưng sau bốn mươi ngày không câu được cá, cha mẹ thằng bé bảo nó rằng rốt cuộc bây giờ ông lão đã hoàn toàn salao, cách diễn đạt tệ nhất của vận rủi, rồi buộc nó đi theo thuyền khác và ngay trong tuần lễ đầu tiên chiếc thuyền ấy đã câu được ba con cá lớn. Điều đó khiến thằng bé buồn khi hằng ngày thấy ông lão trở về với chiếc thuyền không, nó luôn xuống giúp lão mang khi thì cuộn dây, cái lao móc săn cá, khi thì cái sào hay tấm buồm quấn quanh cột. Tấm buồm được vá bằng bao bột, cuộn lại trông như một lá cờ bại trận triền miên. ông lão gầy gò, giơ cả xương, gáy hằn sâu nhiều nếp nhăn. Những vệt nám vô hại trên làn da má của lão do bị ung thư bởi ánh mặt trời phản hồi trên mặt biển nhiệt đới. Những vệt ấy kéo dài xuống cả hai bên má, tay lão hằn những vết sẹo sâu bởi kéo những con cá lớn. Nhưng chẳng có vết nào trong số sẹo ấy còn mới cả. Chúng cũ kỹ như mấy vệt xói mòn trên sa mạc không cá. Mọi thứ trên cơ thể lão đều toát lên vẻ già nua, trừ đôi mắt; chúng có cùng màu với nước biển, vui vẻ và không hề thất bại.
“ông Santiago, thằng bé nói khi hai người leo lên bờ nơi con thuyền được kéo lên.
“Cháu có thể lại đi cùng ông. Chúng ta đã có ít tiền rồi.
ông lão dạy thằng bé câu cá và nó quý lão.
“Đừng”, lão nói.
“Cháu đang đi với con thuyền may mắn. Hãy ở lại với họ”.
“Nhưng ông còn nhớ có hồi suốt tám mươi bảy ngày ta không bắt được cá nhưng sau đó trong ba tuần lễ ngày nào ta cũng vớ được cá lớn”.
“ông nhớ”, ông lão nói.
“ông biết cháu đã không rời bỏ ông vì thiếu lòng tin”.
“Tại cha cháu bắt làm như thế. Cháu còn nhỏ, cháu phải nghe lời cha”.
“ông hiểu”, ông lão nói.
“Đấy là chuyện thường”.
“Cha cháu chẳng tin đâu”.
“Phải”, ông lão nói.
“Nhưng chúng ta tin, đúng không?”
“Vâng”, thằng bé đáp.
“Cháu có thể mời ông một lá bia ở khách sạn Terrace trước khi chúng ta mang mấy thứ này về nhà chứ?”
“Tại sao lại không?”, ông lão nói.
“Dân chài với nhau cả mà”. Họ ngồi ở Terrace và rất nhiều người đánh cá trêu ông lão nhưng lão không giận. Một số khác, những ngư dân lớn tuổi hơn, nhìn lão và cảm thấy buồn. Nhưng họ không để lộ ra mà chỉ từ tốn nói về dòng chảy, độ sâu buông câu, về thời tiết tốt, ổn định và về những thứ họ đã nhìn thấy. Mấy tay đánh cá thành công của ngày ấy đã trở về, xả thịt con cá kiếm của họ, sắp đầy lên hai tấm ván, mỗi người khiêng một đầu đi xuyên đến nhà để cá, đợi chiếc xe tải ướp lạnh đưa đến chợ Havana. Những người bắt được cá mập thì đưa chúng đến xưởng cá mập phía bên kia vịnh; chúng được móc treo lên bằng ròng rọc, gan bị mổ lấy, vi bị cắt, da bị lột và thịt thì được xẻ thành súc đưa ướp muối. Khi gió Đông thổi, mùi tanh nồng từ xưởng cá mập bên kia cảng phả đến. Nhưng hôm nay, mùi cá chỉ thoang thoảng vì gió thổi chếch sang hướng Bắc rồi lặng hẳn; trên Terrace trời tỏa nắng dễ chịu.
“ông Santiago”, thằng bé gọi.
“ừ”, ông lão đáp. Lão đang giữ cái lá và hồi tưởng về nhiều năm trước.
“Cháu đi kiếm giúp ông mấy con cá mòi cho ngày mai nhé?”
“Đừng. Đi chơi bóng chày đi. ông vẫn có thể chèo và Rogelio sẽ quăng lưới”.”Cháu thích đi.
Nếu cháu không được câu cá với ông thì cháu muốn giúp ông việc gì đó”.
“Cháu đã mua bia cho ông”, ông lão nói.
“Cháu thực sự là đàn ông rồi”.
“Lần đầu tiên ông đưa cháu ra khơi, cháu lên mấy?”
“Lên năm, và suýt nữa cháu bị chết khi ông lôi con cá quá lớn lên thuyền, nó gần như quật tan con thuyền ra nhiều mảnh. Cháu có còn nhớ không?”
“Cháu vẫn nhớ cái đuôi quật mạnh; chỗ ngồi chèo thuyền bị gãy và tiếng nện của cái chày. Cháu nhớ ông ném cháu ra đằng mũi thuyền, nơi lùng nhùng những sợi dây ướt rồi cháu cảm thấy toàn bộ con thuyền chao đảo và tiếng ông quật con cá nghe như thể đang đốn cây, máu nóng hổi bắn cả lên người cháu”.
“Có phải cháu thực sự nhớ chuyện ấy hay là do ông kể?”
“Cháu nhớ mọi thứ kể từ cái lần đầu tiên ông cháu ta đi cùng nhau”. ông lão nhìn thằng bé bằng ánh mắt chan chứa tình thương, tin cậy, ấm áp của mình.
“Nếu cháu là con ta thì ta sẽ đưa cháu đi cầu may một phen”, lão nói.
“Nhưng cháu là con của cha mẹ cháu và cháu đang đi trên con thuyền may mắn”.
“Cháu có thể đi kiếm cá mòi chứ? Cháu còn biết nơi cháu có thể kiếm được bốn con mồi”.
“Hôm nay ông vẫn còn mấy con. ông đã muối chúng trong thùng”.
“Để cháu đi kiếm bốn con tươi”.
“Một thôi”, ông lão nói. Niềm hy vọng và lòng tin của ông lão chưa bao giờ nguội lạnh. Còn bây giờ thì chúng đang cuộn lên như khi gió đang nổi.
“Hai”, thằng bé nói.
“Hai”, ông lão đồng ý.
“Cháu không ăn cắp đấy chứ?”
“Cháu không”, thằng bé đáp.
“Cháu mua”.
“Cảm ơn cháu”, ông lão nói. Lão quá giản dị để không tự hỏi tính nhún nhường của mình có tự bao giờ. Nhưng lão biết lão đã có nó và lão biết nó chẳng có gì xấu hổ và cũng chẳng mảy may phương hại đến niềm kiêu hãnh thực sự.
“Với con nước này, mai sẽ là một ngày tốt lành”, lão nói.
“ông sẽ đến đâu”, thằng bé hỏi.
“Đi thật xa, khi gió trở thì mới quay về. ông muốn đến đấy trước khi trời sáng”.
“Cháu sẽ tìm cách để ông ấy ra câu xa”, thằng bé nói.
“Rồi khi ông câu được một con gì đấy thật sự lớn, cháu sẽ có thể đến giúp”.
“ông ấy không thích ra khơi xa đâu”.
“Vâng”, thằng bé nói.
“Nhưng cháu sẽ thấy cái gì đó, một con chim săn mồi chẳng hạn, mà ông ấy không thể thấy rồi giục ông ta bám theo bầy cá dorado”.
“Mắt ông ấy kém đến thế ư?”.
“ông ấy gần như mù”.
“Lạ thật”, ông lão nói.
“ông ấy chưa bao giờ đi săn rùa. Đấy là lý do làm mắt kém thị lực”.
“Nhưng ông đã nhiều năm đi săn rùa tận Moạquito Coaạt mà mắt ông vẫn còn tốt”.
“Ta là một lão già kỳ lạ”.
“Nhưng giờ đây ông có còn đủ sức để dành cho con cá thật lớn không?”
“ông chắc thế. Vả lại còn có nhiều mẹo nữa”.
“Chúng ta hãy mang dụng cụ về nhà”, thằng bé nói.
“Rồi cháu có thể mang lưới -quăng đi bắt cá mòi”. Họ tháo vật dụng khỏi thuyền. ông lão vác cột buồm, thằng bé mang thùng gỗ đựng dây, những sợi dây câu màu nâu được bện thật chắc, cái móc, ngọn lao với cán của nó. Thùng đựng mồi để ở đuôi thuyền, bên cạnh cái chày được dùng để quật những con cá lớn khi bị kéo lên khoang.
Chẳng ai ăn trộm đồ đạc của ông lão, nhưng tốt hơn thì cứ đưa cánh buồm, cuộn dây nặng vào nhà bởi sương có thể làm chúng hỏng và dẫu cho lão có hoàn toàn tin chắc là chẳng có người địa phương nào ăn cắp của lão thì lão vẫn nghĩ cái móc và ngọn lao hẳn có sức cám dỗ khi để trên thuyền. Họ cùng đi bộ trên con đường đến lều ông lão rồi bước vào qua cánh cửa để ngỏ. ông lão dựng cột buồm với lá buồm quấn quanh vào vách, thằng bé đặt cái thùng gỗ và mấy thứ khác bên cạnh. Cột buồm cao gần bằng chiều cao của căn lều một buồng. Vách lều được ghép bằng thân loài cọ xù xì có tên gọi là guano; trong lều có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cái bếp trên nền đất để nấu bằng than củi. Trên bức tường màu nâu của những thân cọ guano đập giập với mấy chiếc lá cứng queo của chúng chồng lên nhau, là hai bức ảnh màu của Đức Chúa Jesus và Đức Mẹ Đồng Trinh xứ Cobre. Đấy là di vật của vợ lão. Có dạo bức ảnh tô màu của vợ lão cũng được treo trên tường nhưng rồi lão đã tháo xuống bởi nó khiến lão càng cô đơn hơn khi nhìn thấy, lão để nó trên giá trong góc dưới chiếc sơ mi sạch của lão.
“ông có gì ăn không?”, thằng bé hỏi.
“Một niêu cơm gạo vàng với cá. Cháu có muốn ăn không?”.
“Thưa không. Cháu sẽ ăn ở nhà. ông có cần cháu nhóm lửa không?”.
“Không. Để lát nữa ông nhóm. Hoặc có lẽ ông sẽ ăn cơm nguội”.
“Cháu có thể mang cái lưới -quăng đi chứ?”.
“Dĩ nhiên”. Không có cái lưới -quăng nào cả, thằng bé nhớ rõ cái lúc họ bán nó. Nhưng ngày nào hai ông cháu cũng vờ tưởng tượng như thế. Và thằng bé cũng biết chẳng có niêu cơm gạo vàng và cá nào cả.
“Tám mươi lăm là con số may mắn”, ông lão nói.
“Cháu có thích ông mang về con cá nặng gần nửa tấn không?”.
“Cháu sẽ lấy cái lưới -quăng đi bắt cá mòi. ông ngồi sưởi nắng trên ngưỡng cửa chứ?”.
“ừ. ông có tờ báo hôm qua và sẽ đọc về trận bóng chày”. Thằng bé không chắc liệu cái tờ báo hôm qua ấy có phải là sản phẩm của trí tưởng tượng nữa không. Nhưng ông lão đã lôi tờ báo từ dưới giường ra.
“Perico cho ông ở bodega”, lão giải thích.
“Cháu sẽ quay lại khi kiếm được vài con cá mòi. Cháu sẽ ướp đá mấy con của ông cùng của cháu rồi sáng mai chúng ta chia nhau. Khi cháu quay lại, ông nhớ kể cho cháu nghe chuyện đội bóng đấy”.
“Đội Yankee không thể thua”.
“Nhưng cháu sợ đội Da Đỏ Cleveland”.
“Hãy tin vào đội Yankee, cháu à. Hãy tin tưởng ở Di Maggio vĩ đại”.
“Cháu sợ cả đội Hổ Detroit lẫn đội Da Đỏ Cleveland”.
“Hãy coi chừng không khéo cháu lại sợ cả đội Đỏ Cincinnati và đội White Sox của Chicago”.
“ông đọc đi rồi kể cho cháu lúc cháu quay lại”.
“Cháu có nghĩ chúng ta nên mua tờ vé số có số cuối là tám mươi lăm không? Mai là ngày thứ tám mươi lăm”.
“Chúng ta có thể mua”, thằng bé nói.
“Nhưng thế còn con số cực kỳ kỷ lục của ông là tám mươi bảy”.
“Không thể xảy ra lần thứ hai đâu. Cháu có chắc là cháu có thể tìm được tờ vé số tám mươi lăm ấy chứ?”
“Cháu có thể mua một chiếc”.
“Một chiếc. Hai đô la rưỡi đấy. Ai có thể cho chúng ta vay món tiền ấy?”
“Dễ thôi mà. Cháu luôn có khả năng vay hai đô rưỡi”.
“ông nghĩ có lẽ ông cũng có khả năng đó. Nhưng ông cố không vay mượn. Thoạt tiên thì vay mượn. Rồi sau đó là ăn mày”.
“Hãy giữ ấm ông ạ”, thằng bé nói.
“Chúng ta đã qua tháng chín”.
“Tháng này là mùa cá lớn”, ông lão nói.
“Vào tháng năm thì ai cũng có thể trở thành người đánh cá”.
“Bây giờ cháu đi kiếm cá mòi đây”, thằng bé nói. Khi thằng bé trở lại ông lão đã ngủ trên ghế, mặt trời đã lặn. Thằng bé mang cái mền lính cũ trong giường ra trải lên phía sau ghế, đắp qua vai ông lão. Đôi vai thật kỳ lạ, vẫn chắc nịch dẫu đã rất già, cả cái cổ vẫn còn khỏe, những nếp nhăn mờ đi khi ông lão ngủ gục đầu về phía trước. Chiếc sơ mi của ông được vá nhiều lần đến nỗi trông nó cũng hệt như tấm buồm; mặt trời làm mấy miếng vá ấy phai nhạt theo nhiều màu khác nhau. Dẫu sao thì cái đầu ông lão cũng đã rất già và khi đôi mắt nhắm lại thì khuôn mặt lão không còn sinh khí. Tờ báo nằm vắt qua đầu gối lão, độ nặng của cánh tay giữ nó ở lại đó trong làn gió nhẹ buổi tối. Lão đi chân trần. Thằng bé để lão ở đó và khi nó quay lại ông lão vẫn còn ngủ.
“ông ơi, dậy đi”, thằng bé gọi và đặt tay lên đầu gối lão. ông lão mở mắt, ngơ ngác một lúc rồi mới tỉnh hẳn. Rồi lão mỉm cười.
“Cháu có cái gì đấy”, lão hỏi.
“Đồ ăn tối”, thằng bé nói.
“Chúng ta sẽ ăn tối”.
“ông không đói lắm đâu”.
“Thì cứ ăn vậy. ông không thể không ăn mà bắt cá được”.
“Vẫn cứ câu được”, ông lão nói lúc đứng dậy cầm tờ báo gấp lại. Rồi lão chuẩn bị xếp mền.
“ông cứ quấn mền quanh người”, thằng bé nói.
“Trong lúc cháu còn sống thì ông không phải nhịn đói mà đi câu cá”.
“Vậy thì hãy sống cho thật lâu và quan tâm đến bản thân mình”, ông lão nói.
“Ta ăn gì vậy?”.
“Đậu đen, cơm, chuối chiên và ít thịt hầm”. Thằng bé đựng mấy món ấy trong chiếc cặp lồng hai ngăn, mang về từ Terrace. Hai bộ dao nĩa, thìa được quấn bằng giấy ăn đút trong túi nó.
“Ai cho cháu mấy món này?”
“Bác Martin. Chủ quán”.
“ông phải cảm ơn bác ấy”.
“Cháu đã cảm ơn rồi”, thằng bé nói.
“ông không phải cảm ơn bác ấy nữa”.
“ông sẽ biếu bác ấy miếng thịt bụng của con cá lớn”, ông lão nói.
“Bác ấy đã nhiều lần cho chúng ta như thế này phải không?”
“Cháu nghĩ thế”.
“Vậy thì ông phải biếu bác ấy cái gì quí hơn miếng thịt bụng. Bác ấy rất tử tế với chúng ta”.
“Bác ấy gửi biếu hai chai bia”.
“ông thích bia lon nhất”.
“Cháu biết. Nhưng đây là bia Hatuey đóng chai, cháu sẽ mang trả chai”.
“Cháu chu đáo quá”, ông lão nói.
“Ta ăn chứ?”
“Thì cháu đã mời ông mãi,” thằng bé dịu dàng nói.
“Cháu chưa muốn mở cặp lồng trước khi ông đã sẵn sàng”.
“ông sẽ sẵn sàng ngay”, ông lão nói.
“ông chỉ rửa sơ qua một tí”. ông rửa ở đâu nhỉ, thằng bé nghĩ. Nguồn nước của làng cách đây hai con đường. Mình phải lấy nước về cho ông, thằng bé nghĩ, xà phòng và cả khăn tắm tươm tất nữa. Sao mình lại vô tâm đến thế? Mình phải kiếm cho ông chiếc sơ mi khác, một chiếc jacket mặc mùa đông, đôi giày và một cái mền nữa.
“Món thịt hầm của cháu tuyệt lắm”, ông lão nói.
“Kể cho cháu nghe về trận bóng đi”, thằng bé giục lão.
“Như ông đã nói, trong Liên đoàn Mỹ, đấy là đội Yankee”, ông lão hạnh phúc nói.
“Hôm nay họ thua rồi”, thằng bé nói với lão.
“Điều đó chẳng hề gì. Di Maggio vĩ đại vẫn cứ là Di Maggio”.
“Họ có những cầu thủ khác trong đội”.
“Rõ rồi. Nhưng anh ta thì khác hẳn. Trong liên đoàn khác, nếu giữa Brooklán và Philadelphia thì chắc ông chọn Brooklán. ông còn nhớ đến cả Dick Sisler và những cú vụt bóng lừng danh trên sân đấu trước đây nữa”.
“Không có ai sánh bằng đâu. Trong đời cháu mới chỉ thấy anh ấy là người vụt bóng đi xa nhất”.
“Cháu có còn nhớ thuở anh ấy thường đến Terrace không? ông muốn mời anh ấy đi câu cùng nhưng lại quá nhút nhát để đưa ra lời đề nghị. Khi ông bảo cháu mời anh ấy thì cháu lại cũng nhát gan”.
“Cháu biết. Đấy là một lỗi lầm tai hại. Chắc anh ấy sẽ đi cùng chúng ta. Rồi chúng ta sẽ giữ kỷ niệm ấy trong suốt cả cuộc đời”.
“ông cũng muốn đưa Di Maggio vĩ đại đi câu”, ông lão nói.
“Người ta bảo cha anh ấy là ngư dân. Có lẽ anh ấy cũng nghèo như ta và sẽ thông cảm”.
“Cha của Siạler lừng danh thì chẳng nghèo tí nào, ông ta, lúc vào độ tuổi của cháu, đã chơi cho Liên đoàn Big”.
“Khi bằng tuổi cháu, ông đã đứng trước cánh buồm, trên con tàu được trang bị chu đáo đến châu Phi và ông đã nhìn thấy sư tử trên bờ biển vào lúc chiều tối”.
“Cháu biết. ông đã kể cho cháu nghe rồi”.
“Ta nên nói chuyện về châu Phi hay về bóng chày?”
“Cháu nghĩ là bóng chày”, thằng bé đáp.
“Kể cho cháu nghe về danh thủ John J. McGraw”. Nó nói Jota thay vì chỉ phát âm chữ J.
“Thỉnh thoảng vào những ngày xa xưa ấy, anh ta thường đến Terrace. Nhưng khi đã rượu vào thì anh ta nóng nảy, nói năng nhát gừng và khó đăm đăm. Đầu óc anh ta dồn hết cả vào ngựa và bóng chày. Lúc nào anh ta cũng giữ danh sách ngựa trong túi áo rồi cứ xướng tên qua điện thoại”.
“ông ta là tay quản lý ra trò”, thằng bé nói.
“Cha cháu nghĩ ông ta là người vĩ đại nhất”.
“Bởi vì lúc nào anh ta cũng đến đây”, ông lão nói.
“Nếu hằng năm Durocher cứ đến đây thì chắc cha cháu sẽ nghĩ anh ta là tay quản lý cừ khôi nhất”.
“Thật ra ai là ông bầu vĩ đại nhất, Luque hay Mike Gonzalez?”
“ông nghĩ hai người ngang nhau”.
“Còn người đánh cá tài ba nhất là ông”.
“Không. ông biết nhiều người giỏi hơn”.
“Que va”, thằng bé thốt lên.
“Có nhiều người đánh cá giỏi và vài người vĩ đại. Nhưng ông là người duy nhất”.
“Cám ơn. Cháu làm ông hạnh phúc. ông hy vọng sẽ không có con cá nào cùng vĩ đại như thế để chứng minh rằng ông cháu ta sai”.
“Sẽ chẳng có con cá nào như thế nếu ông vẫn còn khỏe như ông nói”.
“Có lẽ ông không được khỏe như ông nghĩ đâu”, ông lão nói.
“Nhưng ông biết nhiều mẹo và có cách xử lý”.
“Giờ thì ông nên ngủ đi để sáng mai khỏe khoắn. Cháu mang mấy thứ trả Terrace”.
“Vậy thì tạm biệt. Sáng mai ông sẽ đến đánh thức cháu”.
“ông là cái đồng hồ của cháu”, thằng bé nói.
“Tuổi tác là đồng hồ của ông”, ông lão nói.
“Tại sao người già lại thức giấc quá sớm? Phải chăng là muốn có một ngày dài hơn?”
“Cháu không biết”, thằng bé nói.
“Những gì cháu biết là người trẻ thì ngủ dậy muộn và khó”.
“ông nhớ”, ông lão nói.
“ông sẽ đánh thức cháu đúng giờ”.
“Cháu không thích ông ta đánh thức cháu. Việc đó như thể cháu là kẻ bề dưới”.
“ông hiểu”.
“Chúc ông ngủ ngon”. Thằng bé đi ra. Họ ăn mò, không có đèn trên bàn; ông lão cởi quần dài, đi ngủ trong bóng tối. Lão quấn chiếc quần quanh tờ báo làm gối. Lão cuộn người trong chăn, nằm lên những tờ báo cũ trải trên giát giường. Lão ngủ ngay và mơ về châu Phi, khi lão hãy còn là một chú nhóc, với những bờ biển cát vàng, cát trắng trải dài, trắng đến nỗi làm mắt đau nhức, những mũi đất cao nhô ra biển, những ngọn núi xám đồ sộ. Bây giờ hằng đêm lão về lại bờ biển ấy và trong mơ lão nghe tiếng sóng gầm, lão thấy đoàn thuyền của người bản địa đang trườn qua những con sóng. Khi ngủ, lão ngửi thấy mùi nhựa đường, mùi gỗ sồi lát boong tàu; rồi lão ngửi thấy hương vị châu Phi theo làn gió đất phả tới vào buổi sáng. Thông thường khi ngửi thấy làn gió nội địa, lão thức dậy, mặc đồ, đến đánh thức thằng bé. Nhưng đêm nay, gió nội địa đến rất sớm và trong mơ lão biết hãy còn quá sớm nên lão tiếp tục mơ để thấy những mỏm trắng xóa của những hòn đảo nhô trên biển, lát sau lão mơ về những hải cảng khác, những vũng tàu đậu khác của quần đảo Canará. Lão không còn mơ về bão, không còn mơ về đàn bà, về những sự kiện trọng đại, những con cá lớn, những trận đánh, những cuộc đấu sức hay vợ lão. Bây giờ lão chỉ mơ về các vùng đất, về những con sư tử trên bờ biển. Chúng nô đùa như những chú mèo con trong hoàng hôn; lão yêu chúng như yêu thằng bé. Lão không bao giờ mơ về thằng bé. Lão chợt thức giấc, nhìn ánh trăng bên ngoài cánh cửa để ngỏ rồi giũ quần mặc vào. Lão tiểu bên lều rồi đi lên đường đánh thức thằng bé. Lão rùng mình trong bầu không khí lạnh ban mai. Nhưng lão biết lão sẽ còn run mãi cho đến lúc tay chèo làm lão ấm lên. Cánh cửa ngôi nhà thằng bé sống không khóa, lão mở rồi khẽ đưa đôi chân trần bước vào. Thằng bé ngủ trên chiếc giường nhỏ ở phòng đầu tiên; và ông lão, trong ánh trăng sắp lặn, có thể nhìn rõ nó. Lão nhẹ nhàng nắm lấy một bàn chân, giữ cho đến khi thằng bé thức giấc, quay lại nhìn lão. ông lão gật đầu, thằng bé lấy chiếc quần dài vắt trên ghế cạnh giường, mặc vào khi còn ngồi trên giường. ông lão ra cửa, thằng bé đi theo. Nó đang ngái ngủ, lão quàng tay qua vai nó và nói,
“ông xin lỗi”.
“Queva”, thằng bé nói.
“Đấy là việc mà một người đàn ông phải làm”. Họ xuống đường đến lều ông lão và suốt dọc đường, trong bóng tối, nhiều người đi chân trần, vác buồm ra thuyền. Khi hai người đến lều ông lão, thằng bé xách cái xô đựng cuộn dây, cây lao, cây sào móc; còn ông lão vác cột buồm với lá buồm đã quấn lại.
“ông có muốn uống cà phê không?”, thằng bé hỏi.
“Chúng ta để dụng cụ xuống thuyền rồi đi uống”. Họ uống cà phê trong hộp đựng sữa đặc tại điểm phục vụ những người đánh cá vào sáng sớm.
“ông ngủ có ngon không?”, thằng bé hỏi. Giờ thì nó dần tỉnh táo hơn như thể giấc ngủ hẵng cứ bám riết lấy nó.
“Rất ngon, Manolin à”, ông lão đáp.
“Hôm nay ông cảm thấy tự tin”.
“Cháu cũng thế”, thằng bé nói.
“Bây giờ cháu phải đi lấy cá mòi của ông cháu ta và số mồi tươi của ông. Tự ông ấy mang dụng cụ. ông ấy chẳng hề muốn bất kỳ ai mang bất cứ thứ gì”.
“Chúng ta thì khác”, ông lão nói.
“ông để cháu mang đồ nghề kể từ lúc cháu lên năm”.
“Cháu biết điều đó”, thằng bé nói.
“Cháu sẽ về ngay. ông cứ uống thêm tí nữa. Chúng ta có thể uống chịu ở đây”. Nó đi chân không trên lớp san hô đến nhà ướp lạnh nơi mồi được giữ ở đấy. ông lão chậm rãi uống cà phê. Đấy là tất cả thực phẩm lão có cho một ngày và lão biết lão nên uống. Đã từ lâu, ăn uống đối với lão trở nên chán ngắt và lão không bao giờ mang theo bữa trưa. Lão có một chai nước đằng mũi thuyền và đấy là tất cả lão cần trong một ngày. Lúc này thằng bé đã quay lại, mấy con cá mòi và hai miếng mồi câu được bọc trong tờ báo, hai người men theo lối mòn đến thuyền, chân giẫm lên lớp cát pha sỏi, nâng con thuyền đẩy xuống nước.
“Chúc ông may mắn”.
“Chúc cháu may mắn”, ông lão nói. Lão tra quai chèo vào cọc, nghiêng người tới trước khua mạnh mái chèo xuống nước; trong bóng tối, lão chèo ra khỏi bến. Có nhiều chiếc thuyền từ các bãi khác ra khơi; ông lão nghe tiếng mái chèo khua nước mặc dù lão không thể nhìn thấy họ bởi bây giờ mặt trăng đã khuất sau rặng đồi. Thỉnh thoảng, có tiếng ai đó nói trên thuyền. Nhưng hầu hết các thuyền đều im lặng trừ tiếng mái chèo khua nước. Họ tỏa rộng sau khi ra khỏi cửa biển; mỗi người đi đến phần đại dương nơi họ hy vọng tìm thấy cá. ông lão biết mình sẽ đi thật xa, để lại mùi đất sau lưng, chèo vào vùng hương tinh khôi của đại dương ban mai. Lão thấy ánh lân quang của đám rong vùng Nhiệt lưu trong nước khi lão chèo qua vùng biển mà ngư dân gọi là vùng Giếng lớn, bởi vì độ sâu ở đấy bất thình lình tụt xuống đến bảy trăm sải nước; họ hàng nhà cá đều dồn tất tại đó do xoYy nước dội thẳng vào bờ vách dốc của đáy đại dương. ở đấy tập trung tôm, cá mòi và thỉnh thoảng hàng đàn cá mực, sống trong những hố sâu nhất ngoi lên gần mặt nước vào ban đêm để làm mồi cho những con cá lang thang.
Trong bóng tối, ông lão có thể cảm nhận bình minh đang đến và lúc chèo, lão nghe thấy những âm thanh run rẩy khi đàn cá chuồn rời mặt nước và cả tiếng lao xao phát ra từ bộ cánh cứng khi chúng lao xao trong bóng tối. Lão rất quý loài cá chuồn bởi chúng là bạn gần gũi của lão trên đại dương. Lão thương cho lũ chim, đặc biệt là loài nhạn đen nhỏ, mỏng manh cứ bay và tìm kiếm mãi nhưng hầu như chẳng tìm thấy gì; lão nghĩ loài chim sống khổ hơn ta trừ mấy cái giống chim kẻ cướp và những loài to xác, kềnh càng. Tại sao tạo hóa lại sinh ra cái giống chim quá xinh xẻo mỏng manh như loài nhạn biển này trong khi đại dương lại có thể quá ư nghiệt ngã?
Đại dương tử tế và rất đẹp. Nhưng nó có thể rất độc ác và tráo trở bất thình lình; còn loài chim kia thì phải bay, nhao xuống săn mồi; và tiếng kêu thảng thốt, khẽ khàng của chúng lại quá yếu ớt giữa trùng khơi. Lão luôn nghĩ về biển như lamar, đấy là cách người ta gọi biển bằng tiếng Tây Ban Nha khi họ yêu biển. Thỉnh thoảng những người yêu biển cũng buông lời nguyền rủa biển nhưng họ luôn nói như thể biển là phụ nữ. Vài tay đánh cá trẻ, sử dụng phao nhựa làm phao câu và đi thuyền máy, sắm được khi gan cá mập được giá, gọi biển là el mar, tức giống đực. Chúng nói về biển như một đối thủ, một địa điểm hay thậm chí là một kẻ thù. Nhưng ông lão thì luôn nghĩ về biển như về một phụ nữ, như cái gì đó có thể ban phát hay chối giữ ơn huệ, và nếu biển làm điều ác độc hay tàn bạo thì bởi lẽ lúc ấy biển không thể nào kìm giữ nổi. Mặt trăng tỏa chiếu trên biển như thể tỏa chiếu trên cơ thể của người đàn bà, lão nghĩ. Lão buông chèo nhịp nhàng, không phải mất nhiều sức bởi lão làm chủ tốc độ của mình và bởi đại dương bình lặng trừ đôi chỗ có dòng xoYy. Lão đang để dòng chảy đỡ đi một phần ba công việc và khi trời vừa hửng sáng lão thấy mình đã đi xa hơn quãng đường lão nghĩ vào thời điểm ấy. Mình đã câu ở vùng Giếng lớn suốt cả tuần nay mà chẳng bắt được mống nào hết, lão nghĩ. Hôm nay mình sẽ ra tận nơi các đàn cá bonito và albacore kiếm ăn và có thể con cá lớn sẽ quanh quẩn đâu đấy. Trước khi trời sáng rõ, lão buông mồi và thả thuyền trôi theo dòng chảy. Một con mồi ở độ sâu bốn mươi sải. Mồi thứ hai sâu tới bảy mươi lăm sải; mồi thứ ba và thứ tư chìm sâu hút trong làn nước xanh đến độ sâu một trăm và một trăm hai mươi lăm sải. Mỗi con mồi được móc ngược đầu xuống, lưỡi câu giấu trong thân Tiếng Tây Ban Nha chỉ một loài sứa. cá, buộc chặt, khâu kỹ và những phần thòi ra của lưỡi câu, đoạn cong và mũi nhọn, thì được che bằng những con cá mòi tươi rói. Chúng bị móc xuyên qua hai mắt tạo thành nửa vòng hoa trên cuống thép. Không còn phần nào của lưỡi câu để con cá lớn có thể nhận ra ngoại trừ hương vị thơm lừng quyến rũ. Thằng bé cho ông lão hai con cá thu nhỏ tươi, thuộc loài albacore; lão móc chúng vào hai lưỡi câu sâu nhất, chúng nặng như thể mấy hòn chì; còn ở hai lưỡi kia, lão móc một con nục sòng lớn, màu xanh và một con ngừ bạc đã được sử dụng hôm trước; nhưng chúng vẫn còn tốt và xâu cá mòi thơm phức giúp chúng tỏa hương hấp dẫn. Mỗi dây câu, lớn bằng cây bút chì cỡ lớn, được buộc vào một cái phao bằng que gỗ màu xanh lục để bất kỳ một cú kéo, một cú đớp nào vào miếng mồi cũng khiến phao gỗ chìm xuống; mỗi dây câu còn có hai cuộn dây dài bốn mươi sải dự phòng sẵn sàng nối với các cuộn khác để khi cần thiết, con cá có thể có hơn ba trăm sải dây. Bây giờ lão quan sát mũi của ba chiếc phao gỗ bên mạn thuyền, chèo nhẹ để giữ cho mấy sợi dây thẳng đứng đến độ sâu cần thiết của chúng. Trời đã sáng hẳn và chẳng mấy nữa mặt trời sẽ mọc lên. Mặt trời nhô lên mặt biển, ông lão có thể nhìn thấy những thuyền khác, chìm thấp trong nước, dàn rộng qua dòng chảy, phía gần bờ. Khi mặt trời rực rỡ hơn, ánh nắng chiếu xuống mặt nước và lát sau, lúc nó cao hẳn lên, mặt biển phẳng lặng phản chiếu ánh nắng dội vào mắt lão làm đau nhức; lão chèo mà không nhìn vào nó nữa. Lão nhìn xuống nước, theo dõi mấy sợi dây được thả thẳng đứng xuống vùng đen của đại dương. Lão giữ chúng thẳng hơn bất kỳ một ai khác, để ở mỗi độ sâu trong vùng nước đen kia sẽ có một con mồi đợi đúng ngay ở đấy, nơi lão muốn dành cho bất cứ con cá nào bơi qua. Các tay câu khác thì để chúng trôi theo dòng chảy và đôi khi chúng chỉ ở độ sâu sáu mươi thay vì một trăm sải như họ m u ố n . Nhưng, lão nghĩ, mình giữ chúng chính xác. Duy chỉ mình không còn may mắn nữa thôi. Nhưng biết đâu được?
Có thể hôm nay. Mỗi ngày là một ngày mới. Gặp may thì tốt hơn. Nhưng mình ưa sự chính xác. Để khi vận may đến thì mình đã sẵn sàng. Bây giờ mặt trời đã mọc cao được hai tiếng đồng hồ, nó không làm mắt lão đau nhiều khi nhìn về hướng Đông nữa. Giờ đây, trong tầm mắt, chỉ còn lại ba bóng thuyền, mạn lún sâu xuống nước và ở mãi tít phía trong bờ. Suốt cả đời, bình minh làm buốt mắt ta, lão nghĩ. Nhưng chúng vẫn còn tinh anh. Vào lúc chiều tối, ta có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị những đốm đen trong mắt. Buổi chiều, ánh nắng mạnh hơn. Nhưng buổi sáng nó làm ta nhức nhối. Ngay khi đó lão thấy một con hải bằng tung đôi cánh đen dài lượn trên bầu trời trên đầu lão. Nó sà xuống nhanh, nghiêng cánh chao người rồi bay vòng trở lại.
“Nó tóm được con gì rồi”, ông lão nói lớn.
“Nó không chỉ nhìn đâu”. Lão chèo chậm rãi, đều đặn tiến về phía con chim đang lượn vòng. Lão không vội, lão cần giữ cho những sợi dây thẳng đứng xuống. Nhưng lão hơi nhanh hơn dòng nước một chút trong chừng mực lão vẫn câu đúng, nếu lão không cố bám theo con chim thì lão sẽ không chèo nhanh hơn cách lão thường câu. Con chim bay cao hơn, lại lượn vòng, đôi cánh bất động. Rồi thình lình nó lao xuống, lão thấy đàn cá chuồn tung mình lên khỏi mặt nước, tuyệt vọng bay trên mặt biển.
“Dorado”, ông lão nói lớn.
“Cá dorado lớn”.
Lão dừng chèo, lôi ra sợi dây câu nhỏ đằng mũi thuyền. Dây câu này có đáy thép và lưỡi câu cỡ trung bình, lão móc mồi bằng một con mòi. Lão buông câu qua mạn thuyền rồi buộc nó vào cái khoen đằng sau lái. Lão tiếp tục móc mồi lưỡi câu khác rồi vẫn để nó cuộn như thế trong bóng mát mũi thuyền. Lão quay lại chèo và trông chừng con chim có sải cánh đen rộng bây giờ đang sà thấp xuống kiếm mồi trên mặt nước. Khi lão quan sát, con chim lại nhào xuống, nghiêng cánh liệng rồi đập loạn xạ, bất lực khi bám theo đàn cá chuồn. ông lão có thể nhìn thấy mặt nước khẽ cuộn lên chỗ đàn cá dorado lớn nhao người đuổi theo bầy cá chuồn đang lẩn trốn. Đám cá dorado đang cắt xuyên vùng nước bên dưới đường bay của đàn cá, lao hết tốc lực đợi đàn cá rơi xuống. Đàn cá dorado lớn, lão nghĩ. Chúng dàn rộng ra, lũ cá chuồn có ít cơ hội trốn thoát. Con chim cũng không có cơ hội. Đàn cá chuồn quá lớn so với nó, vả lại chúng lao đi rất nhanh. Lão nhìn theo đàn cá chuồn cứ phóng lên lặn xuống và những cú chao mình vô ích của con chim. Đàn cá ấy đã rời xa ta, lão nghĩ. Chúng di chuyển nhanh quá và xa quá. Nhưng chắc chắn ta sẽ tóm được một chú đi lạc và có lẽ con cá lớn của ta hẳn quanh quẩn bên chúng. Con cá lớn của ta hẳn đang ở đâu đó. Bây giờ những đám mây trên đất liền đùn lên tựa những quả núi và bờ biển chỉ còn là một vệt xanh dài với rặng đồi xanh thẫm đằng sau nó. Giờ đây, mặt nước xanh thẫm, thẫm đến nỗi như ngả sang màu tím. Khi nhìn xuống, lão thấy những vệt rêu đỏ trong làn nước tối sẫm và bây giờ mặt trời lấp lánh những tia sáng kỳ lạ. Lão dõi theo mấy sợi dây câu để thấy chúng chạy thẳng xuống ngút khỏi tầm mắt trong đáy nước và lão hạnh phúc khi thấy nhiều rêu biển, bởi đấy là dấu hiệu có cá. ánh sáng kỳ lạ của mặt trời chiếu vào làn nước cho thấy giờ đây mặt trời Prev Page 19 Next đã lên cao hơn, có nghĩa thời tiết thuận; cả hình thù của những đám mây trên đất liền kia cũng báo hiệu điều đó. Nhưng giờ thì con chim đã gần như khuất khỏi tầm mắt, trên mặt nước chẳng còn gì nữa, ngoại trừ những vệt rong Sargasạo vàng ệch, bạc màu dưới nắng trời và cái cơ thể nung núc, đỏ tía, nhão nhớt, sặc sỡ đủ màu của một con sứa đang lềnh bềnh bên mạn thuyền. Nó nghiêng mình rồi trở người lại ngay ngắn. Nó háo hức trôi đi tựa cái bong bóng xà phòng, kéo theo những sợi tua dài gần một mét màu đỏ tía chết chóc ngầm trong nước.
“Agua mala”, lão nói.
“Đồ điếm”. Từ nơi khẽ đưa mái chèo, lão nhìn xuống nước và thấy những con cá nhỏ có cùng màu với đám sợi tua đang bơi giữa chúng và cả dưới cái bóng nhỏ mà con sứa kia tạo ra khi trôi đi. Lũ cá ấy có khả năng đề kháng với nọc độc sứa. Nhưng con người thì không và có dạo mấy sợi tua ấy vướng vào dây câu, bám ở đó, đỏ tía, nhờn nhợt rồi trong lúc xoay xở với con cá ông lão đã chạm phải làm cả cánh tay lẫn bàn tay nhức nhối như thể khi chạm phải một dây trường xuân độc hay loài sồi độc. Chỉ khác là chất độc từ sứa agua mala khuếch tán nhanh hơn, tựa nhát roi quất vụt xuống. Cái giống sứa lấp lánh ngũ sắc trông thật đẹp. Nhưng chúng là loài man trá nhất đại dương, ông lão thích nhìn những con rùa biển lớn xơi thịt chúng. Loài rùa nhìn thấy, tiếp cận chúng trực diện, rồi nhắm nghiền mắt để che chắn toàn thân đoạn xông tới chén sạch cả mớ tua lẫn người ngợm của chúng. ông lão ưa nhìn loài rùa chén thịt chúng và lão thích giẫm nát khi chúng bị bão đánh giạt vào bờ để nghe tiếng lốp bốp khi bị giẫm lên và những mảnh sứa lựt sựt nát ra dưới bàn chân. Lão yêu giống rùa xanh, lưng khòm, duyên dáng, nhanh nhẹn và giá trị lớn của chúng; lão có tình cảm suồng sã theo kiểu bè bạn với cái giống to đầu, nặng nề, đần đần, da vàng phía trong mai, giao cấu theo kiểu kỳ quặc và hồ hởi chén thịt sứa với đôi mắt nhắm tịt ấy.
Lão chẳng còn lạ gì về giống rùa ấy nữa bởi đã nhiều năm làm nghề săn rùa. Lão xót thương cho cả họ hàng nhà chúng, thậm chí cả với loài lưng hộp khổng lồ, dài bằng chiếc thuyền và cân nặng cả tấn. Hầu hết mọi người đều ác độc với rùa bởi trái tim rùa vẫn đập trong nhiều giờ sau khi đã bị xẻ thịt phanh thây. Nhưng lão nghĩ, trái tim ta cũng như vậy, kể cả đôi chân và đôi tay cũng giống của chúng. Lão ăn những quả trứng rùa trắng để tăng thêm sức lực. Lão ăn suốt cả tháng năm để đến tháng chín, tháng mười khỏe lên đợi con cá lớn thật sự. Hằng ngày lão cũng uống một lá dầu gan cá mập ở cái thùng lớn trong căn lều nơi nhiều ngư dân cất dụng cụ. Chỗ dầu ấy dành cho bất cứ ngư dân nào muốn. Đa phần trong số họ ghét mùi vị của nó. Nhưng điều đó thì chẳng có tệ hơn việc phải thức dậy vào đúng cái giờ để ra khơi, hơn nữa nó chống cảm lạnh, cúm và rất tốt cho cả thị lực. Bây giờ ông lão nhìn lên và thấy con chim lại lượn vòng.
“Nó tìm thấy cá”, lão nói lớn. Không có con cá chuồn nào tung mình lên mặt biển và cũng chẳng có con cá mồi nào lượn lờ. Nhưng khi ông lão quan sát, một con cá thu nhỏ phóng lên, vặn mình, lao đầu xuống nước. Con cá lấp lánh trong ánh nắng, sau khi nó rơi xuống thì lần lượt nhiều con khác nhảy lên, chúng túa ra khắp mọi hướng, quẫy tung nước, phóng những bước dài đuổi theo con mồi. Chúng quây tròn con mồi và xâu xé. Nếu chúng không bơi nhanh quá thì mình sẽ đuổi kịp, ông lão nghĩ và nhìn đàn cá quẫy tung bọt nước trắng xóa, con chim bây giờ buông mình sà xuống đàn cá mồi do hoảng sợ nên đã trồi hẳn lên mặt nước.
“Con chim được việc thật”, ông lão nói. Chỉ khi ấy sợi dây ở đuôi thuyền giật giật dưới chân, nơi lão buộc hờ; lão buông tay chèo và cảm thấy độ nặng của một chú cá thu nhỏ đang giật giật khi lão nắm chặt sợi dây, từ từ kéo vào. Sức giãy giụa tăng lên khi lão kéo đến gần và có thể nhìn thấy sống lưng xanh thẫm của con cá trong làn nước và cả màu vàng bên sườn nó trước khi lão kéo bổng nó lên đưa qua mạn vào thuyền. Con cá nằm ở phía đuôi thuyền, trong ánh nắng, trùi trũi như một viên đạn; đôi mắt to đờ đẫn của nó lồi ra khi cái đuôi gọn ghẽ cứ quật, nảy liên hồi trên ván thuyền tìm lối thoát. Động lòng trắc ẩn, ông lão nện vào đầu nó rồi đá cái thân hãy còn run rẩy vào dưới tấm ván sau lái.
“Cá thu”, lão nói lớn.
“Nó sẽ là con mồi tuyệt hảo. Gần năm ki lô chứ chẳng chơi”. Lão không nhớ lần đầu tiên lão nói to một mình như thế là tự bao giờ. Ngày xưa khi lủi thủi một mình, lão thường hát; thỉnh thoảng lão hát vào ban đêm cô đơn trong phiên trực lái trên những chiếc thuyền buồm đánh cá hay thuyền săn rùa. Có lẽ lão bắt đầu nói lớn khi chỉ có một mình, khi thằng bé ra đi. Nhưng lão không nhớ. Ngày lão và thằng bé còn câu cùng nhau, hai ông cháu chỉ nói khi thật cần thiết. Họ nói vào ban đêm hay những khi trời đổ gió mưa. Những người đi biển kiêng nói chuyện nhảm; ông lão luôn thực hiện và tôn trọng điều đó. Nhưng giờ thì lão đã nói rõ lớn ý nghĩ của mình hằng bao nhiêu lần bởi chẳng còn ai có thể nghe thấy để bực mình.
“Nếu người khác nghe mình nói lớn thì chắc họ nghĩ mình điên mất”, lão nói lớn.
“Nhưng vì không điên nên mình chẳng quan tâm. Cánh nhà giàu có radio để bầu bạn trên thuyền và ngay cả trên sân bóng nữa”. Giờ thì không phải là lúc nghĩ về bóng biếc, lão nghĩ. Giờ là lúc chỉ nghĩ về một điều duy nhất. Ta sinh ra để làm gì? Chắc là có một con lớn quẩn quanh đàn cá ấy, lão nghĩ. Mình chỉ tóm được một tên đi lạc trong đàn cá thu đang kiếm mồi. Nhưng chúng di chuyển rất nhanh và đã đi quá xa.
Mọi vật xuất hiện trên mặt biển hôm nay sao lại cứ vùn vụt chuồn về hướng Đông Bắc. Có phải là tại giờ khắc trong ngày? Hay đấy là dấu hiệu của thời tiết mà mình không biết? Bây giờ lão không còn nhìn thấy viền xanh của bờ mà chỉ còn thấy đỉnh của mấy ngọn đồi trắng xóa như thể phủ đầy tuyết, cả những đám mây tựa như ngọn núi tuyết đùn cao bên trên chúng. Biển đen ngòm, ánh nắng tạo thành những hình lăng trụ trong nước. Những cụm rong bể dày đặc bây giờ đã bị nhòa đi bởi mặt trời lên cao và ánh sáng chỉ còn là những khối lăng trụ đồ sộ trong làn nước thẫm; nơi mấy sợi dây câu của lão chìm sâu xuống đáy, lão thấy, sâu hơn cả ngàn rưỡi mét. Đàn cá thu, dân chài gọi tất cả họ hàng nhà cá này như thế và chỉ phân biệt tên chúng khi mang đi bán hoặc đổi cá mồi, lại lặn sâu xuống nước. Bây giờ mặt trời nóng bỏng, ông lão cảm thấy cái nóng rọi trên gáy và mồ hôi tứa xuống lưng khi lão chèo. Lão nghĩ mình có thể để thuyền trôi và chợp mắt một chốc trong lúc quấn một đầu dây câu vào ngón chân để nó đánh thức mình dậy. Nhưng hôm nay đã tám mươi lăm ngày và mình vẫn đủ sức để câu suốt cả ngày. Đúng lúc ấy, quan sát mấy sợi dây, lão thấy một trong mấy cái phao xanh chìm nhanh xuống.
“Nào”, lão nói.
“Nào”, và thu mái chèo, tránh để va vào mạn thuyền. Lão vươn tay phải khẽ cầm sợi dây bằng ngón trỏ và ngón cái. Lão không cảm thấy sức kéo hay độ nặng nào và lão cứ thận trọng giữ sợi dây như thế. Lát sau, sự tiếp xúc lại xuất hiện. Lần này là một cú kéo thăm dò, không dứt khoát và cũng chẳng mạnh mẽ tí nào; lão biết ngay đấy là con gì. Cách xa một trăm sải nước, con cá kiếm đang ăn đám cá mòi che đầu mũi và thân lưỡi câu nơi phần lưỡi câu thòi ra khỏi đầu của con cá thu mồi nhỏ. ông lão giữ hờ sợi dây, tay trái nhẹ nhàng tháo nó khỏi phao gỗ. Lúc này lão có thể để nó dễ dàng lướt qua mấy ngón tay để con cá không cảm thấy chút vướng víu gì nữa. Vào tháng này, xa bờ đến thế, hẳn nó là con cá khổng lồ, lão nghĩ. Đớp mồi đi, cá. Đớp mồi đi. Xin hãy đớp mồi đi. Chúng mới tươi ngon làm sao trong làn nước lạnh, tối om nơi mày ở cách gần hai trăm mét. Hãy lượn một vòng trong làn nước tối và quay lại đớp mồi đi. Lão cảm thấy một cú giật nhẹ rồi một nhát kéo mạnh hơn khi cái đầu của con cá mòi hẳn là khó rứt ra khỏi lưỡi câu. Lát sau hoàn toàn im ắng.
“Tiếp tục đi”, ông lão nói lớn.
“Hãy quay lại. Thử ngửi xem. Chúng không hấp dẫn sao? n ngay đi, cả con cá thu nữa. Cứng, mát lạnh và hấp dẫn. Đừng xấu hổ cá à. n chúng đi”. Lão cầm sợi dây giữa ngón cái và ngón trỏ chờ đợi, theo dõi nó và mấy dây câu khác trong cùng lúc, phòng trường hợp con cá bơi lên hay lặn sâu xuống. Thoáng chốc, dây câu ấy lại bị kéo nhẹ.
“Nó sắp đớp mồi”, ông lão nói lớn.
“Xin Chúa hãy giúp nó đớp mồi”. Nhưng con cá không đớp. Nó bỏ đi, ông lão cảm thấy chống chếnh.
“Nó không thể đi”, lão nói.
“Chúa biết là nó không thể đi. Nó đang lượn vòng. Có lẽ trước đây nó đã bị dính câu nên nó nhớ đôi điều về chuyện ấy”. Lúc ấy lão cảm thấy sợi dây khẽ giật, lão hớn hở.
“Nó chỉ lượn một vòng thôi mà”, lão nói.
“Nó sẽ cắn câu”. Lão sung sướng cảm nhận cái giật khẽ và rồi lão thấy cái gì đó nặng chịch, căng, không thể nào tưởng tượng nổi. Đấy là độ nặng của con cá và lão để sợi dây tuồn xuống, xuống, xuống mãi hết cuộn dây đầu tiên trong số hai cuộn dây dự trữ. Khi sợi dây tuột xuống, lướt nhẹ qua mấy ngón tay, lão vẫn cảm thấy độ cực nặng mặc dù áp lực của ngón cái và ngón trỏ của lão hầu như chỉ là con số không.
“Một con cá ra trò”, lão nói.
“Bây giờ lưỡi câu đã được ngậm trong miệng và nó đang lôi đi”. Lát nữa nó sẽ lượn lại và nuốt, lão nghĩ. Lão không nói ra điều ấy bởi lão biết nếu người ta nói ra điều tốt lành thì nó sẽ không xảy ra. Lão biết đấy là con cá khổng lồ và lão hình dung nó bơi trong vùng nước tối, miệng cắp ngang con cá thu. Vào lúc đó, lão cảm thấy nó ngừng di chuyển nhưng sức nặng vẫn cứ trĩu xuống. Rồi sức nặng gia tăng, lão nới thêm dây. Lão dùng ngón cái và ngón trỏ cố níu sợi dây lại một lúc nhưng sức nặng vẫn không ngừng tăng lên, lôi tuột sợi dây xuống.
“Nó đã đớp mồi”, lão nói.
“Giờ thì ta sẽ để cho nó nuốt hẳn”. Vẫn để sợi dây tuồn qua mấy ngón tay, lão dùng tay trái nối đầu sợi dây vào cả hai cuộn dây dự trữ kia. Lúc này lão đã sẵn sàng. Lão đã có ba cuộn dây dự trữ với tổng chiều dài là một trăm hai mươi sải cùng với cuộn lão đang sử dụng.
“Nuốt thêm tí nữa đi”, lão nói.
“Nuốt ngay đi”. Nuốt làm sao để mũi lưỡi câu đâm vào tim và giết chết mày, lão nghĩ. Hãy ngoan ngoãn trồi lên để tao cắm phập mũi lao này. ổn thôi. Mày sẵn sàng chưa? Đánh chén như thế là đã đủ rồi chứ?
“Nào!”, lão nói lớn và dùng cả hai tay kéo mạnh được chừng một mét dây rồi lại kéo, kéo nữa, tay nọ tiếp tay kia, dồn hết sức mạnh của cánh tay và của cả cơ thể lên sợi dây. Nhưng chẳng được gì, con cá vẫn chậm rãi bơi đi và ông lão thì chẳng thể nhúc nhích nổi nó dẫu chỉ một phân. Dây câu của lão rất bền, được bện để câu cá lớn; lão kéo căng sợi dây qua lưng cho đến lúc những giọt nước lăn ra khỏi nó. Thoáng chốc, sợi dây bắt đầu phát ra những âm thanh trầm trầm trong làn nước và lão vẫn giữ chặt, tì lên chỗ ngồi chèo thuyền, ưỡn người ra sau và kéo. Con thuyền bắt đầu từ từ tiến về hướng Tây Bắc. Con cá vẫn một mực bơi đi và họ di chuyển chầm chậm trên mặt biển phẳng lặng. Những cái mồi khác vẫn còn ở dưới nước nhưng lão chẳng biết xoay xở ra sao nữa.
“Giá mà ta có thằng bé”, ông lão nói lớn.
“Ta đang bị con cá kéo đi và ta là cái cọc kéo thuyền. Ta có thể buộc sợi dây lại. Nhưng như thế con cá sẽ bứt đứt. Mình phải giữ sợi dây cho đến lúc sức tàn lực kiệt và nới thêm dây khi nó cần. Đội ơn Chúa, nó cứ bơi ngang chứ không lặn xuống”.
“Mình sẽ làm gì nếu nó quyết định lặn xuống, mình không biết. Mình sẽ làm gì nếu nó lặn xuống và chết, mình cũng không biết. Nhưng mình sẽ làm cái gì đó. Có nhiều thứ mình có thể làm”. Lão tì sợi dây vào lưng và nhìn độ nghiêng của nó trên mặt nước, con thuyền cứ lững thững trôi về hướng Tây Bắc. Thế này sẽ giết nó, lão nghĩ. Nó không thể cứ kéo mãi thế này. Nhưng bốn giờ sau, con cá vẫn bình thản bơi ra khơi, kéo theo chiếc thuyền và cả ông lão đang giữ chặt sợi dây vắt qua lưng.
“Mình câu được nó vào quãng trưa”, lão nói.
“Nhưng mình chưa được nhìn thấy nó”. Lão đã đẩy chiếc mũ rơm sụp mạnh xuống đầu trước lúc câu được con cá, cái mũ cứa đau trán lão. Lão cũng khát nước bèn quì gối xuống, cẩn thận không làm giật sợi dây, rán vươn người quờ tay về phía mũi thuyền lôi ra chai nước. Lão mở nắp, uống một ngụm. Rồi lão tựa lưng vào mũi thuyền. Lão ngồi nghỉ trên đống cột buồm, cố không nghĩ ngợi điều gì, ngoại trừ việc chịu đựng. Khi nhìn về phía sau, lão không còn thấy bóng dáng đất liền đâu nữa. Chẳng có gì khác đâu, lão nghĩ. Mình luôn có thể quay về dựa vào ánh đèn từ Havana. Còn hai giờ nữa mặt trời mới lặn và có lẽ con cá sẽ trồi lên trước lúc trời tối. Nếu chưa ngoi lên thì có lẽ nó sẽ ngoi lên khi trăng mọc. Nếu cũng không thì chắc bình minh nó sẽ nổi lên. Mình không bị chuột rút và mình cảm thấy khỏe mạnh. Chính nó đã bị lưỡi câu móc vào miệng. Nhưng thử hỏi có con cá nào kéo được như nó. Miệng nó hẳn ngậm chặt đoạn dây thép. Mình ước mình có thể nhìn thấy nó. oeớc chi mình có thể nhìn thấy nó dẫu chỉ một lần để biết đối thủ của mình là ai. Con cá chẳng hề giảm tốc độ và đổi hướng suốt đêm ấy như lão có thể xác định bằng cách quan sát các vì sao. Trời lạnh sau lúc mặt trời lặn và mồ hôi của lão khô lạnh trên lưng, trên cánh tay và cả đôi chân già nua của lão. Lúc ban ngày, lão đã lấy cái bao tải đậy thùng đựng mồi ra trải phơi khô. Sau khi mặt trời lặn, lão cột nó quanh cổ, để phủ xuống lưng và bây giờ lão cẩn thận chèn nó xuống dưới sợi dây vắt qua vai. Cái bao lót dưới sợi dây và lão tìm cách tựa vào mạn thuyền để cơ thể bớt căng thẳng. Tư thế ấy thực ra cũng chỉ bớt được đôi phần, nhưng lão nghĩ là rất thoải mái. Ta chẳng thể làm gì được nó và nó cũng chẳng làm gì được ta, lão nghĩ. Chẳng làm được gì nếu nó cứ kéo mãi thế này. Một lần lão đứng dậy, đái qua mạn thuyền, ngước nhìn sao kiểm tra hướng đi. Từ vai lão, sợi dây như thể một đường lân tinh dài xuyên thẳng làn nước. Bây giờ họ di chuyển chậm và ánh điện Havana cũng không quá rõ, vậy là lão biết dòng nước hẳn đang đưa họ về hướng Đông. Nếu mình không còn thấy ánh sáng Havana thì chắc chúng mình đang tiến xa về phía Đông, lão nghĩ. Vì nếu con cá cứ giữ đúng hướng của nó thì mình phải thấy Havana thêm một lúc nữa. Mình không rõ mấy trận đấu bóng chày giải ngoại hạng hôm nay ra sao nữa, lão nghĩ. Có một chiếc rađiô khi đi câu như thế này thì thật tuyệt diệu. Rồi lão nghĩ, cứ phải nghĩ mãi về nó. Nghĩ về cái việc mày đang làm. Mày chớ có làm điều gì ngu ngốc. Lát sau lão nói lớn.
“ớc chi mình có thằng bé. Để giúp mình và chứng kiến cái cảnh này”. Con người ta không nên sống một mình khi tuổi đã xế bóng, lão nghĩ. Nhưng không thể nào tránh khỏi. Mình phải nhớ ăn con thu trước lúc nó hỏng để giữ sức khỏe. Hãy nhớ, dù mày chẳng muốn ăn tí nào, mày phải ăn nó vào sáng mai. Nhớ đấy, lão tự nhủ. Suốt đêm ấy, hai con cá heo bơi đến gần thuyền, lão có thể nghe tiếng chúng trở mình và thở. Lão có thể nhận biết sự khác nhau giữa tiếng thở dốc của con đực và tiếng thở dài của con cái.
“Chúng thật đáng yêu”, lão nói.
“Chúng chơi đùa, nghịch ngợm và yêu nhau. Chúng là anh em của ta như đàn cá chuồn kia vậy”. Rồi lão bắt đầu Yi ngại cho con cá lớn mà lão đã câu. Nó tuyệt vời, kỳ lạ và tuổi tác của nó là sao nhỉ, lão nghĩ. Chưa bao giờ mình gặp một con cá nào kiêu hùng và hành động quá đỗi kỳ lạ như nó. Có lẽ nó cũng thừa khôn ngoan để không nhảy lên. Bởi nếu cứ phóng lên hoặc lao chạy thì nó có thể hủy hoại mình. Nhưng chắc trước kia cu cậu đã nhiều lần nếm mùi dây câu nên đã biết đây là cách chiến đấu tốt nhất. Nó không thể biết chỉ có mỗi một người duy nhất đang đương đầu với nó và cũng chẳng hay rằng đấy là một lão già. Nhưng cu cậu đúng là chú cá vĩ đại và sự vĩ đại ấy còn được thể hiện ở phản thịt nơi chợ nếu thịt nó hãy còn tươi khi được mang đến đó. Cu cậu đớp mồi hệt một trang nam tử và cái cách cu cậu kéo cũng là của đấng hào hoa; cu cậu chống cự không một chút hoảng sợ. Ta phân vân chẳng biết nó có mưu đồ gì không hay cũng chỉ cố gỡ gạc như cái thân của ta thôi? Lão nhớ lần lão câu được một con trong cặp cá kiếm. Con đực luôn để con cái ăn trước và khi bị dính câu, con cái giãy giụa kinh hoàng, tuyệt vọng vẫy vùng thoát thân mạnh đến nỗi chẳng mấy chốc đã kiệt sức, suốt thời gian đó, con đực luôn ở bên bạn, bơi qua bơi lại dưới sợi dây và lượn tròn cùng bạn trên mặt nước. Nó bơi gần đến nỗi ông lão sợ nó có thể tiện phăng sợi dây câu bằng cái đuôi có hình dáng, kích cỡ và sắc tựa lưỡi hái. Khi ông lão móc con cá cái, giữ chặt cái kiếm xù xì tựa giấy nhám của nó và vung chày quật vào đỉnh đầu cho đến khi da nó chuyển sang màu như màu thủy ngân tráng phía sau gương, và rồi với sự trợ giúp của thằng bé, lão lôi con cá lên thuyền trong lúc con cá đực vẫn cứ sán lại bên mạn thuyền. Rồi trong lúc lão đang rửa sợi dây câu và xem xét lại cây lao, con cá đực tung mình nhảy vọt lên lửng lơ trong không trung bên cạnh chiếc thuyền để xem con cá cái ở đâu, rồi rơi lặn sâu xuống; đôi cánh màu đỏ hồng, tức đôi vây hai bên ngực, xòe rộng phô hết ra những đường sọc đỏ hồng rộng. Nó thật đẹp, ông lão nhớ, và nó thủy chung. Đấy là chuyện buồn nhất mà mình từng chứng kiến qua đôi cá ấy, ông lão nghĩ. Thằng bé cũng buồn và bọn mình cầu xin nó tha thứ trước khi vội xả thịt nó.
“Giá mà thằng bé ở đây”, lão nói lớn rồi trở người tì vào chỗ ván uốn cong phía trước mũi thuyền và cảm nhận được sức mạnh của con cá khổng lồ qua sợi dây lão giữ vắt qua vai, đang đều đều tiến theo hướng nó lựa chọn.
Một khi mình đã giở mẹo thì việc con cá chọn một lối thoát là rất thỏa đáng, ông lão nghĩ. Sự lựa chọn của nó là ở trong vùng nước sâu thẳm, tối om, cách xa hết thảy những lưỡi câu, cạm bẫy, lừa lọc. Còn mình thì lại chọn lối đến tìm nó ở nơi cách xa với loài người. Cách xa tất cả loài người trên trái đất. Bây giờ mình và nó dính chặt vào nhau kể từ buổi trưa. Và chẳng có ai giúp đỡ mình hoặc nó. Lẽ ra ta đừng làm ngư dân, lão nghĩ. Nhưng đấy là việc ta sinh ra để làm. Ta phải nhớ kỹ là phải ăn con cá thu sau khi trời sáng. Vào lúc gần sáng, có con gì đó đớp một trong mấy miếng mồi phía sau lão. Lão nghe tiếng phao gỗ gãy và sợi dây bắt đầu bị kéo xuống, qua mạn thuyền. Trong bóng tối, lão rút con dao trong vỏ ra, dồn hết trọng lực lên vai trái, ngã người cắt sợi dây vướng vào mấu gỗ ở mép trên mạn thuyền. Rồi lão cắt đến sợi dây gần đấy và trong bóng tối, lão nối đầu dây của các cuộn dự trữ lại. Lão nối rất điêu luyện chỉ với một bàn tay rồi giẫm chân lên giữ khi lão thắt chặt múi nối. Bây giờ lão đã có sáu cuộn dây dự trữ, bốn cuộn từ hai cái mồi lão đã cắt bỏ và hai cuộn từ miếng mồi con cá đang tha, tất cả đã được nối vào nhau. Khi trời sáng rõ, lão nghĩ, mình sẽ xem xét miếng mồi bốn mươi sải và cũng sẽ cắt bỏ để nối những cuộn dây dự trữ. Mình sẽ bị mất hai trăm sải dây Catalan loại tốt, lưỡi câu và cả chì nữa.
Số tài sản ấy có thể được bù đắp. Nhưng cái gì sẽ đền bù nổi con cá này nếu mình câu được vài con cá khác và chúng sẽ làm đứt sợi dây kia? Giờ thì mình không rõ con cá đớp mồi kia thuộc loại gì. Có thể đấy là một con cá kiếm, một con mõm lớn hay một con cá mập. Mình không nhận ra. Mình phải rũ bỏ nó quá nhanh. Lão nói lớn,
“Giá như mình có thằng bé”. Nhưng mày không có thằng bé đâu, lão nghĩ. Mày chỉ có một thân một mình và tốt hơn là mày nên quay lại với sợi dây câu còn lại kia, tối hay không tối thì cũng phải cắt phăng nó đi rồi nối nốt hai cuộn dây dự trữ lại. Lão làm như thế. Trong bóng tối, công việc quả khó khăn và một dạo con cá lồng lên kéo lão ngã sấp mặt xuống, đứt một vệt bên dưới mắt. Máu rỉ xuống má lão. Nhưng nó đông lại và khô trước khi bò đến cằm, lão lần về phía mũi thuyền, tựa lưng vào mạn. Lão chỉnh lại cái bao và thận trọng nhích sợi dây để nó hằn sang vùng vai khác, giữ và dùng vai neo chặt; lão cẩn thận dò sức kéo của con cá rồi nhúng tay xuống nước xem tốc độ thuyền. Mình không rõ nó nhảy lên để làm gì, lão nghĩ. Đoạn dây thép đáy hẳn quét trên mỏm lưng đồ sộ của nó. Chắc chắn lưng nó không thể đau bằng lưng mình đâu. Nhưng nó không thể cứ kéo mãi con thuyền như thế được dẫu cho nó khổng lồ đến mức nào. Giờ thì mình đã dọn sạch mọi thứ vướng víu và mình lại có cả đống dây dự trữ; con người ta chỉ cần có thế thôi.
“Cá này”, lão dịu giọng nói,
“tao sẽ cầm cự với mày cho đến chết”. Nó cũng sẽ cầm cự với mình, mình chắc thế, ông lão nghĩ rồi đợi trời sáng. Giờ đây trước khi trời sáng, không khí lạnh lẽo, lão nép sát mạn thuyền tìm hơi ấm. Mình có thể chịu đựng lâu như nó, lão nghĩ. Và trong ánh bình minh, sợi dây câu kéo dài, chếch đâm xuống nước. Con thuyền vẫn một mực thẳng tiến và khi mặt trời hé lên, tia nắng đầu tiên đậu lên vai phải lão.
“Nó bơi về phương Bắc”, ông lão nói. Dòng nước sẽ cuốn ta dạt xa về phương đông, lão nghĩ. Mình mong nó xuôi theo dòng nước. Lúc ấy chứng tỏ nó đã thấm mệt. Khi mặt trời lên cao hơn, ông lão nhận thấy con cá vẫn chưa mệt. Chỉ có một dấu hiệu đáng mừng duy nhất. Độ chếch của sợi dây cho thấy nó không còn bơi sâu nữa. Dấu hiệu ấy không thực sự có nghĩa con cá sẽ nhảy lên. Nhưng nó có thể.
“Cầu Chúa làm nó nhảy lên”, ông lão nói.
“Mình còn đủ dây để chinh phục nó”. Có lẽ nếu ta kéo căng dây một tí thì nó sẽ bị đau và nhảy lên, lão nghĩ. Bây giờ đã ban ngày ban mặt, nó cứ nhảy lên đi để những chiếc túi dọc theo xương sống chứa đầy không khí khiến nó không thể lặn sâu xuống chết. Lão cố kéo, nhưng sợi dây vẫn cứ căng đến mức chuẩn bị đứt tung như từ lúc lão mới câu được con cá và khi ưỡn người ra để kéo, lão cảm nhận được sức cản ấy và biết là mình không thể dồn thêm lực vào đó. Mình không nên giật mạnh, lão nghĩ. Mỗi cú giật sẽ nới rộng thêm chỗ lưỡi câu móc vào rồi khi nhảy lên, con cá có thể tuột thoát. Dẫu sao thì mặt trời đã làm mình dễ chịu hơn và lần này thì mình không phải nhìn trực diện về phía mặt trời. Những mảng rong biển màu vàng bám vào dây câu nhưng lão biết chúng chỉ làm tăng thêm sức cản, lão hài lòng. Đấy là giống rong vàng vùng Nhiệt lưu, ban đêm tỏa nhiều lân tinh.
“Cá này”, lão nói,
“tao rất yêu và ngưỡng mộ mày. Nhưng tao sẽ giết mày trước khi ngày kết thúc”. Ta hãy hy vọng thế, lão nghĩ. Từ phương Bắc, một con chim nhỏ bay về phía thuyền. Nó thuộc giống warbler và bay rất thấp trên mặt nước. ông lão có thể nhận thấy con chim đã thấm mệt. Con chim bay đến đuôi thuyền, đậu xuống. Lát sau nó lượn vòng quanh đầu ông lão và đáp xuống sợi dây nơi nó cảm thấy thoải mái hơn.
“Mày bao nhiêu tuổi rồi?”, ông lão hỏi con chim.
“Có phải đây là chuyến đi đầu tiên của mày không?” Con chim nhìn lão khi lão nói. Nó thậm chí đã quá mệt để kiểm tra sợi dây và khi đôi chân mảnh mai đáp nhanh trên sợi dây, con chim lảo đảo.
“Nó chắc đấy”, lão bảo con chim.
“Nó chắc lắm. Sau một đêm lặng gió lẽ ra mày chưa mệt mới phải. Loài chim nào sắp đến đây?” Đám diều hâu, lão nghĩ, sẽ ra khơi săn chúng. Nhưng lão không nói điều ấy với con chim bởi làm sao mà nó có thể hiểu được lão và đâu có thể lập tức hiểu ngay được lũ diều hâu.
“Cứ nghỉ ngơi thoải mái đi, chú chim nhỏ”, lão nói.
“Rồi bay vào bờ, tận hưởng vận may như bất kỳ con người, con chim hay con cá nào”. Con chim khuyến khích lão nói chuyện bởi suốt đêm lưng lão đã tê cứng còn bây giờ thì thực sự nhức nhối.
“Hãy ở lại nhà ta nếu chú mày muốn, chim à”, lão nói.
“Ta lấy làm tiếc là không thể giương buồm nương theo làn gió nhẹ đang thổi đưa chú mày vào đất liền. Bởi ta đang bận tiếp một người bạn”. Đúng lúc ấy, bất thình lình con cá giật mạnh, kéo lão ngã sấp xuống mũi thuyền và suýt lôi lão xuống biển nếu lão không gồng hết sức níu giữ và nới thêm dây. Con chim bay vụt lên khi sợi dây giật mạnh và ông lão thậm chí cũng không nhìn thấy nó bay đi. Lão thận trọng đưa tay phải sờ sợi dây và thấy bàn tay mình đang chảy máu.
“Đúng là có cái gì đó làm đau nó”, lão nói lớn và kéo dây lại để xem có thể lay chuyển được con cá không. Nhưng khi ráng đến điểm căng nhất thì lão đành giữ chặt và quay lại chống đỡ sức kéo của sợi dây.
“Giờ thì mày sắp nếm mùi rồi đấy, cá à”, lão nói.
“Và lạy Chúa, cả tao cũng vậy”. Lúc này lão nhìn quanh tìm con chim bởi lẽ lão muốn có nó làm bè bạn. Con chim đã bay đi. Mày không chịu ở lâu với tao rồi, lão nghĩ. Nhưng suốt đoạn đường vào bờ mày sẽ chịu gian nan hơn đấy. Làm sao mà mình lại để con cá cắt đứt tay bằng cú quẫy chớp nhoáng ấy? Hẳn mình đang hóa ngu đần rồi. Hay có lẽ tại mình mải nhìn con chim và nghĩ về nó. Giờ đây mình sẽ tập trung vào việc của mình và lát nữa mình phải ăn con thu để không bị đuối sức.
“Mình ước thằng bé ở đây và có một ít muối”, lão nói lớn. Chuyển sợi dây nặng trĩu sang vai trái và cẩn thận quì xuống, lão rửa bàn tay trong đại dương rồi ngâm chứng hơn một phút, mắt nhìn những vệt máu loang ra và sự di chuyển đều đều của mặt nước táp vào tay khi con thuyền trôi đi.
“Nó đã chậm lắm rồi”, lão nói. ông lão hẳn thích ngâm tay trong nước mặn thêm lát nữa nhưng lão sợ con cá lại thình lình quẫy, lão đứng dậy, gượng giữ thăng bằng và đưa bàn tay ra đón ánh nắng. Chỉ một cú giãy nảy lên là đã cắt đứt thịt da lão. Mà nó lại nhằm đúng cái phần hoạt động của bàn tay. Lão biết lão cần đôi tay cho đến khi trận đấu này kết thúc và lão lại càng không muốn bị cứa đứt trước khi trận đấu bắt đầu.
“Nào”, lão nói khi bàn tay đã khô.
“Mình phải ăn con thu nhỏ. Mình có thể lấy cái móc khều nó ra và cứ ngồi đây ăn cho thoải mái”. Lão quì xuống, tìm con thu dưới đuôi thuyền, dùng cái móc gỡ nó ra khỏi đống dây dợ, kéo về phía mình. Vẫn giữ sợi dây bên vai trái, dồn lực lên bàn tay trái và cánh tay, lão gỡ con cá thu ra khỏi cái móc và đặt cái móc về vị trí cũ. Lão tì đầu gối lên con cá, cắt dọc những miếng thịt đỏ thẫm từ sau đầu đến đuôi. Thịt cá được rạch theo hình chữ V, lão tiếp tục xẻ từ sống lưng xuống rìa vùng bụng. Khi cắt được sáu lát lão trải chúng ra trên tấm gỗ đằng mũi thuyền, chùi con dao vào quần, nhấc cái đuôi kéo theo cả phần còn lại của con cá quẳng ra ngoài thuyền.
“Mình không chắc là có thể ăn hết cả miếng cá”, lão nói rồi đưa dao cắt đôi một khúc thịt. Lão cảm thấy sợi dây vẫn kéo mạnh đều và bàn tay trái của lão đã bị chuột rút. Lão bực bội nhìn bàn tay quắp chặt lấy sợi dây câu nặng.
“Tay tiếc quái quỉ gì mày”, lão nói.
“Nếu muốn thì mày cứ co quắp đi. Biến thành cái vuốt ấy. Cũng sẽ chẳng làm mày tốt lành hơn gì đâu”. Thế đấy, lão nghĩ rồi nhìn làn nước đen ngòm chỗ sợi dây chếch xuống. n cá ngay đi, nó sẽ lấy lại sức lực cho bàn tay. Đấy không phải lỗi của bàn tay bởi mày đã cầm cự quá lâu với con cá. Nhưng mày vẫn có thể đương đầu với con cá mãi mãi. n con thu đi thôi. Lão nhặt một miếng, đút vào miệng, từ từ nhai. Cũng chẳng đến nỗi nào. Nhai thật kỹ, lão nghĩ và nuốt hết nước. Sẽ không tệ nếu được ăn kèm với một quả quất nhỏ, với chanh hoặc với muối.
“Mày cảm thấy thế nào rồi hở tay?”, lão hỏi bàn tay bị chuột rút cứng đến mức gần như là bàn tay của cái xác chết lạnh ngắt.
“Vì mày, tao sẽ cố ăn thêm một ít”. Lão ăn phần còn lại của khúc thịt đã cắt ra lúc nãy. Lão nhai cẩn thận rồi nhổ bỏ da.
“Thế nào rồi hả tay? Hay hãy còn quá sớm để hoàn hồn?” Lão lấy cả miếng thịt dài khác và nhai nó.
“Con cá này chắc thịt và nhiều máu”, lão nghĩ.
“Mình may mà tóm được nó thay vì đám cá dorado kia. Thịt cá dorado ngọt quá. Con cá này thịt không ngọt nhưng chất bổ dưỡng trong nó thì nhiều và vẫn ngon sau khi chết”. Dẫu sao thì thực tiễn cũng luôn thắng mọi giả định, lão nghĩ. oeớc chi mình có được ít muối. Mình không rõ liệu mặt trời sẽ làm hỏng hoặc sấy khô số cá còn lại, vậy nên tốt hơn là chén tất dẫu cho cái bụng không đói. Con cá bình tĩnh và kiên cường. Mình sẽ ăn hết cả chỗ cá này rồi mình sẽ sẵn sàng.
“Hãy kiên nhẫn, tay à”, lão nói.
“Tao làm điều này vì mày đấy”. Giá mà ta có thể cho con cá ăn, lão nghĩ. Nó là người anh em của ta. Nhưng ta phải giết nó và giữ gìn sức khỏe để làm điều đó. Từ tốn và tỉ mẩn, lão ăn hết sạch những miếng cá hình chữ V. Lão đứng dậy, chùi tay vào quần.
“Nào”, lão nói.
“Tay này, mày có thể buông sợi dây ra được rồi đó, tao sẽ điều khiển nó với mỗi bàn tay phải cho đến khi mày từ bỏ cái trò ngớ ngẩn ấy”. Lão giẫm chân trái lên sợi dây nặng mà bàn tay phải đã nắm giữ và ưỡn người làm giảm bớt sức nặng dồn lên lưng lão.
“Xin Chúa hãy giúp con trừ bỏ cái chứng chuột rút này đi”, lão nói.
“Bởi lẽ con không biết rồi đây con cá sẽ làm gì”. Nhưng dường như nó cứ điềm tĩnh, lão nghĩ, thực hiện kế hoạch của mình. Nhưng kế hoạch của nó là gì, lão thầm nhủ. Thế còn kế hoạch của ta? Của ta, ta phải ứng biến kịp thời với nó bởi kích thước khổng lồ ấy. Nếu nó nhảy lên thì ta có thể giết nó. Nhưng sao nó cứ ở mãi dưới đó. Vậy thì ta cũng sẽ cầm cự luôn với nó dưới đó mãi mãi. Lão xát bàn tay bị chuột rút vào quần dài và cố cử động mấy ngón tay. Song nó vẫn không duỗi ra. Có lẽ mặt trời sẽ làm nó duỗi, lão nghĩ. Có lẽ nó sẽ lại cử động khi chỗ thịt cá thu sống bổ dưỡng ấy được tiêu hóa. Nếu phải sử dụng nó thì ta sẽ cố mở bằng bất cứ giá nào. Nhưng bây giờ ta chưa muốn dùng sức với nó. Cứ để nó tự duỗi ra và quay lại với chức năng của chính mình. Tình thực tối qua ta đã lạm dụng nó quá mức khi lẽ ra nó cần được nghỉ ngơi, không vướng mắc với mớ dây dợ kia.
Lão nhìn quanh biển và biết lúc này lão cô đơn biết nhường nào. Nhưng lão vẫn có thể nhìn thấy những khối hình trụ trong làn nước đen sẫm sâu hoYy, cả sợi dây câu thẳng chếch phía trước mặt và những gợn sóng bình thản đến kỳ lạ. Theo làn gió mậu dịch, giờ đây những đám mây ùn lên, lão nhìn ra trước mặt và thấy một đàn vịt trời in lên nền trời trên biển, thoắt ẩn, thoắt hiện và lão biết chẳng có ai phải cô đơn trên biển cả. Lão nghĩ đến kiểu sợ của nhiều người lúc lênh đênh trên thuyền nhỏ mà không nhìn thấy đất liền và biết họ đúng, bởi trong nhiều tháng thời tiết sẽ thất thường. Bây giờ họ đang ở vào những tháng cuồng phong, song những khi không có bão thì thời tiết trong những tháng cuồng phong lại tốt nhất trong năm. Nếu có bão thì khi đi biển người ta sẽ luôn thấy dấu hiệu của nó trên bầu trời từ vài hôm trước. Nhưng những người ở trên bờ thì không thấy bởi họ chẳng biết quan sát để làm gì, lão nghĩ. Đất liền rõ là khác hẳn, hình dáng những đám mây ấy mà. Nhưng bây giờ thì chưa có bão. Lão nhìn lên bầu trời và thấy những đám mây trắng xếp lên nhau tựa chồng bánh kem ngon lành, còn bên trên là những quầng mây mỏng nhẹ tênh trên bầu trời tháng chín sâu thẳm.
“Gió nhẹ”, lão nói.
“Cá này, thời tiết thuận cho ta hơn là cho mày”. Bàn tay trái của lão vẫn co quắp nhưng lão đã khẽ duỗi được một tí. Mình căm thù chứng chuột rút, lão nghĩ. Đây là ngón đồi bại của chính thể xác. Thật là nhục nhã khi trước mặt người khác mà lại ỉa chảy hay nôn mửa do ngộ độc thức ăn. Nhưng trò chuột rút, lão nghĩ, rõ đúng là một calambre, lại đặc biệt nhục nhã khi xảy ra với kẻ một thân một mình. Nếu thằng bé ở đây thì nó sẽ xoa bóp cánh tay, bàn tay và làm nó duỗi ra, lão nghĩ. Nhưng tự nó cũng sẽ khỏi. Tiếp đó bàn tay phải của lão cảm nhận sức nặng của sợi dây có phần khang khác trước khi lão thấy độ nghiêng của nó thay đổi trên mặt nước. Rồi khi giữ chặt sợi dây, đập nhanh và mạnh bàn tay trái vào đùi, lão thấy sợi dây chênh chếch từ từ nổi lên.
“Nó đang trồi lên”, lão nói.
“Thôi nào tay. Hãy cố lên”. Sợi dây cứ lững thững, điềm tĩnh nhô lên và lúc mặt biển vỡ toang phía trước thuyền, con cá tung mình lên. Nó nhô lên bất tận, nước đổ ròng ròng từ hai bên lườn. Thân hình bóng nhẫy trong ánh nắng; đầu và lưng màu tím sẫm; trong ánh nắng, những đường sọc hai bên mình nó nom đồ sộ, phớt hồng. Cái kiếm của nó dài bằng cây gậy bóng chày, thon như một lưỡi kiếm; nó vươn hết độ dài thân hình lên khỏi mặt nước rồi nhẹ nhàng lao xuống như một tay thợ lặn; ông lão nom thấy cái đuôi hình lưỡi hái đồ sộ chìm xuống và sợi dây câu lại hút theo.
“Nó dài hơn chiếc thuyền chừng năm sáu tấc”, ông lão nói. Sợi dây tuồn nhanh xuống, nhưng đều đặn, chứng tỏ con cá không hề hoảng sợ. ông lão dồn cả hai tay hãm sợi dây nhưng chỉ trong mức an toàn, tránh để bị đứt. Lão biết, nếu lão không kìm chậm tốc độ của con cá thì nó có thể lôi tuột hết cả dây và bứt đứt. Chú cá thật kiêu hùng và mình phải chinh phục nó, lão nghĩ. Ta phải không để nó biết rằng nó khỏe cũng như nếu nó cứ bơi hoài như thế thì nó cũng sẽ chẳng mảy may biết chuyện đã gây ra cho ta. Nếu ta là nó thì ta sẽ dốc hết sức bình sinh kéo cho dây câu đứt tung hết cả lên. Nhưng, tạ ơn Chúa, loài vật thì chẳng thông minh bằng kẻ tiêu diệt chúng; mặc dù chúng cao thượng và hùng tráng hơn. ông lão đã từng thấy nhiều cá lớn. Lão đã tận mắt chứng kiến nhiều con cân nặng hơn nửa tấn và trong đời chính lão cũng đã bắt được hai con lớn như thế, nhưng không phải chỉ một mình.
Giờ đây, chỉ mình lão, đất liền lại khuất xa tầm mắt mà lão lại tóm được con cá lớn nhất, một con cá lão chưa từng thấy và lớn hơn cả những con được cánh chài lưới truyền tụng, trong lúc bàn tay trái của lão vẫn quắp chặt như cái vuốt của con đại bàng lúc co vào. Dẫu sao thì nó cũng sẽ khỏi, lão nghĩ. Chắc chắn nó sẽ duỗi ra để giúp bàn tay phải. Có ba thứ là anh em ta: con cá và hai bàn tay. Nó phải thôi cái thói chuột rút ấy đi. Bị chuột rút thì chẳng còn chút giá trị gì nữa. Con cá lại giảm tốc độ và tiến đều đều như trước. Mình thắc mắc tại sao nó lại nhảy lên nhỉ, lão nghĩ. Nó nhảy lồng lên như thể nó để mình biết nó lớn nhường nào. Dẫu sao thì bây giờ mình đã biết; lão nghĩ. Giá mà mình có thể cho nó thấy mình thuộc loại người nào. Nhưng ngộ nhỡ nó nhìn thấy bàn tay bị chuột rút. Cứ để cho nó nghĩ mình khỏe hơn chính bản thân mình và mình sẽ là như thế. oeớc gì ta là con cá, lão nghĩ, với mọi phẩm chất nó có chỉ trừ khát vọng và trí tuệ của ta. Lão lựa chiều tựa người thoải mái hơn vào mạn thuyền, rán sức chịu đựng trọng lực dồn tới khi con cá bình thản bơi va con thuyền chầm chậm trôi trên làn nước thẫm. Khi gió từ hướng Đông thổi lại, mặt biển khẽ cồn lên và đến trưa, bàn tay trái của lão hết bị chuột rút.
“Tin xấu cho mày đây, cá”, lão nói và dịch sợi dây trên chiếc bao phủ vai lão. Đã chọn được tư thế thoải mái nhưng lão vẫn thấy đau nhức dẫu cho lão chẳng bận tâm đến cơn đau ấy tí nào.
“Mình vô thần”, lão nói.
“Nhưng mình sẽ đọc mười lần bài kinh Lạy Cha và mười lần bài kinh Mừng Đức Mẹ để mình có thể bắt được con cá này và mình hứa mình sẽ hành hương đến nhà thờ Đức Mẹ Đồng Trinh xứ Cobre nếu mình bắt được nó. Mình xin hứa như thế”. Lão bắt đầu máy móc đọc kinh. Đôi chỗ, do quá mệt nên lão không thể nhớ bài kinh rồi tiếp đó lão đọc nhanh đến nỗi bài kinh như động ùa ra. Kinh Mừng Đức Mẹ dễ đọc hơn kinh Lạy Cha, lão nghĩ.
“Kính Đức Mẹ Maria ơn sâu, Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phước lạ hơn mọi phụ nữ và Jesus cùng Bà gồm nhiều phước lạ. Thánh nữ Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen”. Rồi lão đọc thêm:
“Đức Mẹ Đồng Trinh đầy phép lạ, cầu cho con cá này chết đi. Dẫu cho nó có là chú cá siêu phàm”. Đọc xong mấy bài kinh của mình, cảm thấy đỡ hơn nhiều nhưng cơn đau nhức vẫn nguyên như cũ, có lẽ lại tăng thêm chút ít, lão tựa vào mạn mũi thuyền và bắt đầu máy móc cử động mấy ngón tay ở bàn tay trái. Bây giờ mặt trời nóng bức dẫu cho cơn gió nhẹ đang thoảng qua.
“Tốt hơn là ta móc lại sợi dây câu nhỏ ấy rồi thả qua đuôi thuyền”, lão nói.
“Nếu con cá quyết định nán thêm một đêm nữa thì mình cần có cái để ăn, vả lại trong chai, nước sắp hết rồi. Nơi này mình không hy vọng bắt được loài nào khác ngoài cá dorado. Nhưng nếu mình ăn lúc nó còn tươi rói thì thịt nó cũng không đến nỗi tồi. Mình ước tối nay một con cá chuồn bay lạc lên thuyền. Nhưng mình không có đèn để dụ nó. Thịt cá chuồn ăn sống thì tuyệt cú mèo và mình sẽ không cần cắt ra. Giờ thì mình phải giữ gìn sức lực. Lạy Chúa, mình không biết nó lớn quá”.
“Nhưng ta sẽ giết nó”, lão nói.
“Dẫu cho con cá có vĩ đại và kiêu hãnh đến nhường nào”. Dẫu sao thì cũng thật bất công, lão nghĩ. Nhưng mình phải cho con cá thấy những gì con người có thể làm và khả năng chịu đựng của hắn.
“Mình đã bảo thằng bé, mình là lão già kỳ lạ”, lão nói.
“Giờ là lúc mình phải chứng minh điều đó”. Đã hàng ngàn lần lão chứng minh nhưng rồi cũng chẳng có nghĩa lý gì. Bây giờ lão lại đang chứng minh. Mỗi lần đều mới mẻ và lão chẳng hề nghĩ về quá khứ khi lão làm điều đó. Mình mong nó ngủ và mình có thể ngủ và mơ về những con sư tử, lão nghĩ. Tại sao đàn sư tử lại là hình ảnh đậm nét nhất trong ký ức? Đừng nghĩ nữa, lão già ạ, lão tự nhủ. Bây giờ hãy tựa vào mạn thuyền nghỉ ngơi một lát và đừng nghĩ ngợi về bất cứ điều gì cả. Con cá thì mải kéo. Còn mày thì hạn chế di chuyển đến mức có thể.