Văn hoá đối thoại
Tác giả: Hàn Lệ Nhân
Lời nói đầu:
Trước, bài tùy bút này là một hình thức kiểm điểm cho bản thân tôi, qua khá nhiều năm tập viết và xưa, qua những cuộc "bút chiến" trên giấy, rồi từ vài năm trở lại đây trên thế giới ảo, "bàn loạn" với những "địch thủ" vô hình. Nhờ đó tôi mới nảy ra cái "chữ ký": "Đối thoại giữa chúng ta là lối đối thoại không chân dung, nghĩa là khiếm diện nhưng nhất định không khiếm nhã". Sau, từ lâu tôi có đọc một số sách Pháp ngữ về Culture Humaine (Học làm người), nay tuy còn nhớ lỏm bỏm vài điều mà cá nhân tôi thấy hay hay liên quan tới đối thoại, tôi thử viết lại như một bản ghi nhớ để từ rày răn mình hơn nữa trước khi đưa ra hay đón nhận một cuộc "bàn loạn" mới.
Chủ ý của bài nầy là tản mạn về đối thoại trên Internet cho nên xin hiểu Nói / Viết, Nghe / Đọc ở đây có cùng một ý. Tóm lại, tôi ký tên bài này chỉ để chịu trách nhiệm tinh thần, chứ tôi không hề nhận là tác giả, vì những câu nào hay hay, cứ như rằng thuộc người khác – chắc chắn là như thế, song lâu quá tôi quên hầu hết gốc gác hoặc nói cách văn hoa là nó đã hoà vào máu, nên đâu dám chú thích bừa. Mong các bạn thể tất cho việc thiếu chi li trong phần ghi xuất xứ mà tôi vốn rất thận trọng.(HLN)
*
Ai cũng biết ngôn ngữ vốn giới hạn và thường là nguyên do gây nên hiểu lầm mà sự hiểu lầm dễ đưa tới những tình huống éo le, không đẹp. Nói vậy là vì trong đối thoại bất đồng quan điểm trên mạng, mỗi bên chỉ nghỉ đến điều họ muốn nói hơn là nghe người khác nói: Chúng ta cùng nói chẳng cùng nghe ! Trong khi đáng lý ra cần phải đọc thật kỹ, hiểu thật rõ những gì người khác phát biểu, rồi bình tâm thủng thỉnh hồi đáp thẳng vào đề, vào từng ý, từng đoạn mà ta cho là không tương thích với vốn liếng "lưu cửu" trong bụng trong đầu ta, nếu thực sự ta muốn đối thoại và muốn được người khác nghe ta. Mà "biết nghe tức là đã biết suy nghĩ" (1)
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (TNQTNQ), điều 19 ghi rõ:
"Mọi người đều có quyền tự do tư duy và ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền không bị gây khó khăn vì quan điểm của mình và quyền được tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và ý kiến qua mọi phương tiện truyền thông và qua mọi biên giới."
mà Hiến Pháp nước nào, kể cả mấy nước độc tài còn sót lại trên trái đất, cũng có những điều khoản dựa theo ý trên. Có điều tôi để ý: TNQTNQ và Hiến Pháp của các nước tôi có đọc qua thiếu hẳn một tiểu tiết tối quan trọng cho tự do ngôn luận: Ta phải ngôn luận như thế nào? Đương nhiên tôi cũng có tạm hiểu tiểu tiết này chẳng liên quan gì tới hiến pháp, luật pháp. Ngôn luận như thế nào là phong cách thể hiện ý tưởng thuộc phạm trù luân lý đạo đức, tự giác tự trọng trong xã giao, trong đối thoại.
Tôi không sợ nhầm lẫn khi khẳng định: Nói là đặc tánh của con người - vừa là phúc vừa là họa trời phú cho con người. Sinh vật nào cũng có lưỡi nhưng chỉ có cái lưỡi của con người là đa dụng khôn lường, mà đệ nhất dụng là nói, là lắt léo ! Bởi vậy phải để cho người ta tự do phát biểu, dẫu là phát biểu vụng về, dẫu là phát biểu những điều trái tai, hoặc những điều ta tự kỷ ám thị cho là vô ích hay ta ngay ngáy lo sợ có ảnh hưởng tiêu cực đến mớ tư tưởng "bất khả tư nghì", tai hại cho cái lý tưởng cao cả của ta mà quên rằng áp chế sự phát biểu của kẻ khác, dưới mọi hình thức, là bỉ lậu, là tự thú sự khiếm khuyết, thoái hoá của mình. Ai đã từng một lần đặt mình vào địa vị kẻ khác trong hoàn cảnh trớ trêu ắt sẽ giật mình khi đọc lại câu "kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" (Khổng Tử) nghĩa là "ta không muốn điều gì thì đừng bắt người khác chịu điều đó", và nghe lại câu "Tôi nói thật với quí vị rằng, không thể nào chấp nhận được khi quí vị đòi hỏi cho quí vị những điều mà chính quí vị từ chối cho kẻ khác." (2)
Thế giới đã và đang chuyển dần từ đối đầu qua đối thoại thì – tôi dặn lòng tôi, thay vì phủ đầu, vu khống, quy chụp, xuyên tạc, mạ lỵ... như vẫn thường xuyên xảy ra, ta nên cố gắng đi vào tâm ý của "đối phương", đi vào giám thức của "đối phương"; tỏ cho họ biết, qua phản hồi nhẹ nhàng nhưng cương quyết của ta, là ta đã đọc kỹ họ, nói lên những gì đang ray rứt lòng họ. Nếu có thể, khen những điều họ viết - nhiều ít tùy mức cảm nhận của ta, đồng thời ý nhị cho họ biết khen ngợi là sự lựa chọn chứ chẳng bao giờ là thoả hiệp.
Những sơ suất xem ra "nhỏ nhặt" tôi gây ra thường là do chủ quan, lấc cấc, bộp chộp, kiểu "chạy trước đèn", "nói trước nghĩ sau", nhưng hậu quả lắm khi chẳng nhỏ tí nào. Mới đây tôi đã "mất" một bạn văn trên Net chỉ vì bị hiểu lầm mà tới nay tôi tạm gẫm là "Tôi hay nói những gì tôi không nên nói, khổ nỗi, tôi lại chẳng mấy khi nói những gì tôi cần phải nói" (3). Dù thế, tôi vẫn không hiểu nổi cái gọi là nghệ thuật của sự im lặng mà các triết gia Đông-Tây kim cổ cho là cao siêu hơn nghệ thuật nói. Cái cao siêu của nghệ thuật im lặng đắc dụng ở địa hạt nào tôi chưa biết chứ trên Internet, tôi tin là không đắt. Đã được liệt thành nghệ thuật, sự im lặng hẳn có cái lý, cái đẹp của riêng nó, nhưng nó có biết cho chăng, trong một không gian, một thời điểm nào đó nó vừa là nạn nhân, vừa là đồng loã của bất công, của bạo cường, của lừa bịp? Im lặng ở đây thật hợp với câu "mỗi chúng ta đều có đủ nghị lực để chịu đựng những khổ đau của kẻ khác" , nhưng lại ngược hẳn câu nói táo tợn của Karl Marx (1818-1883):"chỉ có loài súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của con người, và chăm lo riêng cho bộ da của mình".
Tuy vậy, thỉnh thoảng tôi bắt gặp câu "không nói chẳng ai bảo câm" . Câu này theo tôi nó chỉ đúng khi người bị mắng không biết mình nói gì: 1/ là do đương sự không thèm đọc bài chính hay chỉ liếc chéo cái tựa rồi cứ thế mà phang; 2/ là do đương sự chạy theo cái reply cuối cùng vốn đã lạc đề, lạc điệu từ đó đâm ra lạc đạn, kế đến là lạc lõng, lạc hồn. Nghệ thuật của sự im lặng ít ra cũng hữu dụng trong trường hợp nầy: không nói chẳng ai bảo câm !
Với tôi, hay dở là do ta nói như thế nào, ứng xử như thế nào trong "trận địa", khi mà "hoàn cảnh không quan trọng, cách phản ứng trước hoàn cảnh mới quan trọng ". Thậm chí, ở giữa lòng thời đại chiến tranh hình ảnh, chiến tranh nói láo, chiến tranh "vặt lá tìm sâu" mà trong một "trận bàn loạn", có một tiên sinh đầy thiện ý kín đáo khuyên riêng tôi: "Phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh" nghĩa là "Vì không tranh với ai, nên không ai tranh với mình"(Đạo Đức Kinh, Lão Tử). Ý rằng tôi nên "buông cái cuốc cùn để thành bồ tát" !
Trong "bàn loạn", tôi không ngại bị xúc xiểm, tôi nghĩ: kẻ xúc xiểm đồng nghĩa với kẻ đuối lý; nhưng tôi còn chút dị ứng với mấy chữ "thằng nầy, thằng kia", "bè lũ, tập đoàn", "phản động, bán nước" nghe nó trình trịch thế nào và tôi kỵ nhất cái giọng phán truyền, kẻ cả. Chính cái giọng này đã làm cho tôi bao lần nghĩ một đàng nói một nẻo. Cũng có thể tôi bị trúng bẩy khiêu khích, cố tình phá rối của "đối phương" đến mất bình tỉnh mà không biết. Nhưng, nạn nhân đầu tiên của sự phá rối, theo tôi, lại là Moderators vì khi tình hình coi mòi căng thẳng, Mods chỉ việc vô tư gọn nhẹ khoá bài hay xoá tuốt luốt thay vì chỉ cần nhín chút thời giờ xoá những replies "khiếm nhã", chứ ai đời bắt bàn dân thiên hạ phải gánh chịu sự hồ đồ của một hai "chuyên viên phá thối, chưa nói đã cười".
Theo tôi, đừng bao giờ để lộ cho người ta ngờ rằng ta hợm hĩnh có lý hơn họ, hơn nữa, điều tối trọng là không nên sổ toẹt mọi quan điểm dị biệt vì Thuận ta là bạn ta, nhưng Nghịch ta lại là thầy ta !
Trong bộ Nho Giáo của cụ Trần Trọng Kim (1883-1953), BGD-Trung Tâm Học Liệu xuất bản – Sàigòn 1971, ở phần phụ lục, tập hạ (từ trang 393) có đăng lại loạt bài "bút chiến" giữa cụ Trần và cụ Phan Khôi (1887-1959), trong thập niên 1930. Cụ Trần đã mở:
[«Ông (cụ Phan) lấy lời rất thanh nhã và thành thực mà bày tỏ cái ý kiến của ông và chỉ bảo những điều mà ông cho là tôi (cụ Trần) đã lầm; thật tôi lấy làm cảm tạ lắm". "Người mình xưa nay vẫn chưa quen chịu người ta phê bình. Ai làm được quyển sách quyển vở nào, đem ra giới thiệu với công chúng, thì chỉ muốn khen, chứ không muốn người ta chê, rồi hễ thấy người ta bẻ bắt điều gì là mích lòng, và không hiểu rằng: "Người dạy ta mà phải là thầy ta, người trách ta mà phải là bạn ta". Bởi vậy người phê bình cũng không muốn phê bình, mà sự học cũng không tiến bộ được. Nay Phan quân không theo thói thường, cứ tự mình sở kiến thế nào, thì nói rõ ra như thế, để người bàn đi có người bàn lại, khiến cho sáng tỏ cái chân lý ra. Ấy là một cách phê bình chính đáng mà tôi rất lấy làm kính phục.
Phan tiên sinh đã có lòng tốt đem sở kiến của mình mà bày tỏ cho tôi biết, vậy tôi xin lấy lòng thành thực đem cái sở kiến của tôi ra mà bàn lại với Phan tiên sinh. Vị tất lời bàn của tôi đã vừa ý Phan tiên sinh, song cái chủ đích không phải là ganh hơn ganh kém gì, chỉ cốt làm cho rõ cái chân lý ra mà thôi.]
và khép lại:
[«Dẫu thế nào mặc lòng, xem đó thì biết Phan quân với tôi đi hai con đường khác nhau. Thôi thì tiên sinh đã chia ra tả hữu, thì tiên sinh cứ đi đường tả, tôi cứ đi đường hữu, mong rằng một ngày kia ta cùng nhau tới một chỗ cao ráo sạch sẻ, tiên sinh thì đem cái tài năng của tây học, tôi thì đem những vật liệu của nước nhà, rồi hai ta cùng ra sức xây lấy một cái nhà thật đẹp theo kiểu mẫu rất mới, mà vẫn là nhà của ta, chứ không giống nhà của người. Lúc ấy ta cùng nhau cả cười rằng ta đi con đường khác nhau mà cùng tới một cái mục đích.
Hai ta tuy không đồng, nhưng vẫn hoà được; cũng như tiên sinh thì thích đến nhà cô Logique mà tôi lại ưa nói chuyện ở nhà ta, thế mà ta vẫn theo cái chủ nghĩa Hoà nhi bất đồng kể cũng đã có phần hay lắm rồi.
Phan tiên sinh đã có lòng tốt cho tôi được dự cuộc bàn chuyện thánh hiền và chuyện khoa học, thật là một sự may mắn cho tôi lắm. Tôi cứ tình thực đem cái sở kiến của tôi trình bày với tiên sinh. Phải trái thế nào đã có công luận quyết định.»]
Có dịp các bạn nên tìm đọc toàn văn, không phí công đâu. Điều mà tôi tâm đắc nhất trong cuộc nghị luận này là hoả hầu hàm dưỡng qua cách phát biểu và sự tương kính của hai cụ.
Cá nhân tôi từng tham gia một số "bàn loạn", từng theo dõi không ít cuộc "bút chiến" linh tinh đề tài trên mạng giữa các văn gia, chính khách, tiến sĩ, giáo sư... có danh có vọng hẳn hoi (chứ không phải nickname) và xin thú thật là chưa được hân hạnh thấy "trận" nào đạt được 40% của "trận" Nho Giáo, từ chữ nghĩa đến cung cách, nhất là cung cách. Tôi nhấn mạnh hai chữ cung cách vì tôi quan niệm cung cách hành văn trong nghịch cảnh lộ rõ bản ngã lẫn trình độ của tác giả, hệt như người say xỉn thường phơi bày bản chất thật của mình. Hèn chi có ông cụ nhà thơ người Pháp chẳng thèm gượng nhẹ khi phát biểu "người bác học chưa chắc là người có văn hoá". (4)
Ông bà ta có dạy: "Cách cho nặng hơn của cho, cách nói thấm hơn lời nói" , nhất là lời nói lại được song hành với phép lịch sự cơ bản. Ý thức được điều cơ bản chẳng mất tiền mua này, chóng chầy sẽ không còn chuyện kiêng dè, hạn chế trong bất cứ đề tài lành mạnh nào trên Net và tôi ngong ngóng cái bảng phi nầy, phi nọ sớm được xếp cất vào vang bóng một thời.
Hàn Lệ Nhân
(Tản mạn qua đêm 12)
(1) Introduction à la culture personnelle, Henri Mavit (1913-)
(2) Trích diễn văn của cố tổng thống Ai Cập, Anouar El-Sadate (1918-1981) trước quốc hội (Kneset) Israël ngày 20/11/1977).
(3) Mượn ý của Jean Jacques Rousseau (1712-1778) trong "les Confessions".
(4) La culture au cours de la vie, Désiré Roustan (1873-1941)