CHƯƠNG 1
Tác giả: Hans Ruesch
Mọi ngày, mỗi khi thức dậy và chui ra khỏi bao da Erơnênếch nghĩ ngay đến đống thịt để bên cạnh cây đèn cho mềm và ngon. Nhưng hôm đó nhìn Sicsic trong góc ngôi nhà nấm bằng băng nhỏ bé đang chải sạch quần áo cho chồng thì anh suy nghĩ đến một quyết định trước khi thoả mãn đòi hỏi của dạ dày. Anh thấy mình đã đóng góp nhiều hơn nghĩa vụ của mình để duy trì cái cộng đồng nhỏ bé này nên anh có quyền dự vào việc làm chồng chung với Anarơvích, để đỡ phải xin phép anh ta mỗi khi cần chung đụng với Sicsic.
Erơnênếch chưa có vợ riêng, phần anh còn trẻ, phần khác vì ở vùng băng tuyết cực bắc này gấu nhiều hơn là phụ nữ. Bởi vậy anh rất biết tầm quan trọng của việc có một người vợ riêng, giỏi chải áo quần,sửa chữa giày dép, và nhất là để có thể trò chuyện với cô ta suốt những đêm dài bắc cực.
Giờ đây, trước khi đi săn, anh thích cười đôi chút với Sicsic. Có điều gì thích hợp và không thích hợp đối với một người đàn ông chân chính, khi nào thì có thể hưởng ân huệ của một người đàn bà mà không phải xin phép trước chồng cô ta.
Erơnênếch hiểu điều đó và luôn chú ý để không mắc lỗi.
Erơnênếch đã cảm thấy mỏi mệt vì chuyện xin phép. Anarơvích chưa khi nào từ chối lời yêu cầu của anh. Từ chối cho mượn vợ hay con dao của mình là hành động của kẻ keo kiệt, ích kỷ, nhưng cứ liên tục yêu cầu ân huệ cũng không xứng với một con người thuộc dòng giống kiêu hãnh được những người cùng bộ tộc gọi là Inuit (tức là con người). Điều đó cũng để chứng tỏ cho những giống người khác biết rằng so với anh họ cũng không được coi là con người thực sự. Nhất là với các bộ tộc đã gọi tộc người Anarơvích da đỏ của anh bằng cái từ khinh bỉ là Eskimo (những người ăn thịt sống).
Nhiều nhóm người không còn đúng với cái tên ấy nữa, nhưng nhóm nhỏ người Eskimo bắc cực này, sống du mục trên vùng trung tâm biển Bắc Băng Dương, vùng không có người da trắng đến, họ vẫn không hề thay đổi cuộc sống hoang dã như thuở loài người lúc sơ khai. Họ giống như trẻ thơ, vui cười thơ ngây và không có lòng thương. Trong thời đại đánh nhau bằng xe tăng này họ vẫn dùng cung bằng sừng và xương cá voi, tên buộc đá, họ chia nhau sản phẩm săn được và không biết nói dối đến nỗi tất cả đều trở nên cục mịch. Erơnênếch là một người Eskimo bắc cực.
Trên ngọn đèn thắp bằng mỡ, nước chè đang nguội dần. Sicsic rót đầy một bát và đem đến cho Erơnênếch một cách khó khăn vì chị mang đôi giày da hải báo dài đến bẹn. Chị mỉm cười. Đàn ông, đàn bà ăn vận như nhau nên cả hai đều thấp béo trùng trục, chân tay thì nhỏ, khuôn mặt to bè, thô và chân chất. Họ chỉ khác nhau ở tóc: đàn ông tóc dài để xoã trong khi đàn bà cẩn thận vấn tóc cao theo hình tháp, kẹp một chiếc xương cá.
- Anarơvích ở đâu? - Erơnênếch cầm bát nước hỏi.
- Chắc anh ấy đi săn ở Vịnh Hải Cẩu Mù - Sicsic đáp - À tôi mơ thấy các anh ăn hết một con hải báo.
Chị mỉm cười nói, rồi lại cười tiếp. Người Eskimo rất dễ cười và hay cười.
Nước chè nóng như bụng đàn bà, nghĩa là quá nóng đối với Erơnênếch. Anh không chịu được nóng. Anh thổi rất lâu trước khi uống, mắt chăm chú nhìn Sicsic. Sau đó anh uống một hớp nước, lấy chè trong bát ăn rồi chui ra khỏi túi da. Anh mặc áo nhẹ làm bằng da diệc biển, lông lộn vào trong. Bên ngoài bận áo nặng bằng da gấu, lông để ra ngoài. Anh mặc quần bằng da hải báo. Vì vòm nhà thấp, anh phải cúi lom khom, lấy dao cắt thịt mềm cho vào mồm ăn. Ăn no, anh luồn qua đường hầm chật bằng băng và dùng cả hai tay nắm lấy tay con chó kéo xe đầu đàn, rồi trườn ra khỏi nhà nấm bằng băng. Lũ chó còn lại chạy ra sau, chúng xù lông sủa vì đói, phô hàm răng bị chủ lấy đá ghè bằng để chúng không gặm xe trượt băng làm bằng thịt cá. Chúng trông giống chó sói hơn là chó nhà, mõm nhọn, mắt vàng và sáng lấp lánh.
Erơnênếch cẩn thận xem xét bọc bảo vệ chân chó để băng và muối biển khỏi ăn chân chúng. Sau đó anh buộc chó vào xe trượt, leo lên nhấc neo chôn trên băng, rồi quất mạnh vào bầy chó. Chúng chạy nhanh trên biển băng tốc ra theo hình nan quạt, làm sợi dây kéo rên ken két.
Trời nóng, khoảng 15 độ âm không cần phải ngồi khuất trong xe cho ấm. Erơnênếch thoải mái ngồi ở đầu xe, hưởng một cuộc dạo chơi. Phía nam nơi mặt trời văng bóng, bầu trời nhuộm một màu xanh. Màu xanh ấy tan dần và chuyển thành màu tím về phía bắc. Dưới bầu trời nhợt nhạt đó mặt đất bạc phếch không màu, không sắc, không bóng hình, trông như mắt chó.
Băng ở Bắc Băng Dương dày đến hai mét, bên trên phủ một lớp tuyết mỏng còn hằn dấu xe Anarơvích. Phía bên phải là những dãy núi hiểm trở, và những quả đồi nhọn, trắng trần trụi. Bên trái chỉ có sương mùa xuân trùm lên mặt biển.
Erơnênếch không quay lại nhìn ngôi nhà bằng băng nhỏ bé trông như một hòn bi đơn độc trên biển. Do khả năng trí tuệ có hạn, anh chỉ có thể nghĩ được về một điều, mắt nhìn chăm chăm ra biển lớn, nơi anh cần tìm gặp Anarơvích. Anh quên mang theo cả đầu hải báo để lấy lửa và xoa cho nóng vì tâm tưởng anh chỉ nghĩ tới việc xin phép Anarơvích, chứ không nghĩ gì đến những công việc khác.
Lời yêu cầu của anh chỉ có thể được trả lời bằng hai cách. Dù ít lịch lãm, Erơnênếch ít ra cũng biết được điều đó. Nếu Anarơvích chấp nhận thì Erơnênếch cảm thấy mình bị xúc phạm vì cầu xin ân huệ. Kiêu hãnh là người đàn ông thật sự, Anarơvích có thể hạ nhục anh bằng sự đồng ý ngay lập tức. Để lấy lại danh dự, Erơnênếch buộc phải ra sức săn bắn để trả đũa lại bạn anh bằng cách đem cho thật nhiều đồ săn được. Trái lại, nếu Anarơvích chối từ thì Erơnênếch có thể cười nhạo anh ta là keo kiệt và nhỏ nhen. Nhưng đó là một sự an ủi nhỏ nhoi so với việc anh phải lặn lội đi tìm bạn ở nơi khác, phải mất một hai năm đi về phía nam nơi có nhiều đàn bà nhưng ít gấu, di về nơi mặt trời lên cao và bóng ngắn, nơi có nhiều bộ tộc tập quán rất lạ đối với người Eskimo bắc cực. Đó là một bất hạnh. Đằng nào cũng vậy, đã ngỏ lời cầu xin, anh sẽ gặp rất nhiều bất tiện. Sở dĩ anh chưa bỏ đi nơi khác vì cách đây hai năm, Anarơvích có nói là ông Ululích, anh của anh ta, sẽ chuyển đến đây.
- Ông ấy có hai cô con gái và mày có thể chọn một
Bạn anh cười nói như vậy. Nhưng mùa lại mùa trôi qua, Erơnênếch đợi chờ vô vọng. Còn Anarơvích chỉ nhún vai:
- Có thể cuối mùa đông này họ sẽ tới.
Đối với bạn anh, một mùa đông không dài lắm vì anh đã trải qua không ít mùa đông. Nhưng đối với Erơnênếch, người trải qua ít mùa đông hơn thì không như vậy. Có lẽ ông Ululích không đến. Có thể ông đã đổi ý định được đã chết, hoặc đã gả con gái cho kẻ khác rồi chăng?
Và Erơnênếch mòn mỏi chờ đợi.
Chiếc xe trượt của Anarơvích hiện ra như một chấm đen nhỏ xíu trên khoảng trắng mênh mông của biển băng. Erơnênếch thét lên và quất mạnh cho chó chạy nhanh hơn. Một giờ sau, chấm nhỏ đã trở thành một vạch thẳng. Sau đó chiếc xe trượt hiện ra, cuối cùng anh nhìn thấy đàn chó và Anarơvích. Bầy chó chạy rất hăng.
Erơnênếch quăng dây neo xe, buộc chó và tiến bước trên băng. Mặc dù rất sốt ruột, nhưng do thói quen anh bước chậm rãi để khỏi đánh động các con hải báo đang nấp dưới băng. Anarơvích quỳ trên băng, lưng xoay về phía anh. Erơnênếch đứng cạnh anh ta, anh nhìn thấy khuôn mặt sạm, mặc dù cố xoa dầu cá, các nếp nhăn nhiều năm đã hằn xung quanh thái dương, cặp mắt một mí trông ranh mãnh, tóc đen cắt ngang trán, còn phía sau bỏ rối trùm vai.
- Có người muốn hỏi anh - Erơnênếch nói to để lấy can đảm.
- Yên nào - Anarơvích không quay lại đề nghị - Một người đang làm không thể nghe. Mỗi lần chỉ làm một việc thôi.
Erơnênếch cụt hứng, lặng lẽ lại gần xem bạn đang làm gì. Anarơvích không phải đang rình cá, tay không cầm dáo có ngạnh, nằm bên miệng hố băng do hải cẩu đào để thở (1) mà lại cầm con dao quỳ trên miếng da tuần lộc để khỏi bị lạnh. Erơnênếch tò mò nhìn xung quanh và nhận ra mục tiêu đã làm Anarơvích chú ý và làm cho bầy chó bị kích động. Đó là một con gấu. Một con gấu đang đói.
Trong những tháng mùa đông khó kiếm thức ăn, họ nhà gấu tiêu thụ lớp mỡ tích được trong suốt mùa hè. Mùa đông chúng ngủ dài trong hang. Nhưng gấu bắc cực thì không trốn tránh mùa đông. Trong khi tất cả động vật di cư về phương nam hoặc nấp sâu dưới băng tìm nơi ấm và sự nghỉ ngơi thì gấu vẫn tiếp tục săn bắt cá dưới ánh sao, kiếm thức ăn cho mình và cho cô bạn đang đẻ trong một chiếc hang nào đó đào trong băng.
Trước đó ít lâu, chú gấu này đã đánh thắng một con chồn cái có mang và ăn thịt luôn cả chồn mẹ lẫn đứa con chưa sinh. Giờ đây nó vẫn còn thèm thuồng nhìn hai người đàn ông.
Ở vùng này tất cả những gì chuyển động đều là thú ăn thịt. Gấu là con mồi tuyệt diệu của người, ngược lại, người cũng là thức ăn được ưa chuộng của gấu. Giữa người và gấu, tạo hoá chưa quyết định phong ai là chúa tể.
- Có người định hạ con gấu này - Anarơvích nói, vẫn không thay đổi tư thế.
Máu săn bắn nổi lên, Erơnênếch xúi:
- Thả chó ra.
Anarơvích lắc đầu:
- Chó sẽ làm gấu chạy trốn, hoặc gấu sẽ làm chó thiệt mạng. Chúng ta không có nhiều chó. Không được, cứ để mặc kẻ ngu ngốc này đi theo con đường quen thuộc của hắn, chậm hơn nhưng chắc ăn hơn.
Anh lấy một chiếc xương cá, uống thử xem độ bật, rồi lấy con dao bằng đá gọt nhọn hai đầu. Sau đó anh rút trong áo ra một viên mỡ hải cẩu mềm do sức nóng của cơ thể và nhanh chóng vo lại với chiếc xương cá voi đã uốn cong. Anh để xuống băng cho viên mỡ cứng lại.
Anarơvích rón rén tiến lại gần con gấu. Thấy vậy con gấu gầm gừ, chân đập đập, rồi quay lại. Anarơvích đứng lại, huơ tay và kêu lớn. Con gấu thận trọng quay lại, vẽ một vòng bán nguyệt trên băng. Hai chòm râu Anarơvích rung lên khi anh ném quả cầu vàng về phía con gấu.
Miếng mồi dừng lại cách con gấu vài bước. Đánh hơi thấy mùi mỡ, nó gầm lên một cách thèm khát. Cái đói thúc giục con gấu vồ lấy miếng mồi, nhưng một bản năng khác, sâu xa và huyền bí hơn nhắc nhở nó nên cảnh giác với những thứ do con người đem cho, con người tuy nhỏ bé nhưng rất tự tin.
Anarơvích nằm im chờ đợi, chân tay duỗi thẳng trên băng. Sau anh, Erơnênếch quỳ một gối trên băng, nín thở. Anh thấy con gấu lè chiếc lưỡi to màu xanh ra liếm miếng mồi rồi lùi lại: cứ như thế một vài lần. Nhưng con gấu không phải là con người, nó không nhịn được lâu. Đột nhiên nó dướn mình lên ngoạm lấy miếng mồi, nuốt chửng.
Ngay lúc ấy, Anarơvích và Erơnênếch cùng bật dậy, reo hò sung sướng: giờ đây con gấu đã thuộc về họ, hay cũng gần như vậy.
Khi nghe tiếng reo hò bất ngờ đó, con gấu đứng sững lại quay xung quanh hai người như một bàn tay quay xung quanh cổ tay. Sau đó đứng lại quan sát hai người. Cuối cùng không thèm để ý tới các con chó miệng sùi bọt mép sủa liên hồi, nó quyết định lại gần.
Con gấu gầm lên xông tới làm rung động cả biển lớn, làm lũ chó câm miệng và hai người đi săn rùng mình khiến họ định bỏ chạy. Sau đó gấu nhảy bên này, bên kia, lưng cong miệng gầm man rợ. Bỗng nhiên nó đứng sững lại, gầm gừ rồi chuồn đi.
- Chắc trong bụng nó mỡ tan rồi - Anarơvích sung sướng nói.
- Và chiếc xương cũng đã bật rồi - Erơnênếch phụ hoạ.
Không nói gì thêm, họ chạy theo con mồi, nhìn nhau vui sướng. Họ cười và quên các chuyện khác.
Trời đã tối, vì thời gian này ngày rất ngắn. Đỉnh thế giới chỉ sáng rõ vài giờ trong mỗi vòng quay mặt trời. Con gấu khập khiễng, kêu rên, đi về phía bờ vì hai người đã chặn lối đi ra biển đóng băng - tổ quốc và nơi cung cấp thức ăn cho gấu. Thỉnh thoảng gấu dừng lại, quay về phía sau xem người có còn đuổi theo không, nước dãi chảy thành dòng trên ngực, hang gấu ở không xa đấy, nhưng gấu không muốn đưa người đi săn đến đó. Nó miễn cưỡng rời đại dương và bắt đầu leo lên dãy núi dựng đứng của đất liền.
Bàn chân có lông dày cho phép gấu đi an toàn trên băng, trái lại đế giày của người không bám chắc vào băng, hơn nữa họ còn phải gượng nhẹ để tránh ra mồ hôi, bởi vì ở đây ra mồ hôi có nghĩa là sẽ chết trong một chiếc áo băng. Nhưng con gấu tiến lên không chắc chắn, nó lắc lư và hay thay đổi hướng đi, điều may mắn đó làm con người đuổi nó dễ bám theo mà ít phải chạy gằn
Càng lên cao lại càng rét, nhiệt độ xuống tới 40 độ dưới không. Những cơn gió lạnh thổi vào người làm họ rất thích. Họ hạnh phúc vì săn bắn. Trong lúc này họ không lo lắng gì đến các thứ bỏ lại, cả chó lẫn vợ. Giờ đây họ không thấy đói. Lũ chó thì bao giờ cũng đói dù chúng có được ăn hay không, còn người vợ thì cô ta sẽ tìm mọi cách để ăn như tất cả đàn bà. Giờ đây họ đang săn, và săn bắn chính là công việc chủ yếu của đời họ.
Họ chăm chú theo dõi những bãi phân gấu hoà lẫn máu; và khi con gấu đã thải ra tất cả trừ cơn sợ hãi và nỗi đau đớn thì cơn đói mới cồn cào trong dạ dày họ. Erơnênếch nói:
- Có người đã đói.
Đó là những lời đầu tiên họ thốt ra từ khi bắt đầu cuộc săn đuổi.
Anarơvích đồng ý, nhưng không ai nghĩ đến việc quay trở lại.
Đột nhiên một cơn giông nổ ra trên đỉnh thế giới. Giữa đêm bụi tuyết cuốn tung, bầu trời tối sầm. Hai người lo sẽ không nhìn thấy gì, nhưng vẫn tiến bước. Nhờ tiếng kêu rên của gấu, họ tìm thấy lại được dấu vết của nó, có lúc người và gấu suýt chạm nhau, và Anarơvích cắm dáo vào bên sườn gấu. Một tiếng gầm dữ tợn vang lên từ chiếc bóng khổng lồ sừng sững giữa cơn gió tuyết, rồi con gấu lại theo gió bỏ đi. Từ lúc đó hai người bám sát con vật, gần đến nỗi có thể nhận ra mùi hôi dễ sợ toát ra từ miệng gấu.
Thỉnh thoảng con vật quay lại và gầm lên làm Erơnênếch và Anarơvích sợ hãi bỏ chạy. Họ bị vấp ngã và trượt dốc cho đến khi con gấu thôi không đuổi nữa mà ngồi yên trên mông, đầu lắc lư. Mặc dù cơn nguy hiểm hầu như chưa qua, nhưng hai người cùng bật cười.
Đêm thứ hai tồi tệ hơn. Bão tuyết mạnh dần lên làm họ khó khăn lắm mới nhận ra con mồi. Điều đó buộc những người đi săn phải theo thật sát con vật để khỏi mất dấu, trong khi cơn đói làm họ yếu đi và có nguy cơ ra mồ hôi. Còn con gấu như là có sức khoẻ vô tận, không ngừng tiến bước từ chỗ này đến chỗ nọ trên dốc băng lạnh giá.
Lúc đó hai người tới gần một nơi cất trữ thức ăn mà họ thường hay giấu phân tán trên băng hoặc trên đất liền.
- Nếu con gấu đi theo hướng này - Anarơvích nói - thì một người chúng ta có thể đi lấy đồ ăn.
Họ dồn đuổi con gấu theo hướng dự tính nhưng vô ích vì con vật bướng bỉnh cứ đi theo hướng khác.
Khi hy vọng đó tan vỡ, mặt trời đã quay được bốn vòng kể từ khi họ được ăn và ngủ lần cuối cùng. Có thể họ cần được bù đắp lại sức lực đã hao phí, nhưng đầu họ không bao giờ xuất hiện ý nghĩ bỏ con vật cả. Cuộc sống của họ gắn liền với việc săn gấu và niềm vui săn bắt đã khích lệ họ trước sự đe doạ của cái chết bất ngờ.
*
Cơn bão làm họ mất hết ý niệm về thời gian. Giờ đây họ nhận thấy trời đang hửng sáng, bắt đầu một ngày mới. Từ trên cao hai người đi săn nhìn thấy rõ Bắc Băng Dương đang bị gió tuyết trừng phạt, nhưng ở phía nam thì hửng sáng và đất liền yên tĩnh hình như đang đợi mặt trời lên.
Lúc này con gấu đã kiệt sức, nó khó nhọc lê bước, chiếc đầu ngật ngưỡng, nặng nề lướt sát mặt tuyết. Hai người vẫn tiếp tục đuổi, họ ngã, trượt nhưng vẫn cười vui, khuôn mặt bóng mỡ do gắng sức, mắt đỏ ngầu phủ đầy sương đêm. Cơn đói đã biến mất. Họ không thèm nghiêng mình vơ tuyết. Hai hàm răng mím chặt, họ đã quên cơn đói đến nỗi đầu họ không nghĩ, không nhớ nữa. Giữa da và thịt, mỡ bị tiêu hao kinh khủng. Vận động không sưởi ấm họ. Người run run và mỗi lần thở, họ thấy như bị dao băng đâm vào cổ họng. Tuy vậy không có gì đẹp hơn là đuổi theo gấu trắng trên đỉnh thế giới.
Sự việc kết thúc quá nhanh. Bỗng nhiên con gấu đứng lại. Hình như nó quyết định nếu cần phải chết thì tốt hơn hết là chết trong danh dự. Con gấu ngồi, chân co lại đợi. Một làn hơi thở đỏ lạnh bao quanh cổ nó, hai tai cụp, miệng mở rộng để lộ hàm răng như đang cười. Nó không rên rỉ nữa, nhưng làn khói hơi thở dồn dập và ngắn, mắt hằn tia máu đau khổ động đậy trên chiếc đầu hình tam giác.
Hai người đàn ông thận trọng lại gần con gấu, rồi đột nhiên tấn công con vật. Erơnênếch trước mặt và Anarơvích bên sườn. Con gấu quật móng bẻ gãy chiếc dáo của Anarơvích, trong khi Erơnênếch chọc thủng cuống họng phía dưới cằm nơi da mỏng nhất.
Dù đói, họ vẫn không ăn thịt gấu ngay vì dạ dày họ vẫn chưa hoạt động trở lại và chủ yếu vì khi về nhà họ muốn cho mọi người xem nguyên cả con, nhưng để lấy sức, Erơnênếch hút máu ở vết thương, mặc cho máu làm bỏng môi, còn Anarơvích hút óc qua một lỗ nhỏ chọc thủng ở đầu gấu. Sau đó, trước khi để thịt kịp đông lạnh, họ nhanh chóng tách các bộ phận, vứt bỏ lòng, rồi kéo con vật xuống dốc, đi về hướng biển. Họ chôn con gấu xuống tuyết rồi lại lên đường. Họ vui đùa, người này vỗ lưng người kia, nhằm thẳng hướng biển. Chưa đầy một vòng quay mặt trời họ đã đến nơi để xe trượt. Những con chó đói không ăn thịt lẫn nhau được vì răng chúng đã bị bẻ gãy. Nhưng bằng mọi cách chúng cũng tranh nhau dữ tợn xung quanh chiếc túi đựng cá để trên xe của Anarơvích và một số liếm vết thương đã đóng băng. Dùng một chiếc xe trượt, những người đi săn lấy lại con mồi. Mùi máu kích thích dạ dày họ. Trong suốt chuyến đi về, họ chỉ nhai miếng da hải cẩu để lừa cơn đói.
Trong khi họ đi vắng, một chiếc nhà nấm bằng băng đã được dựng bên cạnh nhà họ, và trước nhà những con chó lạ đang đùa nghịch.
Sicsic chui ra khỏi nhà, theo sau là ông Ululích cùng bà vợ Pauti và hai cô con gái Imina và Asiac đã đến tuổi lấy chồng.
Họ đến và làm ầm ĩ lên vì bảy người Eskimo đủ thành một cái chợ. Đầu tiên họ chào nhau rất lễ nghi sau đó họ vung cườm tay siết chặt ngang cổ. Rồi họ vuốt mũi nhau. Khi gia đình Ululích ngưỡng mộ chiến công, ngợi khen chiến lợi phẩm thu được "không nhỏ" thì hai người đi săn tỏ vẻ không quan tâm để người ta hiểu rằng họ còn có khả năng làm những công việc to tát hơn thế nữa kia. Họ nói: "Ô chuyện cỏn con mà, không ai hại nó, nhưng nó cứ xông tới định ăn thịt chúng tôi."
Cuối cùng tất cả nằm úp xuống nền đất rồi đi vào nhà nói chuyện và ăn uống.
Họ treo chiếc lá lách và bọng đái gấu cùng con dao và chiếc kim khâu, để linh hồn con vật đi kể với những con gấu khác rằng con người đã đối xử với nó tuyệt diệu như thế nào để các bạn chúng mong ước đến lượt được gặp người đi săn.
Sau đó họ bắt đầu cuộc vui.
Trong khi đợi cho thịt gấu mềm ra, họ lấy một số món ăn dự trữ và cẩn thận tránh động tới món cá trong khi ăn thịt để khỏi làm các thần bảo hộ nổi giận. Khi thịt gấu đã mềm, Anarơvích lột da, xẻ thịt. Bộ da thuộc phần người phát hiện ra con mồi, nhưng Erơnênếch rất thích tấm da đó nên Anarơvích làm nhục bạn bằng cách nhường cho anh ta tấm da. Ngược lại, chiếc gan thuộc Erơnênếch, người đã hạ con vật, nhưng anh lại đem tặng Anarơvích để trả thù món quà bộ da. Anarơvích không muốn chịu tình cảnh đó, anh trao ngay cho bà Pauti. Bà ta là người vợ tốt, liền đưa cho ông Ululích. Ông già hào hiệp giao cho chủ nhà Sicsic, cô tráo lại cho Erơnênếch, anh ta trao luôn cho hai cô gái quá trẻ để tiếp nhận vật phẩm đó.
Tuy nhiên, khi ông già Ululích thèm quá, bất chấp lịch thiệp, cắn một miếng thì mọi người liền nhanh chóng chia nhau ăn miếng gan. Erơnênếch làm mọi người bật cười khi anh do quá vui đã quơ quơ con dao trước mặt bà già Pauti đang nhai miếng gan với vài chiếc răng còn sót lại.
Trong tiếng cười vui sướng, họ ăn hết tất cả phần thịt đã mềm, chỗ thịt còn cứng họ để lại cho mềm ra. Chiếc lưỡi được nướng trên ngọn đèn dầu. Họ ăn thịt với mỡ và tuỷ mốc xanh đầy nấm, thỉnh thoảng hớp vài ngụm chè.
Càng ăn Anarơvích và Erơnênếch càng thấy đói. Gần như trần như nhộng, họ thở hồng hộc vì sung sướng và vì nóng. Họ cứ tiếp tục ăn cho đến khi bụng phình ra trông thấy. Khi không đứng được nữa, họ nằm trên sàn cho phép phụ nữ bỏ từng miếng thịt vào mồm.
Chà cuộc đời đẹp làm sao!
Mắt rơm rớm vì cười quá nhiều, Erơnênếch lúc thì nhìn cô này lúc thì nhìn cô kia. Hai con gái ông Ululích nghiêng mình bên anh mỉm cười, tay mềm dịu. Ở đây các cô gái biết cách đối xử với đàn ông. Rõ ràng họ cũng biết may vá quần áo, giày dép và làm những công việc gia đình. Nhưng có điều chắc là Erơnênếch không biết chọn ai trong hai người, Imina xinh đẹp hơn nhưng Asiac lại có nụ cười nóng bỏng hơn.
Erơnênếch thấy thoả mãn với thế giới, với bạn bè. Anh nhắm mắt tận hưởng những phút giây êm đềm không nghĩ gì đến tiếng động xung quanh. Anh muốn nghỉ để thức ăn tiêu bớt, rồi lại tiếp tục ăn nữa. Nhưng trước khi ngủ, anh quờ tay để xem Anarơvích có chắc chắn ở bên cạnh không.
Anarơvích nằm ngủ bên cạnh ngáy như sấm. Erơnênếch có cảm giác mơ hồ là mình cần hỏi anh ta điều gì đó nhưng anh không thể nhớ được.
Ý nghĩ của anh đã chết, đã bị chôn vùi vào sự quên lãng.
Chú thích:.
(1) Lỗ thở, hố thở là lỗ hải báo khoét trên mặt băng để lấy không khí vì biển ở các vùng cực bắc đóng băng vĩnh cửu. Đó cũng là chỗ người Eskimo săn hải báo (N.D)