Chương 4
Tác giả: Hồ Biểu Chánh
Thầy Ðàng dắt thằng Ðược lên chợ Mỹ Tho rồi tìm đến nhà quen mà tá túc. Thầy bị trong chốn lao tù trót một tháng trường ăn uống thất thường nên thầy thấy trong mình không được mạnh; mà vừa ra khỏi khám liền phải ngồi xe hơi lên Vĩnh Long rồi đi tàu mà xuống Mỹ Tho nữa, bởi vậy thầy mệt đuối.
Ðêm ấy thầy ngủ đậu tại nhà thầy Sung làm việc Trạng sư, thì thầy nóng lạnh nằm mê man không biết chi hết, còn thằng Ðược, một là nhớ con Liên, hai là tiếc không được theo bà Hội đồng, nên nằm trăn trở hoài không ngủ được.
Rạng ngày thầy Ðàng ráng đi ra chợ, kiếm tiệm thuốc của khách trú vô mà cầu thầy xem mạch, hốt thuốc đem về sắc uống. Lúc thầy ra đi thì thằng Ðược lén chạy xuống dưới đầu câu quây dòm coi ghe bà Hội đồng còn đậu đó hay không. Nó thấy không có ghe đậu đó nữa mới lần bước trở về, ngoài mặt buồn xo trong lòng như dao cắt.
Thầy Ðàng uống bốn năm thang thuốc thì hết nóng lạnh, nhưng mà trong mình còn mệt mỏi, tay chơn bải hoải, lại ăn cơm không biết ngon. Thầy muốn ở đậu ít ngày đặng dưỡng bịnh, song thấy vợ thầy Sung không được vui, chồng có ở nhà thì bình an, hễ chồng xách dù đi làm việc thì mắng chửi chó mèo, la rầy tôi tớ om sòm, thầy nằm nghỉ không được, nên thầy từ giã rồi dắt thằng Ðược ra đi, tính lên Sài Gòn kiếm thầy giáo Hai, là bạn thiết của mình ngày xưa, đặng gởi thằng Ðược cho nó đi học, còn mình thì dạy đờn kiếm tiền may áo quần mua sách vở cho nó.
Ra đến nhà giấy xe lửa thầy nhớ sực thầy có quen với một thầy Hội đồng ở Bến Lức, khi trước có hứa giúp vốn cho thầy làm ăn, mà từ ấy đến nay thầy không nghe tin tức, nên tính ghé lại đó trước viếng thăm sau ở đậu ít ngày mà dưỡng bịnh, chớ trong mình chưa thiệt mạnh, nếu lên Sài Gòn thì ở đậu nhà nào cũng chật hẹp, không thong thả được. Thầy tính như vậy nên mua giấy đi Bến Lức.
Xe lửa lên tới Bến Lức đã hơn ba giờ chiều. Thầy với thằng Ðược xách đồ vô nhà thầy hội đồng. Bước vô nhà thấy có bàn thờ tang, thì trong lòng thầy đã nghi rồi; chừng vợ thầy Hội đồng ra chào hỏi rồi nói chồng đã tỵ trần cách ba tháng trước thì thầy chưng hửng. Thầy hỏi thăm rồi nằm nghỉ; đến chiều vợ thầy Hội đồng dọn cơm cho thầy ăn, rồi thầy nghĩ nhà người ta góa chồng, mình quen là quen với chồng chớ không quen với vợ, nếu ở đây thì chẳng tiện, nên thầy tính đón chuyến xe lửa chót mà lên Sài Gòn. Thầy từ giã ra đi, đi gần tới nhà giấy, thì nghe xe lửa xúp-lê rồi chạy rầm rầm. Thầy với thằng Ðược lật đật chạy, mà chạy không kịp, ra tới nhà giấy thì xe đã chạy mất.
Thầy Ðàng để va-li xuống đất đứng mà suy nghĩ, nếu trở lại xin ở đậu một đêm thì chẳng tiện, mà nếu đi bộ thì đường thiệt xa. Thầy nhớ đêm ấy là đêm mười bốn có trăng, mà thầy xem trời thì trời trong mát mẻ lắm nên thầy mới nhứt định xách đồ đi bộ lên Chợ Lớn. Lên tới Gò Ðen thì trời đã tối, phía trời đông trăng mọc đỏ lòm, nơi xóm bắc đèn chong leo lét. Thằng Ðược đi trước thầy đi theo sau, hai bên đường nghe uệch oạc tiếng ếch kêu, thầy sợ thằng Ðược buồn, thầy mới kiếm những chuyện khôn dại ở đời mà dạy bảo.
Ði gần hết canh hai lên mới tới An Lạc. Trên trời mây đen vần vũ che án mặt trăng hết tỏ như hồi đầu hôm. Thầy Ðàng bèn nói rằng: “Ði riết đi con, trời chuyển mưa, đi riết lên Chợ Gạo như có mưa thì mình kiếm chỗ mà đụt”.
Thầy trò đi còn hơn ba ngàn thước nữa mới tới Chợ Gạo, thình lình trời giông mưa gấp tới, đi không kịp. Rủi khúc đường ấy lại không có nhà ai hết nên phải dầm mưa mà đi. Thầy Ðàng xăn áo quần rồi giương dù biểu thằng Ðược đi sát một bên thầy mà núp mưa. Trời đã mưa mà lại giông lớn nên tạt ướt hết, thằng Ðược nghĩ núp dù không ích gì, nên liều mình dầm mưa để cho thầy dùng trọn cây dù hoặc may thầy khỏi ướt.
Lên tới nhà giấy xe lửa Chợ Gạo, thầy trò lạnh quíu tay chân, nên dắt nhau vô nhà giấy vắt sơ áo quần rồi ngồi dựa vách tường mà nghỉ. Trời cũng còn mưa lớn ào ào như cầm tin mà đổ, đã vậy mà lại sấm chớp vang tai, gió giông lạnh muốn đứt ruột. Thằng Ðược ngồi run, tay chân lập cập, miệng đánh bò cạp, lặng thinh một hồi rồi tâm thần bất định, nằm ngoẻo đầu mà ngủ, không biết việc chi nữa hết. Nó không biết ngủ được bao lâu, song chừng tỉnh giấc mở mắt ra thì thấy mình nằm trên một cái giường nhỏ bằng sắt, chung quanh có hơn hai chục cái giường nữa, mỗi cái đều có một ngươi nằm và ngưòi nào cũng đều mặc quần áo trắng hết thảy. Nó chống tay ngóc đầu ngồi dậy ngó quanh quất thì ai nấy đều nằm ngủ hết, một lát nghe đầu nầy ho sò sò, rồi một lát nghe đầu nọ rên hì hì. Nó không biết vì cớ nào mà nó lại lọt vào một chỗ dị kỳ lắm vậy, ngó tứ hướng thì thấy bốn tấm vách tường trắng toát, hai đầu lại có treo hai ngọn đèn sáng trưng. Trong bụng nó hồi hộp, mình nó nóng hổi, mà đầu nó nặng trìu trĩu. Nó khát nước hết sức, song không biết nước đâu mà uống.
Thằng Ðược ngó dáo dác một hồi, rồi phát sợ nên lật đật nằm xuống. Nó nhớ lại thì là nó đi với thầy nó, giữa đường gặp mưa lạnh quíu, vào nhà giấy xe lửa mà đụt, mà sao thầy nó đâu mất đi, còn sao nó lại lọt vào chỗ nào như vầy. Nó nằm suy nghĩ hoài cho đến sáng; mấy người nằm gần nó thức dậy kẻ hút thuốc, người nói chuyện.
Nó muốn ngồi dậy đi kiếm nước mà uống, song tay chân rũ liệt chổi dậy không nổi. Người ngồi trên giường dựa bên giường nó đó thấy vậy bèn nói rằng:
- Hứ! Thằng nhỏ nầy bữa nay coi bộ khá rồi, nên muốn ngồi dậy đây. Sao em? Trong mình em khá hay không?
- Tôi khát nước quá. Chú làm ơn cho tôi xin một miếng nước uống.
- Ờ, thôi nằm đó, để qua trót nước dùm cho.
Người ấy nói rồi liền đi trót một chén nước đem cho nó uống. Thằng Ðược uống hết một chén nước mà chưa đã khát, còn muốn uống nữa, song sợ nhọc lòng người ta nên không dám mượn. Nó nằm nghỉ một hồi, rồi hỏi người ấy rằng:
- Chỗ nầy là chỗ gì vậy chú há?
- Ủa, thiệt em không biết hay sao?
- Thưa, không biết.
- Ờ phải, hôm qua họ bồng em đem vô đây em nóng mê man, quan thầy sợ cứu em không được, nên làm sao mà em biết cho đặng. Ðây là nhà thương Chợ Rẫy đó em.
- Chú có biết thầy tôi đi đâu hay không?
- Thầy em là ai?
- Thầy tôi là thầy Ðàng.
- Qua không blết. Qua thấy hôm qua lối mười giờ có hai người bồng em vô để nằm đó rồi quan thầy với mấy thầy phạm-nhê (14) cho em uống thuốc từ hôm qua cho đến bữa nay đó thôi, không thấy ai thăm viếng chi hết. Thầy Ðàng người bao lớn, già hay trẻ, mặc quần áo ra làm sao?
- Thầy tôi già trên năm mươi tuổi, râu bạc hoa râm, mặc áo dài, đi giầy hàm ếch.
- Không có. Từ hôm qua đến bữa nay qua không thấy người nào như vậy.
- Vậy chớ thầy tôi đi đâu kìa.
Thằng Ðược hỏi thăm rồi nằm suy nghĩ không biết thầy nó đi đâu.
Cách một hồi lâu có một quan thầy Việt Nam đi với hai ba thầy phạm-nhê vô, thấy nó thì cười, lấy tay rờ đầu nó rồi nói rằng: “Thằng nầy bữa nay tỉnh rồi. Em ráng uống thuốc vài tuần nữa em mạnh, không sao đâu mà sợ”. Thầy đó nói rồi bèn day lại nói với mấy thầy phạm-nhê rằng: “Một lát nữa cho nó uống sữa nghe hôn, cho nó uống sữa ít bữa, cho nó dứt nóng lạnh rồi sẽ cho ăn cơm ăn cháo”. Thằng Ðược vừa muốn hỏi thăm thầy nó, thì quan thầy bỏ đi qua khám bịnh cho người khác nên hỏi không được.
Buổi chiều thằng Ðược bớt nóng, nhưng mà nó cũng chưa ngồi dậy nổi. Có một thầy phạm-nhê cầm một cây viết chì vô hỏi tên họ quê quán nó đặng ghi vào sổ. Nó nói thiệt rằng nó tên Ðược, mà không biết họ gì, nó không có cha mẹ, đi theo thầy Ðàng, mà thầy đi xứ nầy qua xứ kia đặng dạy đờn nên không biết quê quán là đâu mà nói. Thầy phạm-nhê biên rồi cười gằn mà nói rằng: “Té ra mấy là con hoang mà? Ðã không có cha mẹ mà lại không biết xứ sở, như vầy ai biết đâu mà đòi tiền nhà thương. Tao chắc chừng mầy mạnh nhà nước sẽ gởi mấy lên Ông Yệm (15) ."
Thầy phạm- nhê xây lưng bước ra thì thằng Ðược nước mắt tuôn dầm dề vì mấy tiếng “con hoang” làm cho nó bầm gan nát ruột, Nó nằm mà tủi thầm thân phận, rồi nhớ mấy lời hăm sẽ gởi lên Ông Yệm, nó lại sợ không biết Ông Yệm là chỗ nào. Nó hỏi thăm người bịnh nằm một bên, họ nói Ông Yệm là chỗ đẩy mấy đứa ngỗ nghịch, hoang đàng, không bà không con, ăn cắp ăn trộm, thì nó càng sợ hơn nữa, nên nằm mà khóc tức tưởi.
Lối sáu giờ rưỡi tối đèn khí đốt sáng trưng, người bịnh lộn xộn, kẻ sửa soạn ngủ, người ngồi nói chuyện. Thình lình có một người thầy mặc đồ tây màu vàng, đầu đội nón nỉ xám ở ngoài xâm xâm vào phòng bịnh với một thầy phạm-nhê. Thằng Ðược tưởng là quan thầy nên lau nước mắt rồi nằm im lìm. Khi hai người đi lại gần chỗ nó nằm thầy phạm-nhê chỉ nó mà nói: “Nó đó”, rồi bỏ đi ra. Người mặc đồ tây vàng ấy giơ tay rờ đầu nó rồi nói rằng: “Bữa nay bớt nóng rồi. Hôm qua nóng quá tưởng đã không xong rồi chớ”.
Thằng Ðược nhướng mắt ngó thầy ấy trân trân không biết là ai. Thầy thấy vậy mới nói với nó rằng: “Em ráng uống thuốc cho mau mạnh nhé. Tía em thì làng họ đã chôn hồi chiều hôm qua rồi. Ðồ đạc qua lãnh mà giữ tại nhà qua, chừng em mạnh ra nhà thương rồi thì ghé đó mà lấy, không mất đâu mà sợ”.
Thằng Ðược nghe nói chưng hửng liền hỏi: “Thầy là ai? Tía tôi là ai đâu mà thầy nói làng đã chôn rồi? Thế khi thầy tôi đã chết rồi sao? Trời ôi!”. Thầy ấy thấy bộ nó rất bi thảm nên động lòng thương, bèn ngồi dựa mé giường rồi lấy lời nhỏ nhẹ mà nói rằng: “Chắc là đêm hôm qua em mắc nóng lạnh mê man nên em không hay, vậy để qua tỏ hết mọi việc cho em rõ… Em nín đừng khóc nữa. Qua đây là xếp ga Phú Lâm. Hồi sáng hôm qua lúc xe lửa ở Sài Gòn gần xuống qua mới thức dậy mở cửa mà bán giấy. Qua thấy ở ngoài có một ông già với một đứa nhỏ đương nằm khoanh dưới gạch mà ngủ, qua chạy ra kêu thức dậy, chẳng dè ông già chết đã bao giờ mà mình mẩy còn ướt mèm, còn đứa nhỏ là em đây, tuy còn thở thoi thóp mà qua rờ trán thì nóng vùi. Qua lật đật tri hô lên cho lính làng chạy đến khám nghiệm. Qua hối làng kêu xe rồi chở em đem vô nhà thương cho mau, còn ông già thì làng xét trong mình chẳng có vết tích chi, làng mới chạy tờ cho quan rồi mua hòm mà chôn hồi chiều hôm qua”.
Thằng Ðược nghe nói thì khóc than nghe rất thảm thiết. Thầy xếp ga an ủi nó một hồi, chừng nó nín rồi mới nói tiếp rằng: “Ông già chết có để lại một cây đờn cò, một cây đờn kìm với một cái va-li và một cây dù. Hồi làng họ liệm qua muốn bẻ khóa va-li coi ổng còn áo quần chi hay không đặng đem theo cho ổng, mà bị làng họ cản nên qua không dám. Bây giờ đồ đạc qua giữ tại nhà qua. À, qua thấy ổng có đeo một cái đồng hồ bạc, qua có lấy lại và lấy luôn cái bóp trong ấy có một đồng rưỡi với một cái bài thuế thân đề tên là Trần Cao Ðàng, qua còn giữ đủ hết, chừng em ra thì ghé lại qua sẽ giao hết cho em. Em còn bà con là ai ở đâu, em nói cho qua biết đặng qua gởi thơ dùm cho”.
Thằng Ðược nghe thầy chết một cách rất thảm thiết thì khóc muồi, chừng nghe hỏi đến bà con thì tủi phận nên lại khóc rống lên nữa. Thầy xếp ga theo an ủi hoài. Nó nín khóc nằm suy nghĩ, nhớ lời thầy dặn dầu thầy có chết cũng đừng cho vợ chồng Phan Hảo Tâm là em rể hay; nếu bây giờ nói thiệt ra thì phụ ý thầy mà nếu nói dấu thì sợ nhà nước nói nó là con hoang gởi nó lên Ông Yệm. Nó muốn cậy viết thơ cho Ba Thời, mà nó sợ nhà nước đòi tiền nhà thương Ba Thời không có mà đóng lại càng khổ nữa. Nó suy đi nghĩ lại một hồi rồi mới nói rằng: “Thầy có lòng thương thầy tôi và thương tôi nên thầy lo chôn cất thầy tôi rồi vô đây mà thăm tôi, thiệt tôi cảm đức của thầy vô cùng. Chẳng dấu chi thầy, tôi chẳng có cha mẹ bà con chi hết, tôi theo thầy tôi là ông Ðàng đó mà học đờn. Thầy tôi đã có bịnh sẵn mà rủi giữa đường lại mắc một đám mưa giông, không có chỗ đụt nên lạnh quíu mà chết; tôi cũng vì đám mưa đó mà nóng lạnh mê man khiến cho thầy tôi chết, tôi không thấy mặt, tôi nghĩ thiệt tôi tủi trong lòng không biết chừng nào. Hồi chiều nầy tôi lại nghe nói, nếu tôi không có cha mẹ bà con thì nhà nước sẽ gởi tôi lên Ông Yệm. Vậy tôi xin thầy làm ơn nhận dùm tôi đặng lãnh tôi ra, chớ nếu để gởi tôi đi Ông Yệm thì tội nghiệp tôi quá”.
Thầy xếp ga nghe nói tức cười mà đáp rằng: “Họ nói gạt em đa, không có đâu, đừng có lo. Nhà thương hễ người nghèo thì nằm thí chớ tiền gạo gì. Còn em có tội tình gì mà gởi lên Ông Yệm. Họ nói bậy đa, em đừng có tin. Mà thôi, để bữa em mạnh qua sẽ vô mà lãnh dùm em ra”. Thầy xếp ga nói rồi bèn từ giã ra về. Thằng Ðược ngó theo cảm tình thầy chẳng xiết.
Ðêm ấy nó nằm nhớ thầy Ðàng hoài ngủ không được, nhớ từ tướng đi bộ đứng, từ tiếng nói giọng cười, nhớ ngón đờn réo rắt tiu tao, nhớ lời dạy thâm trầm chánh trực. Nó nhớ rồi nó lại nghĩ không biết vì cớ nào người tài tình dường ấy, của phi nghĩa dầu mấy muôn cũng không ham, gặp ngang tàng dầu nát thân cũng gánh vác, mà sao trời chẳng cho giàu sang sung sướng, lại đày tấm thân đến chết bụi chết bờ. Hay là phải nhuốc nhơ mới đặng giàu, phải lòn cúi mới đặng sang?
Nếu sang giàu mà phải như vậy, thì thà chết phứt theo thầy, đặng xa lánh trước cho xong, chớ sống rồi ngày sau mà phải chìm nổi chốn dương trần, phải dày bừa thân nam tử thì lại càng khổ não hơn nữa. Thằng Ðược nhớ thầy rồi nghĩ đến cuộc đời thì khóc muồi. Những người bịnh nằm gần ai thấy cũng đều cảm động.
Thằng Ðược trong mình có bịnh mà trong trí lại còn buồn rầu nữa, nên sáng bữa sau bịnh nó trở nặng lại, làm cho nó nằm mê man hai ba ngày. Quan thầy hết sức điều trị mà gần hai mươi ngày nó mới thiệt mạnh.
Mỗi buổi tối chúa nhựt thầy xếp ga Phú Lâm đi Chợ Lớn chơi đều có ghé nhà thương mà thăm nó. Ðến ngày nó thiệt mạnh, quan thầy kêu nó rồi vỗ đầu biểu nó về, không đòi bạc tiền chi hết. Nó mừng quýnh nên xá quan thầy rồi lật đật đi ra; ra khỏi cửa nó hỏi thăm đường đi chợ gạo rồi lầm lũi đi riết. Nó thấy đã khỏi bị giải đi Ông Yệm, mà lại cũng khỏi đóng tiền nhà thương, thì trong bụng nó mừng nên quên phứt sự từ nay bơ vơ một mình, đã không còn thầy mà nương nhờ, mà cũng không còn em mà hủ hỉ.
Chừng nó xuống Chợ Gạo, bước vô nhà giấy xe lửa, thầy xếp ga chào mừng rồi lấy cái va-li, cây dù với hai cây đờn mà đưa cho nó, thì nó nhớ tới thầy nó, chừng đó nó mới khóc dầm dề. Thầy xếp ga dọn cơm cho nó ăn rồi mới mượn con thầy dắt, chỉ dùm mả của thầy Ðàng cho nó thăm.
Nó ra tới mã, lạy bốn lạy rồi ngồi ôm nấm mộ mà khóc nghe rất thảm thiết. Nó khóc một hồi rồi đứng dậy, lau nước mắt, chắp tay đứng trước đầu mả mà vái lớn lên rằng: “Thưa thầy, con nhờ ơn thầy dạy bảo mấy năm nay nên ngày nay con mới biết đường ngay nẻo dại, con mới hiểu thế thái nhơn tình. Nay trời khiến giữa đường thầy trò ta phải xa nhau, con chẳng biết lấy chi mà tỏ lòng kính mến thầy. Vậy con xin lạy thầy bốn lạy mà tạ ơn. Con đứng giữa chốn nầy, trên có trời, dưới có đất, con nguyện lập chí như thầy, gặp việc phải làm dầu nát thân con, con cũng làm, gặp chuyện chẳng nên làm dầu làm được bạc ức, bạc muôn, con cũng chẳng thèm”.
Thằng Ðược vái van xong rồi mới trở về nhà thầy xếp ga. Thầy hỏi nó vậy chớ bây giờ tính đi đâu. Nó suy nghĩ một hồi rồi thưa với thầy rằng: “Thưa thầy em chẳng có bà con chi hết, song em có một người mẹ nuôi ở dưới Xóm Tre. Lại thầy em hồi trước nuôi em với một đứa con gái tên là con Liên, khi tới Mỹ Tho, thầy em gửi con Liên cho bà Hội đồng Cần Thơ nuôi. Bà Hội đồng dắt nó đi Sài Gòn, vậy em tính lên Sài Gòn đặng kiếm coi gặp nó hay không”.
Thầy xếp ga cầm nó lại một đêm. Nó đờn ca cho vợ chồng thầy nghe chơi rồi sáng mai, thầy mới giao đồ đạc, rồi giao luôn cái đồng hồ bằng bạc, với cái bóp của ông Ðàng cho nó nữa. Nó bỏ cái đồng hồ vào túi rồi dỡ bóp ra coi thì còn một đồng rưỡi. Nó móc trong túi nó ra mà đếm thì tiền riêng của nó còn được tám cắc bạc. Nó bỏ chung vô bóp, rồi đứng ngẫm nghĩ rằng: “Mình lên Sài Gòn không quen với ai, không biết cơm đâu mà ăn, chỗ đâu mà ngủ”. Nghĩ như vậy nó mới móc bóp ra tám cắc bạc của nó mà lận lưng, rồi mở va-li bỏ cái bóp của thầy vô đặng gởi va-li với cây dù lại cho thầy xếp ga, tính xách hai cây đờn mà đi thôi. Thầy xếp ga cho nó một giấy xe lửa với một đồng bạc. Nó từ chối hoài không chịu lấy bạc. Vợ thầy theo ép quá túng thế nó phải lấy, song trong bụng tính thầm hễ chừng làm có tiền, trở lại lấy đồ rồi trả đồng bạc cho thầy. Xe lửa dưới Mỹ Tho lên gần tới thổi xúp-lê nghe vang rân.
Nó từ giã vợ chồng thầy xếp ga rồi vác hai cây đờn ra đứng chực mà lên xe.
Ai có đến kinh thành Sài Gòn cũng đều biết sở vườn Bồ Rô (16) . Mà có biết thì là biết sở vườn ấy rộng lớn, cây cao, cỏ tốt, ở phía sau dinh quan Toàn quyền đó mà thôi, chớ không rõ vườn ấy có phép mầu nhiệm là thế nào. Vườn Bồ Rô chẳng phải ban ngày mát mẻ, ban đêm thanh tịnh như mấy sở vườn khác mà thôi đâu, nó lại còn có một tánh chất riêng nữa, là cũng đường xá quanh co đó, cũng cỏ cây thạnh mậu đó, mà người bận việc đi ngang qua thì nó chẳng hề chịu tỏ dấu chi làm cho người phải trìu mến rồi dừng bước mà ngắm cảnh động tình, nó đợi cho có người thung dung nhàn lạc vô đó ngồi chơi, nó mới chịu làm cho cảm hứng say mê, rồi khiến cho phải nấn ná dần dà ngồi hoài không muốn đi, mà chừng đi ra cặp mắt vẫn còn ngó lộn lại. Mà nó làm cho người thung dung khoan khoái bao nhiêu thì nó lại cũng có thể làm cho người sầu não càng buồn bã bấy nhiêu; ai trong lòng có việc buồn, hễ vô tới đó thì cũng phải ngẩn ngơ, nên khó dỡ bước mà lui ra cho khỏi.
Thằng Ðược cách biệt Ba Thời đã bốn năm năm, trong lòng nó thương nhớ, nên khi nó nghe thầy Ðàng chết rồi thì trước hết nó tính trở về Mỹ Lợi đặng viếng thăm. Song nó tính như vậy rồi nó nhớ tới tên Hữu thì trong bụng nó lại buồn thầm, nghĩ vì về đó nó cực thân đã đành rồi, mà sợ má nó càng thêm nhớ tiếc thì càng tội nghiệp cho má nó nữa. Bới nghĩ như vậy nên nó mới quyết lên Sài Gòn mà tìm con Liên, bởi vì khi gặp bà Hội đồng thì bà có nói bà chở thằng con bà lên Sài Gòn đặng cầu danh y cho nó uống thuốc, vậy, nếu lên Sài Gòn mà tìm thì chắc là gặp được.
Chẳng dè thằng Ðược lên tới Sài Gòn, đi rảo khắp bờ sông, thì không thấy ghe của bà Hội đồng; nó hỏi thăm nhà mấy danh y, rồi đến chực trước cửa đón hoài mà cũng chẳng gặp. Nó kiếm ba bốn bữa, ăn xài đã gần hết tiền rồi, ban ngày thơ thẩn ngoài đường, ban đêm thì vô vườn thú hoặc vườn Bồ Rô mà ngủ. Bóng trăng chói mấy ngọn cây sáng rỡ, tiếng dế kêu trong đám cỏ rủ rỉ; gió lao rao mát mẻ vô cùng, vườn rậm rạp im lìm vắng vẻ. Nó nằm nhớ mẹ nuôi, thương thầy dạy, rồi lại nhớ tới con Liên, thì ứa nước mắt, lạnh trong lòng. Nó nhớ đủ hết rồi lại nghĩ tới thân phận của nó bây giờ trong lưng còn có vài cắc bạc mà lưu linh ở đất kinh thành Sài Gòn là chỗ không quen với ai, thoảng như hết tiền rồi mới liệu thế nào. Nó đương suy nghĩ bỗng nghe đồng hồ nhà thờ đổ mười giờ, nó lật đật móc túi lấy cái đồng hồ của thầy di tích mà xem có đúng hay không. Nó thấy đồng hồ của nó đã mười giờ năm phút. Nó vừa muốn vặn cây kim trở lại cho đúng mười giờ, rồi nó lại nghĩ rằng: “Ủa, mà không chừng hay đồng hồ ở nhà thờ đi trễ. Có cái chi làm chứng rằng cái đồng hỗ treo trên một tòa nhà lớn đó đi đúng còn cái đồng hồ nhỏ ở trong túi nhà nghèo nầy đi sai đâu”. Nghĩ như vậy rồi bỏ đồng hồ vào túi mà nằm, không muốn chịu sửa theo đồng hồ lớn.
Thằng Ðược vừa mới nằm một lát thì lại nghe có tiếng kèn thổi nho nhỏ phía trước đầu nó. Nó lồm cồm ngồi dậy ngó coi, thì thấy có một đứa con trai mặc quần đen đương ngồi trên một cái băng gần đó lấy tay bụm miệng mà sao lại nghe ra tiếng kèn thổi. Nó lấy làm kỳ bèn ngồi mà nghe một hồi thì tiếng kèn lảnh lót mà nhịp nhàng lại chắc lắm.
Nó bèn xách hai cây đờn đi lại cái băng đó đứng mà nghe cho tường tận. Nó thấy thằng con trai ấy vóc dạc to lớn, tay cầm một lá cây mà thổi chớ không phải là kèn. Nó để hai cây đờn dưới đất rồi ngồi mà nghe, tính làm quen đặng hỏi thử coi vì phép nào có một lá cây mà thổi ra hơi kèn được. Thằng con trai ấy cứ ngồi thổi hoài không thèm nói tới nó. Nó tức giận mà cũng muốn khoe nghề nên lấy cây kìm mà đờn theo, rồi hai đứa hòa với nhau luôn cho hết hai bản mới chịu nghỉ.
Có hai thầy thông ngồi hai cái xe kéo chạy ngang, thấy hai đứa hòa với nhau thì thích ý lắm nên ngừng lại mà nghe, chừng chúng nó dứt rồi hai thầy mới khen chúng nó và cho mỗi đứa một cắc bạc.
Thằng Ðược mới làm quen với thằng nọ, hỏi cách thế làm sao mà thổi lá cây ra tiếng kèn được, lần lần rồi mới hỏi tới tên họ nhà cửa. Thằng nọ thì nói ngọng nên nói khó nghe một chút, song nó cũng ráng cắt nghĩa cách thổi kèn cho thằng Ðược nghe. Nó lại nói nó tên Bĩ, mười sáu tuổi, gốc ở Bình Ðịnh. Khi nó vừa được mười tuổi thì cha mẹ chết hết, chú nó mới đem nó về nhà mà nuôi. Ở gần nhà chú nó có một người đờn hay, thấy nó nói ngọng thì thương nên ra công dạy nó học đờn. Chừng nó được mười hai tuổi nó biết cây đờn cò rồi chú nó mới chở hết vợ con đem vào Sài Gòn mà làm mướn. Mấy đứa con của chú đều khôn lớn hết mà không có chút lòng nào yêu thương nó nên cứ theo xéo xắc, giọt đầu bạt tai nó hoài. Nó tưởng vào Sài Gòn làm ăn nghề gì, chẳng dè chúng nó tới Sài Gòn mướn một căn phố lá ở phía trong cầu Rạch Bần mà ở, rồi dạy mấy đứa con và dạy nó cách móc túi thiên hạ mà lấy tiền. Mỗi ngày nó phải đi với mấy đứa con của chú nó ra chợ Bến Thành rồi xẩn bẩn trong chợ hoặc mấy nhà giấy xe lửa rình mà móc túi. Nó có tánh nhát, sợ móc túi họ bắt được họ đánh rồi họ đem đến bót phải ở tù, nên bữa nào nó về cũng tay không hoài. Chú nó đánh khảo và bỏ đói nó mà nó cũng không chịu làm cái nghề hiểm nghèo và nhơ nhuốc ấy. Nhưng, vậy mà nó cũng muốn làm cho vừa lòng chú nó nên bữa nọ nó ra nhà giấy xe lửa Mỹ Tho, nó thấy có một cái gói với một đờn cò để dựng vách tường mà không có ai coi chừng hết; nó cà rà một hồi rồi lén lấy cây đờn cò mà đi. Nó nhờ cây đờn ấy và nhờ biết thổi kèn lá, nên nó kéo đờn thổi kèn cho họ nghe mà xin tiền. Mỗi ngày nó kiếm được đôi ba cắc đem về cho chú nó thì khỏi bị đòn, còn bữa nào năm bảy xu thì phải bị ít cũng vài bạt tai.
Cách ba bữa trước, lúc tám giờ tối, nó mắc đi ra cầu Rạch Bần ngồi chơi, ở nhà lính kín đến vây nhà rồi bắt chú thím nó và mấy đứa con dắt hết đi xuống bót. Chừng nó trở về thấy đương lụi hụi trước nhà nó sợ bị bắt luôn nên ẩn mặt. Hồi chiều nó đi hỏi thăm thì họ nói tòa đã giam hết hai vợ chồng và mấy đứa con đợi tra xét xong xuôi rồi sẽ xử tội.
Hổm nay nó lưu linh chớ không dám léo về nhà, nó bỏ cây đờn cò trong nhà mà cũng không dám trở về mà lấy.
Thằng Ðược thân đã lao đao lận đận, mà gặp thằng Bĩ nầy cũng chẳng sung sướng gì hơn thân nó, bởi vậy nghe hết đầu đuôi rồi thì trong lòng cảm động vô cùng. Nó kể hết chuyện của nó cho thằng Bĩ nghe rồi hai đứa nằm chung trên cái băng nhà ngủ.
Trời hừng sáng thiên hạ kẻ lại người qua nói chuyện om sòm. Thằng Ðược giựt mình thức dậy thấy thằng Bĩ còn ngủ ngáy pho pho, bèn lấy tay lúc lắc đầu nó mà kêu nó dậy. Nó thấy thằng Bĩ ngồi sật sừ nó tức cười rồi hỏi rằng:
- Mầy ngủ tử hồi hôm qua đến bây giờ chưa đã thèm sao mậy?
- Tao ưa ngủ lắm. Mà mầy kêu tao thức dậy làm giống gì bây giờ?
- Mầy ngủ hoài cơm đâu nầy ăn?
- Vậy chớ thức lại có cơm mà ăn sao. Lo giống gì, vậy chớ thuở nay tao có lo hồi nào đâu, mà tao có đói bữa nào. Tao bứt một lá cây tao để vô miệng cũng đủ no bụng cần gì phải lo.
- Mấy ỷ tài quá! Ví như mầy lành mạnh không nói gì, thoảng mầy đau ốm bứt một lá cây cũng không nổi thì mầy lấy chi mà làm cho no bụng. Mà ở đời phải lo liệu thế nào, dầu không hơn được thì ít nữa cũng phải bằng người ta, chớ mầy tính ăn ngoài chợ ngủ trong vườn hoài như vầy hay sao?
- Tao không cần hơn ai, mà cũng không sợ thua ai. Tao muốn có một điều là được thong thả tấm thân thì thôi.
Thằng Ðược liếc ngó thằng Bĩ một hồi rồi nói tiếp ràng:
- Nãy giờ tao nói chuyện tao biết tánh mầy ưa tự do. Tánh ấy hiệp với tánh tao lắm, mà tao coi bộ tướng mầy cũng là một đứa trung hậu. Mầy không cha, không mẹ, không anh, không em, tao đây cũng trôi nổi một thân, không biết ai mà nhờ cậy. Tao muốn hai đứa mình kết làm anh em nâng đỡ dìu dắt nhau mà ở đời, không biết mầy có chịu hay không?
- Ðược lắm chớ.
- Mầy mắc có chú mầy đó thì làm sao mà đi với nhau cho được?
- Hại gì! Tao trốn luôn, tao không dám theo chú nữa đâu.
- Nếu vậy thì được. Thôi, để tao tính với mầy như vầy: Không biết mầy có tiền bạc chi hay không, chớ thiệt tao có một cắc bạc mà thôi, nhờ hai thầy hồi hôm cho một cắc nữa là hai cắc. Hai đứa mình ăn cơm một ngày nay nữa thì tiêu hết. Vậy tao muốn hai đứa mình đi dài theo mấy dãy phố có mấy thầy ở, mình đờn cho họ nghe đặng kiếm tiền mà nuôi nhau. Mầy thổi kèn lá hay, mà lại biết đờn cò. Tao biết đờn hai, ba thứ mà lại biết ca. Nếu hai đứa mình hiệp với nhau mà đờn ca hoặc thổi kèn kiếm tiền dễ lắm.
- Ừ được.
- Tao còn lo một điều...
- Lo giống gì?
- Ăn cơm thì mình vô quán ăn quấy quá cũng xong, còn chỗ ngủ không biết tính làm sao...
- Vậy chớ cái vườn nầy để làm chi đó. Nếu thiên hạ có áp vô dành giựt chỗ hết, thì còn sở vườn thú nữa chi. Nói cùng mà nghe như vườn thú có chật nữa thì mình lên trường đua, hoặc vô trong lăng ông Thượng cũng được cần gì mầy phải lo cho mệt.
Thằng Ðược nghe nói miệng chúm chím cười rồi hai đứa đứng dậy, mỗi đứa xách một cây đờn, nắm tay nhau mà dắt đi xuống chợ. Lại tới nhà giấy xe lửa nhỏ, thằng Bĩ lấy cây đờn cò lên dây rồi ngồi đờn vài bản. Thằng Ðược đứng nghe ngóng, thì tiếng đờn tươi, song nhịp không được chắc, tuy vậy mà nó cũng lấy làm vừa ý lắm, tính dạy dùm cho thằng Bĩ trúng nhịp thì ngón đờn của nó đó chắc cũng ít ai bằng.
Hai đứa nó dắt nhau đi rảo khắp Sài Gòn mà đờn ca. Mấy thầy mấy cô dành nhau mà rước, người cho ăn cơm, kẻ cho ngủ đậu, mà ai ai cũng cho tiền, không có đêm nào mà hai đứa nó không kiếm được một đồng bạc, mấy đêm thứ bảy lại kiếm tới hai ba đồng. Tiền kiếm được bao nhiêu thì thằng Bĩ biểu thằng Ðược cất lấy, chớ nó không thèm giữ. Thằng Ðược thấy tiền dư nhiều mới đặt may mỗi đứa một cái áo bành tô (17) vàng với một cái quần vải đen, và mua cho thằng Bĩ một cái nón trắng đặng nó đội cho giống cái nón của mình.
Bữa nọ có một thầy thông làm việc tại tòa án rước chúng nó đến nhà chơi. Thằng Bĩ thừa dịp hỏi thăm mới hay chú thím nó với mấy đứa con đã bị tòa kêu án sáu tháng tù và trong án có lịnh cấm không cho ở Nam nữa. Bước qua đầu tháng chạp, thằng Ðược đếm thử trong lưng nó đã có hơn bốn chục đồng bạc. Bữa nọ hai đứa nó ngủ đậu trước hàng tư nhà một thầy thông ở đường Bạc Hà, thằng Ðược mới nói với thằng Bĩ rằng ở Sài Gòn thiệt là vui mà lại dễ kiếm tiền, song nó nhớ má nuôi nó với con Liên lung quá, nên nó muốn về chợ Mỹ Lợi thăm má nuôi nó ít ngày rồi đi Cần Thơ kiếm con Liên. Thằng Bĩ nghe nói lấy làm mừng, vì nó muốn đi xuống dưới mấy tỉnh đặng biết ruộng vườn chơi, song nó khuyên thằng Ðược ở nán ít ngày, đợi lối rằm tháng chạp sẽ đi đặng về Mỹ Lợi ở ăn Tết luôn thể. Thằng Ðược bằng lòng ở Sài Gòn thêm vài tuần nữa. Ðúng ngày mười tháng chạp hai đứa nó mới dắt nhau mà đi, trong lưng thằng Ðược có bốn mươi ba đồng bạc. Chúng nó đi xe lửa xuống Phú Lâm cho thằng Ðược trả đồng bạc lại cho thầy xếp ga.
Vợ chồng thầy xếp ga thấy thằng Ðược thì mừng rỡ vô cùng; nó trả đồng bạc thầy không chịu lấy mà lại cầm nó ở lại chơi với thầy ít bữa. Ăn cơm rồi nó thì đờn còn thằng Bĩ thì thổi kèn cho thầy nghe chơi. Thằng Ðược nhơn lúc ấy mới dắt thằng Bĩ ra thăm mộ thầy Ðàng. Nó ngồi khóc kể nghe rất thảm thiết, làm cho thằng Bĩ là một đứa khờ khạo ngọng líu, mà nó cũng phải động lòng rưng rưng nước mắt.
Qua ngày mười tám hai đứa nó muốn từ giã mà đi, vợ thầy xếp ga không cho, nói ngày mươi tám là ngày xấu, nên hai đứa ở nán lại một bữa nữa. Khuya mười chín vợ thầy xếp ga nấu cho hai đứa nó một nồi cơm, ăn rồi trời hừng sáng chúng nó mới lấy hai cây đờn, cái va-li và cây dù mà đi trở lên Chợ Lớn đặng đi ngã Cần Giuộc mà xuống Cầu Nổi.
Mặt trời mọc lên cao vừa được vài sào thì hai đứa nhỏ đã qua khỏi xóm Củi, rồi hỏi thăm đường Cần Giuộc mà đi. Thằng Bĩ mạnh mẽ nên lãnh xách cái va-li với cây đờn cò, còn thằng Ðược ốm yếu nên xách cây đờn kìm với cây dù. Mặt trời càng lên cao nắng càng thêm gắt. Thằng Ðược giương cây dù rồi biểu thằng Bĩ đi khít một bên nó đặng núp bóng dù.
Thằng Bĩ lắc đầu mà nói rằng: “Tao không sợ nắng đâu. Mầy che dù một mình mầy cho dễ, để tao đi ngoài nắng cho thong thả”. Nói như vậy rồi thấy thằng Ðược ôm cây đờn kìm kình càng nên che dù bất tiện, nó lại đổi cho thằng Ðược xách cây đờn cò cho nhẹ. Thằng Ðược sợ bắt nó xách hết đồ nặng thì tội nghiệp cho nên dục dặc không muốn đổi, mà nó không chịu, cứ dành ôm cây đờn kìm cho thằng Ðược hoài. Vả thằng Bĩ tuy mạnh mẽ và lớn hơn thằng Ðược hai tuổi, song trí nó tối tăm, mà tánh nó cũng thiệt thà hơn, bởi vậy cho nên mấy tháng nay hai đứa nó kết làm anh em với nhau thì thằng Bĩ thường kính nhường thằng Ðược luôn luôn, thằng Ðược muốn việc nào thì nó làm theo việc nấy, chẳng hề khi nào nó cãi lẫy bao giờ. Ðã vậy mà nó thấy thằng Ðược nhỏ nhít nó lại thương, nên mọi việc cực nhọc như giặt quần áo, mua cơm, xách đờn nó dành làm hết thảy, thậm chí ban đêm ngủ đậu nơi nhà người ta, nếu có một bộ ván thì nó để cho thằng Ðược nằm phía trong; nếu có một ghế bố thì nó cũng để cho thằng Ðược nằm, còn nó nằm dưới đất. Thằng Ðược biết tánh nó trung hậu, mà lại thấy bụng nó như vậy nữa thì thương nó vô cùng; bởi vậy, cho nên tuy trong hai đứa thằng Ðược làm đầu, nhưng mà nó chẳng hề ỷ thế mà húng hiếp.
Hai đứa hễ đi được một khúc xa xa, gặp bóng cây mát thì ngồi mà nghỉ chân. Ngó chung quanh đồng thì lúa chín đỏ lòm, có chỗ gặt rồi, bụi ngã ngửa, bụi ngã nghiêng, có chỗ chưa gặt, bông lúa cong vòng gió thổi lung lay dường như đợi trông chủ ruộng. Có chỗ lại lao nhao lố nhố kẻ gặt, người mót, dựa bờ có người che dù ngồi xem chừng, tuồng như sợ người ta ăn tươi nuốt sống hết đám lúa của mình. Một lát nghe tiếng kèn le te, rồi thấy có một chiếc xe hơi đầy ắp người ta đàng xa chạy tới. Thằng Ðược lật đật sập dù đứng dậy nói rằng:
- Úy! May dữ? Ðể kêu xe hơi dừng lại mình đi cho mau.
Thằng Bĩ nắm áo kéo ngồi xuống mà nói rằng:
- Ði xe hơi làm gì tốn tiền vô ích.
- Mình thiếu gì tiền mà sợ mậy?
- Dẫu có tiền nhiều lại xài tiền vô ích như vậy sao?
- Ði xe hơi khỏe chơn, chớ sao mà vô ích.
- Phải, ngồi trên đó thì khỏe chơn, mà tao sợ bể đầu.
- Mấy nhát quá!
- Không phải nhát.
Hai đứa đương cãi với nhau thì xe hơi đã chạy tới rồi chạy tuốt. Thằng Ðược mắt ngó theo còn bụng thì tiếc, nên lầm bầm nói rằng:
- Mầy dại quá! Xe chạy tuốt rồi còn gì.
- Nó chạy đi đâu thì chạy chớ. Mầy biết tại sao mà tao không chịu đi xe hơi hay không?
- Không!
- Tại xe hơi là đồ của nhà giàu dùng.
- Sao mà mấy ghét nhà giàu dữ vậy?
- Tại tao nghèo.
Thằng Ðược lặng thinh không hỏi nữa mà bộ suy nghĩ lung lắm, rồi hai đứa mới xách đồ mà đi.
Ði dọc đường thằng Ðược nhắc tới chuyện má nuôi nó với con Liên thì nó nói nhiều tiếng yêu thương trìu mến lắm. Thằng Bĩ mới nói rằng: “Mầy tuy không có cha mẹ mà mầy còn có người thương mầy, thảm cho thân tao cha mẹ chết hết rồi, bây giờ trên thế gian này chẳng có ai thương tao nữa hết”. Thằng Ðược nghe lời than như vậy thì động lòng nên ứa nước mắt, đi khít lại che dù cho thằng Bĩ rồi đáp rằng: “Còn tao đây chi”. Thằng Bĩ day lại ngó thấy cặp mắt ướt rượt thì cũng động lòng nên để đồ dựa lộ, rồi hai đưa núp bóng cây dù, lặng thinh không nói một tiếng mà trong lòng dan díu với nhau không kể xiết.
Ngồi một hồi rồi thằng Bĩ mới hỏi rằng:
- Mầy nói mầy thương má nuôi mầy với con Liên mà sao về thăm mầy không tính mua vật gì đem về mà cho?
Thằng được nghe hỏi như vậy liền ngước mặt lên mà đáp rằng:
- Mầy nói phải lắm. Tao về thăm, tao phải mua đồ đem về má cho mới phải. Tiền mình thiếu gì, như hết mình kiếm cái khác, sợ gì, mà mua vật gì?
- Mua bánh trái hay là áo quần, mua vật gì thì mầy liệu lấy chớ tao có biết đâu.
- Má tao ít ưa ăn bánh lắm. Thôi để tao mua một cái quần lãnh với một cái áo xuyến bông đặng má tao mặc đi xóm, chắc là má tao mừng lắm. Ý? Mà không được. Má tao có đời nào đi chơi mà mặc quần áo tốt. Nếu tao mua thì để mục chớ không có ích mà lại sợ ăn trộm lấy nữa, không thì ông già nuôi tao ổng cũng bán đặng ổng nhậu rượu. Ðể tao nhớ coi hồi trước má tao ưa những vật gì. Ừ phải! Má tao ưa nuôi heo lắm. Tao nhớ hồi trước má tao có nuôi một con heo quắn, tía tao bắt bán cho họ làm thịt má tao tiếc nên khóc hoài. Thôi, để tao mua cho má tao một con heo khác cũng giống như con heo quắn đó cho má tao nuôi, chắc là má tao chịu lắm. Cha chả! Mà không xong đâu mầy.
- Sao mà không xong?
- Con heo quắn hồi trước tía tao bán tới hai mươi tám đồng bạc. Nếu mình mua con khác giống như vậy mà cho thì hết tiền còn gì.
- Hết thì mình kiếm cái khác.
- Có kiếm thì mình trở lên Sài Gòn, chớ ở dưới ruộng mà kiếm giống gì được.
- Bây giờ mình có tới bốn mươi ba đồng bạc nếu mình mua con heo hết hai mươi tám đồng thì mình còn mười lăm đồng chớ sao mà hết đi.
- Phải để đành tiền đặng đi Cần Thơ thăm con Liên nữa chớ.
- Ví như có hết thì mình đi dọc đường đờn ca kiếm tiền mà đi. Mấy sợ kỳ quá!
Thằng Ðược không nói nữa, rồi hai đứa xách đồ đi lần lần tới chợ Cần Giuộc thì mặt trời dã đứng bóng. Thằng Ðược móc túi lấy đồng hồ ra coi thì đã mười hai giờ tám phút. Hai đứa đói bụng nên dắt nhau vào quán ăn cơm, thấy cái đồng hồ lớn treo giữa quán, kim chỉ mười hai giờ rưỡi thì thằng Ðược trề môi mà nói rằng: “Lớn đó vậy mà đi bậy, có bằng nhỏ của tao đây đâu”.
Hai đứa ăn cơm rồi mới dắt nhau đi vòng theo mấy nẻo đường xem chơi cho bỉết Cần Giuộc. Gần tết mấy tiệm buôn bán chưng hàng hóa hực hỡ, nào tượng liễu nào bông giấy nào chơn đèn, quả tử, nào bình phong lục bình, nào quần đỏ áo xanh, nào pháo, nào nhang, nào cam hồng dưa chuối, chẳng thiếu vật chi hết. Thằng Ðược thấy một tiệm có treo khăn trắng, khăn đen, khăn bông hường để cho đàn bà con gái đội, thứ nào cũng đẹp. Nó đứng trầm trồ chỉ cho thằng Bĩ coi rồi vô lựa mua một cái khăn màu bông hường với một cái khăn trắng, tính để cái khăn trắng cho má nó, còn cái khăn bông hường thì cho con Liên. Chị chủ tiệm thách giá mỗi cái hai đồng bạc. Hai đứa ke re trả tới trả lui đến một đồng bảy một cái họ mới chịu bán. Thằng Ðược mở va-li bỏ hai cái khăn vô rồi dắt nhau mà đi.
Chẳng biết đường bao xa, hai đứa thẩn thơ, khỏe thì đi, mệt ngồi nghỉ, đi đến năm giờ chiều mới xuống tới chợ Trạm. Thằng Ðược hỏi thăm thì họ nói từ đó xuống Cần Ðước còn xa, đi tới tối sợ cũng chưa tới. Hai đứa nó tính với nhau rồi mới đem đồ vô nhà việc (18) của làng mà gởi, và xin với người coi nhà việc cho ngủ đậu một đêm chờ sáng ngày mai sẽ đi. Gởi đồ rồi dắt nhau đi chơi. Ðến tối hai đứa nó chưa đói bụng nên không ăn cơm, mỗi đứa ăn một tô mì rồi trở về nhà việc tính ngủ cho sớm đặng khuya thức dậy sớm mà đi cho mát.
Người coi nhà việc thấy có hai cây đờn bèn hỏi coi hai đứa có biết đờn hay không mà xách đi đâu vậy. Hai đứa nó nói biết, người ấy biểu đờn ít chập nghe chơi. Hai đứa nó thấy người ta cho mình ngủ đậu, không lẽ mình không tỏ lòng cám ơn ngươi ta, nên ngồi lại lên dây rồi Bĩ cầm đờn cò, Ðược ôm đờn kìm, hòa với nhau nghe thâm trầm lắm. Cả chợ người lớn trẻ nhỏ đều tựu lại trước nhà việc mà nghe chật nứt. Thầy giáo dạy tại đó, ham đờn kìm mà mới học quọt quẹt, nghe tiếng đờn vợ chồng cũng dắt nhau lại đó đứng mà nghe.
Hai vợ chồng thầy giáo thấy hai đứa nhỏ mà đờn tươi thì trầm trồ khen hoài: chừng chúng nó nghỉ thầy bèn bước lại hỏi thăm rồi bèn rước chúng nó về nhà đờn chơi, lại biểu đem hết đồ đạc lại nhà thầy mà ngủ luôn thể. Lại nhà thầy giáo thằng Ðược còn trổ tài ca và thằng Bĩ trổ tài thổi kèn, ai nấy đi theo mà nghe thảy đều đẹp dạ. Thím giáo hối trẻ bắt gà làm thịt nấu cháo đặng khuya cho hai đứa nó giải lao. Hai đứa nó đờn đến mười hai giờ khuya, ăn cháo rồi mới ngủ.
Thằng Ðược đã tính khuya thức dậy đi cho sớm đặng khỏi nắng, mà bị ngày trước đi xa mệt mỏi, rồi lại bị thức đờn chơi nữa, bởi vậy cho nên hai đứa ngủ quên, sáng ngày sau đến bảy giờ mới thức dậy.
Thằng Ðược đương ngồi trước cửa bưng tô nước súc miệng rửa mặt, bỗng thấy trước căn phố ngang nhà thầy giáo có con heo đen ột ệt đi lại qua, cũng lang mỏ, đuôi cũng bỏ qua phía tay mặt, giống hịt con heo quắn của Ba Thời nuôi hồi trước vậy. Nó kêu thằng Bĩ lại mà chỉ con heo cho thằng Bĩ coi, rồi đứng trầm trồ hoài, bụng muốn mua dắt về Mỹ Lợi mà cho má nó lắm. Hai đứa nó đương bàn tính với nhau, thím giáo bước ra không rõ việc gì mới hỏi:
- Hai em nói giống gì đó? Khoan đi đã, để qua mua đồ dọn ăn rồi sẽ đi.
Thằng Ðược chỉ con heo mà hỏi thím giáo rằng:
- Thưa thím không biết con heo đó của ai vậy thím há?
- Heo của thím Chảnh đa.
- Không biết mình mua họ bán hay không thím?
- Thím Chảnh, thím tính Tết nầy thím làm hàng đa. Nếu mình mua đúng giá thì thím bán, chớ để làm chi. Thím nuôi con heo thím tập nó dạn quá. Sắp con thím nó cột dây rồi dắt đi chơi tối ngày, dắt đi đâu cũng được, con heo khôn dữ lắm. Mà hai em muốn mua hay sao mà hỏi?
- Dạ, em muốn mua.
- Hai em mua làm gì?
- Dạ, mua đặng dắt về chợ Cầu Nổi mà cho má em nuôi.
- Hai em có tiền nhiều lắm hay sao mà tính mua con heo lớn như vậy.
- Không biết giá con heo đó chừng bao nhiêu thím há?
- Hôm trước các chú (19) cạo heo trên Cần Giuộc họ trả hai mươi chín đồng bạc mà thím Chảnh dục dặc không chịu bán đó đa.
- Nếu mình trả ba chục đồng bạc thì họ chịu bán thím há?
- Ờ nếu ba chục đồng bạc chắc họ bán.
- Vậy xin thím làm ơn trả mua dùm cho em. Cha chả! Mà không biết mua rồi dắt nó đi được không. Chớ nếu phải khiêng, thì hai đứa tôi khiêng sao cho nổi?
- Ðược, con heo nầy dạn lắm, dắt đi thủng thẳng thì được, không cần phải khiêng.
- Vậy xin thím trả rồi mua dùm cho em.
Thím giáo qua hỏi thì thím Chảnh đòi ba mươi hai đồng bạc, phải trả dục dặc một giây lâu mới chịu dứt giá ba chục đồng bạc. Thím về nói lại cho hai đứa nó hay. Thằng Ðược lật đật đếm ba chục đồng bạc đưa cho thím giáo rồi dắt nhau qua bắt con heo. Thằng Ðược mua được con heo thì trong lòng mừng rỡ vô cùng.
Nó mua một sợi dây dừa mà cột ngang nách con heo đặng có dắt đi cho dễ. Ðem về cột trước nhà thầy giáo thì nó rờ rẫm hoài. Con heo thiệt dạn, hễ gãi thì nó nằm ngay không cục cựa chi hết. Vợ chồng thầy giáo dọn cơm cho hai đứa nó ăn xong rồi, hai đứa nó mới từ giã mà dắt con heo đi.
Thằng Ðược nắm dây đằng trước, còn thằng Bĩ thì đi theo sau coi chừng, hễ con heo dục dặc thì nó la chừng đặng đi cho mau. Thằng Ðược lấy làm đắc ý vô cùng, bởi vậy hễ đi trước thì ngoái lại ngó con heo mà nói rằng: “Ði, ráng đi nghe hôn em quắn. Ði về chợ Mỹ Lợi với qua. Bĩ ơi, hồi tao ở nhà má tao, tao ra đi với thầy tao thì tao có nói rằng chừng nào tao lớn khôn tao sẽ làm mà nuôi má tao. Nay tuy tao chưa lớn mà đã có thể cho má tao được một con heo như vầy thì tao đã khoái trong lòng rồi. Ðể rồi sau mầy coi, chừng tao làm giàu lớn thì tao sẽ làm cho má tao sung sướng lắm... Chắc tao về đây má tao vui lắm”.
Thằng Ðược nói dứt lời rồi lại cất giọng lên mà ca hát om sòm. Thằng Bĩ thấy vậy cũng vui nên tiếp mà ca, nhưng vì nó nói ngọng nên nó ca thì thằng Ðược cười ngã nghiêng ngã ngửa. Hai đứa vừa đi vừa giỡn, mà lại bị con heo dục dặc nên đi không mau. Giỡn đã thèm rồi thằng Ðược lại nói rằng: “Tao về thăm má tao thì tao vui thiệt, mà tao nhớ tới tía tao thì tao buồn quá. Tao vái ông địa về đừng có tía tao ở nhà thì tao sẽ cúng một nải chuối”.
Năm giờ chiều hai đứa mới xuống tới chợ Cần Ðước. Thằng Ðược tính ghé lại đó trước là kiếm cơm ăn và kiếm cám cho con heo ăn, sau nữa thăm vợ chồng cô Ba Sự và cho cô hay việc thầy Ðàng chẳng may bỏ mình nơi đất khách. Nó lại nghĩ thầm rằng vì bị mua khăn, mua heo nên trong lưng bây giờ còn có chín đồng bạc, vậy đêm nay ở tại Cần Ðước cũng nên đờn ca kiếm tiền thêm chút đỉnh nữa chơi.
Tính như vậy nên vừa vô tới chợ nó mới biểu thằng Bĩ đưa cây đờn kìm cho nó ôm, rồi bứt lá cây mà thổi kèn đặng cho người ta hay hoặc mai tối người ta có rước đến đờn cho họ nghe. Thằng Bĩ nghe lời thổi kèn om sòm. Sắp nhỏ đứa chơi ngoài đường, đứa đứng trong cửa, nghe tiếng kèn thì dòm ngó, chừng thấy hai đứa xách đồ kình càng thì lấy làm kỳ nên áp chạy theo la om sòm rằng: “Á, họ hát heo bây à! Ngộ quá, ngộ quá?“. Con heo thấy sắp nhỏ chạy rần rần mà lại la vang rân thì kinh hãi nên vụt chạy. Thằng Ðược tình cờ nắm mối dây không chắc nên con heo sút chạy tuốt, Thằng Ðược với thằng Bĩ chạy theo, sắp nhỏ thấy vậy càng vỗ tay la lớn hơn nữa. Con heo chun tuốt vô tiệm bán hàng xén đụng mấy chồng tộ chén dưới đất bể hết bộn. Hai đứa nó chạy tới áp vô tiệm nắm dây dắt con heo ra. Chủ tiệm cản lại, biểu phải thường tộ chén bể rồi mới được dắt con heo đi.
Lúc hai đàng dan ca với nhau sắp nhỏ ở chợ càng tựu đông hơn nữa. Lính gác chợ thấy vậy không biết chuyện gì, lật đật chạy lại vẹt sắp nhỏ bước vô tiệm mà hỏi. Chủ tiệm chỉ đồ bể cho chú lính xem rồi xin chú dạy hai đứa nó phải bồi thường hư hại. Chú lính thấy hai đứa nhỏ lạ mà lại có dắt con heo thì lấy làm kỳ nên bắt đem về quận cho quan Chủ quận tra vấn. Quan Chủ quận hỏi thì thằng Ðược thưa hết sự tình, nói rằng nó mua con heo của thím Chảnh ở chợ Trạm có hai vợ chồng thầy giáo ngó thấy và nó tình dắt về Mỹ Lợi mà cho má nó nuôi; nó ghé cần Ðước là vì muốn thăm cô Ba Sự, rủi con heo làm bể đồ của người ta thì nó cũng chịu thường, chớ không dám cãi.
Quan Chủ quận cho đòi Ba Sự đến nhìn coi có quen với hai đứa hay không và sai lính cỡi ngựa lên chợ Trạm mà hỏi thím Chảnh với vợ chồng thầy giáo xem thiệt hai đứa nó mua con heo ấy hay là bắt trộm của người ta. Ba Sự đến nhận thấy thằng Ðược liền hỏi: “Ủa! Mấy năm nay anh Hai tao ở đâu? Sao mầy lại về đây? Còn anh Hai tao bây giờ ở đâu ?” Thằng Ðược nghe hỏi thì buồn nghiến nên đáp nhỏ nhỏ rằng:
- Thầy chết rồi.
- Húy! Chết hồi nào?
- Chết đã ba tháng nay.
Ba Sự nghe nói tới đó liền la khóc om sòm làm cho thằng Ðược động lòng cũng khóc theo, còn ông Quận thì ngồi ngó trân trân không hiểu chi hết. Ba Sự hỏi thằng Ðược vì làm sao mà bị bắt. Thằng Ðược thuật sơ chuyện heo làm bể tô chén, Ba Sự mới xin ông Quận cho phép chị ta lãnh hai đứa nó về mà hỏi thăm chuyện riêng của anh. Thằng Ðược lấy ra một đồng bạc mà xin thường đồ bể cho chủ tiệm. Ông Quận đòi chủ tiệm vô thì chủ tiệm nói đồ bể đáng giá một đồng hai, mà vì sự rủi ro nên bằng lòng lấy một đồng bạc không đòi thêm làm chi nữa.
Hai đứa mới xách đồ và dắt con heo đi theo Ba Sự mà về nhà, thằng Ðược thuật hết đầu đuôi mọi việc, từ ngày thầy nó ở Cần Ðước ra đi, cho đến ngày chết cho Phan Hảo Tâm với Ba Sự nghe. Vợ chồng Hảo Tâm nghe anh gặp hoạn nạn cho đến ngày chết mà cũng không ấm thân, thì tức tưởi trong lòng nên khóc kể thảm thiết: “Trời ôi ! Người có văn học, biết xa lánh đường cong nẻo vạy, đặng giữ lấy chút thanh liêm, quyết chừa cãi những bại tục đồi phong, đặng ắp tánh nam nhi khẳng khái, người vậy mà trời chẳng thương, bắt thân phải lặn bụi vùi tro, xô thân cho mưa sa gió táp, khiến cho đến giờ nhắm mắt cũng không được thấy quê quán, gặp anh em, trời ôi, trời làm như thế còn ai dám giữ bụng thanh liêm, còn ai dám gìn lòng chánh trực. Ví dầu trong mười năm anh tôi có quyền có thế mà có bức thiếp hiếp đáp người ta đi nữa, thì mười mấy năm sau chịu nghèo, chịu cực đó há chuộc tội chẳng rồi sao?”.
Ba Sự muốn sai đứa lên nhà báo tin cho vợ thầy Ðàng hay; mà chồng không cho lại nói rằng: “Chị đó mà kể gì ai! Chớ chi mà chỉ biết tam tùng tứ đức thì anh Hai đâu có ra thân thể như vậy. Nay có cho chỉ hay thì bất quá chỉ làm bộ khóc nhíu nháo đặng che miệng thế gian, chớ chỉ có tình có nghĩa gì đó mà cho hay”.
Tên lính ông Quan sai đi chợ Trạm về nói rằng thiệt thím giao có mua con heo của thím Chảnh dùm cho thằng Ðược, nên sáng ngày ông Quận cho đòi hai đứa ra rồi nói rằng: “Tao đã có cho lính đi dò thì thiệt là heo của bây mua, vậy thì bây thong thả muốn đi đâu tự ý. Mà bây giờ bây tính đi đâu?”.
Thằng Ðược thưa rằng: “Bẩm ông, hai đứa tôi đi về chợ Mỹ Lơi”. Ông Quận nói: “Bộ tướng bây đã dị kỳ mà lại còn dắt một con heo đi, ai thấy cũng phải nghi. Nay bây tính đi qua tỉnh khác vậy để tao cho một cái giấy đặng bây cầm mà đi khỏi ai nghi ngờ nữa”.
Ông Quận viết một cái giấy chứng nhận rằng con heo đó là heo của hai đứa nhỏ mua trên chợ Trạm, ký tên đóng dấu rồi mới trao cho thằng Ðược cầm. Hai đứa nó thấy ông Quận này tử tế như vậy thì có ý mến thầm, nên vòng tay cúi đầu xá hai ba xá rồi lui ra.
Ra đường thằng Bĩ cười mà nói với thằng Ðược rằng:
- Mầy tính ghé Cần Ðước kiếm tiền, té ra không kiếm được thêm, mà lại tốn của mình hết một đồng bạc nữa.
- Mầy đừng có tiếc. May lắm đa mầy. Hồi bị lính bắt tao tưởng chín đồng bạc với con heo kia tiêu hết kia chớ.
Trở về nhà Ba Sự, thằng Ðược mới giao va-li với cây dù của thầy Ðàng lại cho Ba Sự, còn cái đồng hồ với mấy cây đờn thì nó xin để làm dấu tích, thấy đồ đó cũng như thấy thầy.
Ðến trưa nước lớn đầy, có người ở lối xóm chèo ghe qua chợ Mỹ Lợi mà thăm bà con, thằng Ðược hỏi xin cho quá giang. Người ấy chịu, nó mới cậy họ khiêng dùm con heo bỏ xuống ghe rồi từ giã vợ chồng Hảo Tâm, ôm mấy cây đờn mà qua sông Bao Ngược.
Chú thích :
14. y tá (infermier)
15. trại giáo hoá trẻ em
16. vườn Thượng, còn gọi là vườn Tao Đàn
17. áo ngắn như áo veste ngày nay, thích hợp cho đàn ông lẫn đàn bà (paletot)
18. cơ quan hành chánh
19. Người Hoa ở Việt Nam