Chương 17
Tác giả: Hồ Biểu Chánh
Tội nghiệp phận cô Mỹ hết sức, từ ngày biết đi chợ nấu ăn thì cô ở nhà cứ lục đục trong bếp, ra ngoài chỉ biết chợ Càng Long. Cô thấy xe đó chạy Trà Vinh, cô không hiểu chợ đó lớn hay nhỏ, ở xa hay gần.
Gần hai tháng nay, cô nghe người ta đồn dưới Trà Vinh có ông gì đó đương cất đền đài kinh dinh rất đồ sộ, rồi người ta rủ nhau đi xem chơi. Nghe thì nghe vậy chớ cô biết thân phận thiếu phước vô duyên, cô không thảnh thơi như người ta mà dám mơ ước đi xem đền đài như thiên hạ.
Hôm nay nhờ dì Ba Thới tọc mạch, cô Mỹ được đi Trà Vinh, được xem đền đài như người ta, lại được thằng em cứng cỏi theo dìu dắt, thì cô khoái chí phỉ tình, nên đêm ấy cô trông cho mau sáng mà đi, cứ nằm mơ màng, ngủ mà không được.
Khuya gà mới gáy hiệp đầu, thì cô thức dậy rửa mặt bới đầu, sửa soạn đồ cho sẵn sàng đặng cô đi Trà Vinh. Cô lấy bộ đồ hàng của cha may cho năm tính gả cô lấy chồng. Cô bận thử thì quần áo như có ngắn một chút, nhưng đồ cất hoài nên còn mới tinh.
Thấy trời rạng đông, Mỹ mới vô buồng kêu Quí dậy, nên mời Ba Mùi đi chơi cho vui. Chị ta không muốn đi, biểu Quí dắt Mỹ đi cho biết Trà Vinh, để chị ta ở nhà đặng coi cho Sen và chú Tiền làm vườn.
Hừng sáng Quí mới dắt chị vô dì Ba Thới chờ xe, và hiệp với mẹ con dì mà đi. Quí cũng mặc đồ xập xệ như hổm nay chớ không có đồ khác; mà thấy chị mặc đồ ngắn chủn, đi chưn không, chớ không có giầy guốc, Quí cũng không thèm để ý, hay tỏ lời than phiền.
Mẹ con dì Ba Thới đã sửa soạn trước rồi, hai mẹ con đều mặc quần lãnh đen, chớ không có chưng diện chi hết, nhưng tóc bới vén khéo, chưn đều mang guốc mà thôi. Cô Hường có đeo dây chuyền với một chiếc vàng.
Dì Ba ngắm nghía cô Mỹ rồi nói:
- Con bận đồ ngắn quá coi không được. Dì nhớ một buổi anh Bồi có khoe với dì ảnh có sắm vàng với dây chuyền cho con. Đồ đó ở đâu? Sao đi chơi con không đeo?
Mỹ tự nhiên đáp:
- Lúc cha con bịnh, hụt tiền hốt thuốc nên con lén bán mà chạy thuốc cho cha con.
Quí chau mày, nghe được việc nầy trong lòng rung động. May, chuyến đò thứ nhứt chạy vô gần tới ngã ba bóp kèn vang rân. Ba người đàn bà lật đật đội khăn mà đi, làm rộn hối Quí đi, nên Quí được khuây lãng.
Chuyến nầy ít có hành khách nên trên xe còn chỗ trống nhiều. Bốn người lên ngồi chung một băng. Anh lơ lại góp tiền. Quí móc túi lấy tiền trả hết bốn người. Dì Ba Thới không cho, dì dành trả. Quí nhịn thua không dám cãi.
Anh lơ thối tiền và xé giấy đưa cho dì Ba mà hỏi:
- Mấy bà con đi coi đền đài dưới Trà Vinh phải hôn dì Ba? - Phải.
- Vậy tôi sẽ dặn anh sốp phơ hễ xe tới ngang cửa thì ngừng cho mấy bà xuống.
- Muốn vô coi phải xin phép hay không?
- Người ta cho coi thong thả mà. Để tôi cắt nghĩa cho bà nghe. Lúc nầy trong nhà làm xong rồi hết. Tủ bàn cũng chở xuống đủ cả rồi. Nhưng dân còn xẻ đường đi, xây bồn bông, làm đông lắm. Có một người Pháp lai Việt coi xếp. Cửa ngõ sắt đóng luôn luôn, mà có treo một cái chuông nhỏ. Ai muốn vô coi thì nắm dây chuông mà giựt. Chuông kêu tự nhiên có người ra mở một trong hai cái cửa sắt nhỏ kèm hai bên cho mình vô, cửa sắt lớn chính giữa chừng nào có xe vô kia mới mở. Mình vô sân rồi thì có người dắt đi cùng hết cho mình coi. Bà Ba nhớ làm y như lời tôi nói đó, khỏi xin phép xin phù gì hết.
- Dễ quá há.
Dì Ba day qua nói với Quí:
- Con nhớ nghe hôn con. Xuống xe con lại cửa mà giựt chuông. Nhưng người ta ra mở cửa, mình cũng phải nhỏ nhẹ xin phép người ta mà đi coi chớ.
Quí gật đầu nói:
- Để cho con liệu. Không sao đâu.
Hường ngồi cứ chúm chím cười, chớ không nói chi hết. Còn Mỹ mới ngồi xe đò lần đầu, mà đi Trà Vinh cũng lần đầu, bởi vậy cô nhớn nhác lo sợ, lộ cái vẻ quê mùa, nhút nhát, làm cho Quí dòm thấy Quí cảm động vô cùng.
Xe tới Láng Thê rước hành khách. Mỹ nhờ cô Hường nói mới hay, rồi tới Ba Si cũng vậy. Qua khỏi ngã ba Nguyện Hoá rồi, Hường nói gần tới, Mỹ hồi hộp, dòm ra phía trước, ý muốn coi Trà Vinh ở chỗ nào.
Thình lình phía trước, bên tay mặt, hiện ra một quang cảnh đồ sộ, đền đài cao ngất, nhơn công lăng xăng làm mé trước rất đông, mà coi lại thì mé sau còn đông hơn nữa.
Anh lơ xe ngồi trước day lại kêu mà nói:
- Tới rồi đó bà con, sửa soạn đặng xuống .
Xe bớt máy, chạy chậm rồi ngừng ngay cửa ngõ sắt đóng kín. Quí để cho ba người đàn bà xuống trước, rồi Quí xuống sau.
Xe hơi rút chạy.
Quí chưa chịu giựt chuông, chàng đương ngắm nghía từ ngoài cửa vô trong xa. Bà Ba Thới với Mỹ và Hường cũng đứng một bên mà ngó.
Quang cảnh nầy ai thấy cũng trầm trồ, rồi đồn dội, nghĩ thiệt phải. Nếu nghi cho mấy anh lơ xe đò bày chuyện dụ khách đi xem cho đông đặng chủ xe thủ lợi thì oan cho mấy ảnh.
Cuộc như vầy miệt Lục Tỉnh chưa có chỗ nào lập được.
Một sở đất cao ráo bằng thẳng, nằm dọc theo mé quan lộ hơn 150 thước, còn bề vô hơn 600 thước, nghĩa là đất lớn lối 10 mẫu cách tỉnh lỵ Trà Vinh không tới một cây số. Từ cửa ngõ chạy vô lối 100 thước thì để trống đặng làm hoa viên, rồi dựng lên một cái đền cao lớn nằm ngang, chính giữa thì có hai từng, còn hai đầu xông thì cao tới ba tầng, lại có địch lầu nên coi vừa hùng vĩ, vừa xinh đẹp. Sau cái đền ấy thì có mấy căn nhà trệt, dãy làm nhà bếp, dãy để giao dịch ở, và dãy để chứa xe hơi. Còn phía sau nữa thì bị cái đền cản bít, phần thì đứng ngoài lộ ngó vô xa quán, nên không biết phía sau có vật gì. Trước sân chỉ có ba bốn mươi người đương cuốc đất, bưng đất, làm lăng xăng.
Một người mặc quần sọt trắng, áo sơ mi xanh, đầu đội nón trắng, ở trong đền đi ra, rồi chống nạnh đứng trên thềm nhà ngó nhơn công làm.
Dì Ba Thới nhắc Quí giựt chuông đặng xin phép vô coi. Quí mới bước lại giựt chuông reo tới bốn năm chập, rồi bỏ đi lại, cúi mặt ngó xuống đất, coi bộ suy nghĩ lắm.
Người mặc đồ sọt xanh nón trắng đó bươn bả đi ra. Chừng người ra gần tới, dì Ba Thới với cô hai nhìn kỹ thì là người Pháp. Nhớ lời anh lơ đã nói trên xe, nên ai cũng biết người nầy coi xếp cho thợ với nhơn công làm. Người Pháp dỡ nón chào, miệng lại chúm chím cười. Quí lại xây mặt ngó ngoài lộ, dường như không thấy người ta chào, nên không đáp lễ.
Tưởng là mở cửa nhỏ cho khách vô như lời anh lơ đã nói, té ra người xếp đó đi ngay lại cửa lớn chính giữa, mà tháo sợi dây xiềng sắt rồi mở bét ra một cánh cửa lớn.
Quí day lại nói ít câu tiếng Pháp, rồi nói với dì Ba với cô vô, nói rằng mình đã xin phép rồi. Người xếp tiếp mà nói tiếng Việt rõ ràng như người Việt :
- Tôi kính mời ba bà vô. Tôi sẽ dắt mà chỉ cho ba bà xem đủ hết. Ở đây cho phép người xem thong thả tối ngày. Ba bà đừng ngại chi hết, cứ việc vô.
Dì Ba thấy ông sếp nói tiếng Việt lanh như người mình, lại nghe ông nói tử tế thì cười mà đi vô cửa. Hai cô theo đi vô rồi Quí vô chót hết.
Ông xếp với khép cánh cửa sắt lại mà hỏi:
- Mấy bà ở đâu mà đi xem đây?
Dì Ba nói ở Càng Long.
Ông xếp nói:
- Hèn chi xuống sớm dữ. Mấy tháng nay bà con trên Càng Long xuống coi đông hơn hết. Thôi mấy bà con đi theo tôi đặng tôi chỉ cho mà xem.
Ông xếp dắt ba người đi trước. Quí thủng thẳng đi theo sau. Vô gần tới chỗ nhơn công làm, ông xếp dừng lại rồi đưa tay ra chỉ mà nói:
- Người ta đương đổ đất xây một cái bồn bông lớn và tròn tại giữa sân đây. Bồn bông sẽ xẻ hai đường. Một đường dọc, một đường cho xe chạy, Chính giữa chỗ hai đường gặp nhau đó sẽ chừa trống một khoản tròn, rồi đắp vài cái băng xi-măng lớn, để đêm trăng ngồi chơi mà hưởng mùi hoa thơm, ngó vừng trăng cỏ.
Cô Hường níu cô Mỹ và cười và nói:
- Ổng người Pháp mà ổng nói tiếng Việt hay hơn chị em mình.
Ông xếp cười mà nói:
- Tôi ăn cơm, tự nhiên tôi nói tiếng Việt được. Nếu tôi có nói trật, xin hai cô sửa dùm. Để tôi chỉ tiếp cho bà lão xem. Tại cửa ngõ hồi nãy đó, cũng như trước thềm nhà trong kía, sẽ để trống thành hai cái bùng binh, tại cửa ngõ đó, sẽ làm hai đường xe tẻ hai bên cái bồn bông chính giữa, hai đường vô giáp nhau tại thềm nhà. Còn dài theo hàng rào sắt phía trước kía cũng như dài theo hai vách thành hai bên đây, thì có đường lớn chạy xe vòng được, hai bên đường sẽ trồng xoài, mít, nhãn, mãn cầu, vú sữa, sa-bô-chê. Cây đã đặt chiết sẵn rồi, đợi mưa sẽ trở về trồng liền. Trong ít năm sẽ có đủ thứ trái ăn không hết. Mà từ đường dài theo rào vô tới đường bao bồn bông, hai bên có hai miếng đất nằm dài. Trong hai miếng đó không trồng bông mà cũng không trồng cây, chừa trống trồng vật có ích theo mùa như -- đậu xanh, đậu trắng, gừng, nghệ, rau, cải. Theo ý ông chủ, phải làm như vậy cho người ta thấy tuy chủ nhà thưởng thức cái xinh đẹp của bông hoa, song cũng không quên những thứ bổ ích cho sự sống của con người.
Dì Ba Thới chận mà khen.
- Giàu sang đã muốn hưởng sung sướng mà cũng tính lợi ích. Ông chủ là người Pháp hay là người Việt vậy ông?
- Nửa Pháp nửa Việt.
- Sao vậy? Lai hả?
- Để ổng qua rồi bà sẽ biết.
- Ổng ở đâu mà qua?
- Ở bên Pháp.
- Ở bên Pháp mà lập chi một cuộc quá xá như vầy nè.
- Đợi làm xong ổng sẽ qua mà ở bên nầy chớ.
- Bộ ổng giàu lắm hả?
- Nghèo mà làm như vầy sao nổi.
- Ông làm gì mà giàu dữ vậy? Nhà buôn bán hay là nhờ ruộng đất.
- Nhờ đủ thứ. Ổng có ruộng bên Rạch Giá, có vườn cà phê trên Ban-mê- Thuộc, có sở cao su trên Biên-Hoà, lại có nhiều phần hùn trong hãng thuốc với hãng bán xe hơi trên Sài Gòn nữa.
- Quá xá ! Vậy mà không giàu sao được, mà cất nhà sao ổng không cất mấy chỗ ổng có vườn có đất, ổng lại cất tại đây làm chi?
- Ý ổng tôi biết sao được.
Ông xếp trả lời lơ là rồi dắt khách đi vô trong; nhưng chưa vô đền lớn, ông dắt đi vòng phía ngoài. Tới đầu xông bên tay mặt ông chỉ cái sân đánh tennis đã làm rồi. Vô phía sau ông chỉ nhà bếp, nhà bồi,nhà xe; ông lại chỉ một khoảnh đất rộng lớn nằm phía sau nữa, có mấy chục người đương đào gốc cây và ban cho bằng thẳng, mà nói với khách:
- Sở đất lớn đương dọn dẹp đó thì ông chủ định lập một sở nuôi dạy trẻ nhỏ mồ côi. Tiếp với cuộc nầy sẽ cất một cái nhà lầu 5 căn nằm ngang để cho ông hoặc bà quản lý với mấy người phụ sự ở. Từ đó trở vô trong sẽ cất mỗi bên một dãy nhà dài, một bên nuôi con gái, một bên nuôi con trai. Chính giữa thì cất trường dạy chữ, nhà dạy may vá, nhà dạy nấu ăn. Phía trong hết thì đào giếng làm rẫy để cho con trai tập gieo trồng.
Cô Hường lắc đầu ngó Quí mà nói:
- Làm việc có ích quá ! Ngặt phải tốn hao dữ lắm. Biết được lâu dài hay không?
Quí cười mà đáp:
- Chắc người ta liệu làm được, nên người ta mới định làm đó chớ .
Ông xếp dắt qua đầu xông phía trái. Ông chỉ miếng đất trống mà nói:
- Chỗ nầy có một cái giếng sẵn. Thử rồi, nước tốt lại nhiều. Sẽ xây một cái bồn chứa nước trên cao, đặt máy bơm nước lên bồn, rồi làm ống cho chạy cùng hết đặng có nước dùng và tưới đồ trong mùa nắng. Phía nhà mồ côi cũng phải xây bồn nước như vậy nữa mới có nước đủ dùng .
Di Ba Thới nói:
- Làm công chuyện quá nhà nước .
Ông xếp nói:
- Xin bà lão đừng nói vậy không nên. Bây giờ ông mới dắt đi vòng ra phía trước rồi lên thềm mà vào đền.
Vừa bước vô cửa thì dì Ba Thới với cô hai vội đứng lại. Một cái phòng -- rộng bề ngang, hiện ra trước mắt, dưới đất có lót gạch bông láng mướt, trên tường và trên trần vẽ vời tốt tươi, đèn ống gắn nhiều màu, ghế bàn dọn hực hỡ. Chính giữa dọn một bộ sa lông lớn, nệm may bằng nhung màu vàng, hiện giờ chưa dùng, nên tròng bao bằng bố xám.
Bên tay mặt có một bộ sa-lông khác cũng đẹp nhưng nhỏ hơn, nệm may bằng nỉ xanh cũng có bao bằng bố xám. Còn bên tay trái thì lót một cái bàn lớn có thể 24 người ngồi ăn cơm rộng rãi. Mà thiệt có 24 cái ghế lót nệm xanh đậm, chồng để dọc theo vách rồi phủ vải trắng cho khỏi bụi.
Ông sếp mời vào mà nói:
- Đây là phòng khách. Nếu đãi tiệc đông thì dẹp hết sa-lông mà đặt bàn thì 120 khách ngồi ăn rộng rãi. Nếu nhảy đầm thì dẹp bàn mà khiêu vũ, mấy chục cặp cũng đủ chỗ.
Có trổ hai cửa vô phía sau, ông xếp mở mà mời khách vô. Một cái phòng nhỏ có một bộ ván cẩm lai, lại một bên để tủ rượu, một bên để tủ lạnh. Trước bộ ván thì có một bàn ăn cơm, còn dựa vách mỗi bên có một bàn nhỏ với hai cái ghế, để hai người ngồi uống nước hoặc uống trà mà nói chuyện thân mật. Ông xếp nói đây là chỗ gia đình ăn cơm hằng ngày, chỗ tiếp bà con thân thích hoặc người thường. Còn hai bên đây có hai cái phòng ngủ để cho bà con trong thân ngủ.
Ông xếp dắt qua coi hai cái phòng thì có giường sắt, tủ áo, bàn ghế đủ hết. Mỗi phòng có kềm một giường nhỏ để tắm rửa và trong đó có cầu tiêu máy.
Xem dưới đất đủ rồi ông xếp mời khách lên. Hai bên có hai thanh lầu xây bằng xi-măng lót đá cẩm thạch trắng, muốn lên bên nào cũng được. Lên mút đầu thang thì gặp một phòng lớn rộng rãi mát mẽ, ông xếp nói:
- Bây giờ mấy bà bước vào cảnh sống thân mật một gia đình của ông chủ tôi. Cái phòng nầy người Pháp gọi là phòng tiếp khách riêng của bà chủ nhà. Ngày đêm nếu không làm việc gì thì bà chủ thường ở đây đặng thêu thùa hoặc đọc sách, hoặc trò chuyện với chị em. Vì vậy nên đồ đạc trong phòng đều thuộc đồ của phụ nữ dùng.
Dì Ba Thới vụt nói:
- Bà chủ ở cái chỗ đẹp đẽ quá há. Sung sướng sang trọng biết chừng nào. Người có phước lắm mới được hưởng như vầy.
Dì Ba Thới với cô hai ngó chung quanh trong phòng thì thấy có một cái đi văn (divan) thiệt đẹp, vì ba phía có đóng hộc, chạm trổ kiểng thiệt khéo. Có bàn viết nhỏ để viết thơ, có bàn dồi phấn, có ghế xích đu, có một bộ sa-lông nhỏ để ngồi nói chuyện.
Ông xếp liệu mấy bà xem rồi ông mở cái tủ nhỏ lấy ra một cái chuông đồng cũng nhỏ, ông lắc kêu reng reng, rồi ông bỏ chuông vô tủ mà khép cửa lại. Một anh bồi ở từng dưới chạy lên. Ông xếp nói nho nhỏ vài câu rồi anh bồi xoay lưng đi xuống.
Ông xếp mới mời khách theo ông vào một hành lang dài từ phòng đó ra tới phía trước. Khách đi mút hành lang rồi đứng ngó xuống sân mà chơi. Ông xếp để cho khách bàn luận, ông đi mở cửa hai cái phòng, nằm hai bên hành lang rồi mời khách lại xem. Ông cho vô phòng bên tay mặt mà nói đây là phòng ngủ của ông chủ, bà chủ. Có giường đồng có ván gõ, có tủ áo, có bàn cẩm thạch, có ghế phô tơi, có phòng tắm rửa, có chỗ ngồi trang điểm. Coi bên nầy rồi ông dắt qua phòng bên kia, thì đồ đạc cũng giống y như vậy, mà ông nói phòng nầy là phòng riêng của chị ông chủ ngủ.
Cô Hường nghe nói như vậy thì ngó cô Mỹ và chúm chím cười.
Dì Ba ngó Quí đứng dựa cửa phòng, dì nói:
- Té ra ông chủ có vợ lại có chị nữa .
Quí làm lơ.
Ông xếp cũng không trả lời, mà ông mời liền mấy bà và cô trở lại phòng khách hồi nãy.
Dì Ba thấy phía sau còn ba cái phòng để làm chi mà nhiều vậy. Quí châu mày ngó lơ.
Ông xếp bước tới cửa phòng giữa thì thấy có dọn một bàn thờ ông bà, có lục bình, lư hương chưa có đèn đủ chi hết.
Dì Ba ngạc nhiên nên nói:
- Ủa ! ông chủ là người Pháp, mà ổng thờ ông bà hay sao?
Ông xếp bình tĩnh đáp:
- Người Pháp cũng có nhiều đạo vậy chớ. Ông chủ tôi theo đạo Nho. Còn tôi đây, tôi cũng người Pháp mà tôi thờ đạo phật .
Ông xếp mở cửa cái phòng bên tay mặt nữa mà nói phòng nầy là phòng đọc sách của ông chủ; rồi ông trở qua mở luôn cái phòng bên tay trái mà nói phòng nầy là phòng của ông chủ làm việc.
Dì Ba Thới đứng ngoài ngó vô thấy bàn viết, có tủ nhỏ, trên tường lại có treo một khung hình lớn. Dì chỉ hình ấy mà hỏi ông xếp:
- Phải hình của ông chủ hay không xếp?
- Không, đó là hình ông già của ông chủ.
- Trời ơi! Hình đó là hình ông Kinh Lý La-Co. Té ra ông chủ là con của ông La-Co mà.
Quí lật đật bước vô mà nói:
- Không phải đâu dì Ba. Tại dì không có gần người Pháp, dì coi họ giống nhau hết nên dì lầm. Con có làm với ông La-Co mấy năm. Mặt ổng khác, chớ không phải vậy.
Hường với Mỹ nói hình giống như ông La-Co quá. Không biết sao mà nói không?
Anh bồi bưng lên để tại sa-lông một mâm có lave, mô-nát, nước cam, nước đá, một hộp bánh mì với 5 cái ly.
Ông xếp mời khách lại giải khát, mời dì Ba ngồi cái ghế ca-na-bê, hai cô ngồi hai cái ghế một phía, còn phía bên nầy thì Quí và ông xếp ngồi.
Ông xếp gắp nước đá bỏ vô năm cái ly. Dì Ba nói dì với hai cô không biết uống rượu mà sợ say. Ông xếp cười mà nói nước cam ngọt, uống nước đá cho mát, chớ không phải rượu đâu mà sợ say, Ông mở hai chai nước cam rót 3 ly khách đàn bà, còn 2 ly thì ông mở la-ve rót uống với Quí.
Ông xếp ép mời Quí cũng tiếp mời nữa, nên dì Ba với cô hai mới chịu bưng ly mà nếm thử. Nếm ngon ngọt mà mà không có mùi rựơu, ba người mới dám uống. Quí bưng ly la-ve lại đứng dựa cửa mà uống, có ý muốn để cho mấy người đàn bà thong thả trao đổi cảm tưởng với nhau cho vui. Ông xếp cũng bưng ly lại đứng với Quí. Hai người nói tiếng Pháp với nhau.
Hường chú ý rình coi, tuy không hiểu hai người nói chuyện gì song thấy ông xếp nói nhiều mà bộ lại bải buôi chìu chuộng. Còn Quí thì trầm tĩnh, ông xếp nói thì lóng tai nghe, mà không thèm ngó, một lát thấy gật đầu một cái, hoặc nói lại ít tiếng mà thôi. Hường không hiểu hai người có quen nhau hay không, nhưng cô nhận thấy chắc chắn mấy điều nầy, là Quí rành tiếng Pháp, hiểu mau, nói dễ, nói chuyện với ông xếp, Quí vững vàng, không sụt sè, không kiêng nể, bộ còn oai hơn nói chuyện với người trong làng.
Còn dì Ba Thới thì dì khoái quá, vì được ông xếp tiếp rước tử rế, dắt đi xem cùng hết, tới đâu cũng cắt nghĩa rõ ràng, mời ngồi tại phòng tiếp khách của bà chủ, lại còn đãi nước đá nước cam. Dì nói với Mỹ và Hường:
- Có lẽ mình nhờ Quí biết nói tiếng Pháp, nên ông xếp mới đối đãi với mình một cách tử tế đặc biệt. Mấy tháng nay, trên mình họ đi xem dập dìu mà, chắc không có người nào được biệt đãi trọng hậu như mình vầy đâu.
Thấy Quí uống hết ly la-ve, dì Ba mới kêu lên mà nói:
- Con, mình xem đủ hết rồi, thôi mình cám ơn ông xếp đặng đi xuống chợ Trà Vinh một chút.
Ông xếp nói:
- Mấy bà muốn xuống chợ, chớ không phải ở đây đón xe đò mà về? Được. Tôi có việc nên tôi cũng phải đi chợ đây. Vậy mấy bà uống cho hết ly nước cam đi. Đợi tôi soạn đồ một chút xíu rồi tôi đem xe ra, tôi đưa mấy bà đi với tôi. Trời nổi nắng rồi. Đi bộ từ đây xuống tới chợ mệt lắm.
Ông xếp nói rồi liền đi vô phòng làm việc, chỗ có treo khung hình hồi nãy đó.
Dì Ba ngoắc Quí lại mà biểu ngồi một bên rồi hỏi:
- Tại sao ông xếp tử tế với tụi mình dữ vậy?
- Tại con biết nói tiếng Pháp nên ông ưa. Người Pháp đều vậy hết. Ai biết nói tiếng của họ thì họ chịu lắm.
- Ông đãi rượu, rồi còn mời đi xe nữa. Nên đi hay không con?
- Sẵn ông có dịp đi xuống chợ, ổng chở dùm mình luôn, có tốn hao gì cho ổng mà mình ngại.
Hường cười mà nói:
- Em coi bộ ổng trọng anh lắm. Nếu anh o bế ổng, anh cậy ổng đưa dùm mình về Càng Long, chắc ổng cũng chịu. Thiệt vậy à.
Quí đứng dậy và nói:
- Có lẽ ổng vị quá như vậy. Thôi, uống cho hết ly nước cam rồi ổng ra mình đi.
Ông xếp trở ra, tay có ôm một cặp đựng giấy tờ đầy nhốc. Ông mời khách theo ông xuống lầu đặng ông đem xe ra mà đi với nhau.
Xuống tới sân sau, ông biểu khách đứng đó mà chờ. Ông vô nhà lấy xe, lấy chiếc xe trắc-xông chạy ra sân. Ông nhảy xuống mở cửa xe, mời dì Ba với hai cô ngồi phía sau, mời Quí lên ngồi phía trước với ông, rồi chạy ra cửa ngỏ. Một người cặp-rằng thấy xe ông xếp ra, lật đật chạy lại mở cửa lớn cho xe ra quang chợ. Quí day lại hỏi dì Ba Thới muốn ghé chỗ nào. Dì biểu lại chợ thì ngừng đặng xuống cho Mỹ xem chợ, rồi sẽ lại xe đò mà về.
Ông xếp nghe lời chạy lại ngừng ngay nhà chợ, Quí leo xuống mở cửa xe cho dì Ba với hai cô ra. Quí với dì Ba tỏ lời cám ơn ông xếp rồi chào hết bốn người khách, lái xe mà đi.
Dì Ba Thới dắt hết đi một vòng chung quanh chợ cho Mỹ xem chợ, xem các tiệm lớn thì trầm trồ, khen buôn bán lớn bằng mười chợ Càng Long. Dì Ba Thới mới được xem đền đài, lại được ông xếp hậu đãi, trong lòng dì đương hân hoan, nên nghe nhắc ăn uống, thì dì sẵn lòng đãi con em một bữa cơm khách trú để kỷ niệm cái ngày đi chơi vui vẻ, dầu phải tốn một chục đồng cũng đáng.
Mấy bà con dắt nhau vô tiệm cơm. Lúc ấy gần 10 giờ. Tốp ăn lót lòng thì họ đã đi hết rồi, còn tốp ăn trưa thì còn sớm quá họ chưa tới, bởi vậy trong tiệm trống trơn, không có khách. Quí lựa một bàn lớn chính giữa mà mời dì Ba với cô hai ngồi. Quí hỏi dì Ba muốn ăn thứ gì. Dì suy nghĩ một chút rồi nói:
- Lâu ăn mì quá. Vậy nấu cho mỗi người một tô mì ăn chơi rồi sẽ ăn cơm.
Quí bèn kêu bốn tô mì nước, dặn phải nấu cho ngon.
Lúc ngồi chờ mì, dì Ba nhắc chuyện xem đền đài hồi nãy, được ngồi phòng tiếp khách của bà chủ, được uống nước đá nước cam, lại được xe nhà đưa xuống chợ. Dì hỏi Mỹ khoái hay không. Dì dặn Hường về hỏi mấy người đi coi rồi có ai được vậy hay không. Dì khen, cuộc rộng lớn, nhà kinh dinh, đồ quý giá. Dì khen hết thảy, không chê chỗ nào.
Hường với Mỹ cứ ngồi cười, không chê mà cũng không khen, chắc là tại quang cảnh quá trí tưởng tượng của hai cô, nên hai cô không bình phẩm nỗi. Vì đi hồi tảng sáng, đến bây giờ đã đói hung, nên người bưng bốn tô mì lại, mọi người ăn rất ngon.
Quí biểu nấu một tô canh cải bẹ xanh, lấy một dĩa thịt xá xiếu, một dĩa lạp xưởng đặng ăn cơm, nghe rằng ăn một tô mì đã muốn no rồi, nên không cần kêu đồ ăn cơm nhiều sợ ăn không hết, thiệt quả chừng ăn cơm mỗi người ăn có một chén mà thôi, không thể ăn nhiều được.
Chủ tiệm tính tiền cả thảy có 2 đồng 2 cắc. Quí móc tiền mà trả. Dì Ba rầy, dì dành mà trả tiền. Dì nói, cô Hường có hứa đi chơi cô bao hết thảy, nên chị em Quí không phép phải trả.
Uống nước rồi lại bến xe đò, thì xe Càng Long đợi nữa mới có xe mới, nên Quí dắt Mỹ với mẹ con dì Ba đi xem toà án. Toà bố, công sở, phố phường trong châu thành đến gần 12 giờ mới trở lại bến xe.
Quí xin dì Ba với cô hai về trước, vì Quí phải ở lại kiếm thăm thầy Nhứt Vĩnh, rồi xế chiều Quí sẽ về sau.
Dì Ba với cô Hai lên xe ngồi trước. Quí xẩn bẩn ở đó mà chơi, cho đến xe chạy rồi Quí mới đi bộ lại Bungalow là nhà của nhà nước cất ra và sắm đồ đạc, rồi giảo giá, giao cho người ngoài cai quản để khách phương xa đến có sẵn chỗ tử tế mà ăn ngủ.