Chương 4
Tác giả: Jerry Cotton
Tôi không có cơ hội để ra hiệu cho Phil. Không nên cho kẻ nào nhận thấy là chúng tôi quen biết nhau. Tôi không nghĩ là ả Nancy tóc vàng sẽ cử một nhóm đấm đá xồ chân theo tôi, sau khi đã biết tôi là sĩ quan đặc nhiệm.
Nhưng tôi e ngại rằng ả sẽ làm một điều gì đó để tóm cổ Phil và đánh đập thúc anh khai ra anh muốn gặp Pat Labonte vì chuyện gì. Có lẽ vì chuyện đó, ả thậm chí còn mong tôi im lặng biến thật nhanh khỏi khu vực.
Nancy đi cùng với tôi đến phòng ngoài và đứng mở cửa ra vào cho tôi. – Giờ ông không cần thẻ câu lạc bộ của ông nữa, - ả nói, gắng lấy giọng thân thiện, khách quan.
- Không, - tôi nói. – Nhưng lần sau quay trở lại đây, tôi sẽ mang chứng minh thư thật. – Tôi lờ đi bàn tay đang chìa ra của ả đàn bà, ý muốn đòi lại thẻ thành viên. - Chắc bà sẽ hiểu là tôi rất muốn tự tay mình xé cái thẻ đó, thưa bà. – Tôi cười. – Các cấp trên của tôi chắc chắn cũng không thích gì cái chuyện bà có thể dùng ảnh tôi để quảng cáo cho cơ sở của bà.
Ả tóc vàng sập cửa thật mạnh đằng sau lưng chúng tôi.
Tôi dắt một cô Pamela toàn thân run bắn đi theo hai bậc thềm xuống dưới phố. Bàn tay trái tôi cầm cánh tay phải của cô, và tôi để cho cô tự xách túi du lịch, đảm bảo khi cần thiết tôi luôn có một tay rảnh.
Ngoài phố Canal trời giờ đã tối. Chỉ có những ngọn đèn trên con đường dẫn lên cầu Manhattan là sáng rỡ. Chiếc xe thể thao của tôi được đỗ ngay đằng sau góc cắt với phố Lafayette. Vậy là tôi xoay sang phải. Đưa mắt quan sát bao cảnh.
Pamela và tôi cùng nhìn thấy chiếc xe buýt đó. Pamela giật nẩy người lên. Chiếc xe buýt loại nhỏ đó là một chiếc Dodge màu nâu với những vệt sáng màu ở hai bên cánh. Rèm bên trong cửa sổ được kéo kín. Tay lái đã đưa chiếc xe giật lùi, đút nó vào một chỗ đậu quá hẹp. Hai bánh trước của nó nằm chắn ngang làn xe đi, đuôi xe cùng cánh cửa chồm lên vỉa hè. Khi tôi đến đây, cái xe buýt nhỏ còn chưa đứng ở chỗ này. Nó đỗ trái luật giao thông đến mức độ nó có, chắc chắn tôi đã nhận ra.
Chỉ có một lời giải thích thôi. Sau sự xuất hiện của Phil trong câu lạc bộ, ả tóc vàng đã tìm cách gọi cho Pat Labonte.
Thay cho gã, đám đánh đấm của gã đã tới đây. Đại bản doanh của chúng, cứ theo khoảng thời gian mà đoán, chắc phải nằm gần đây. Hoặc ả tóc vàng thậm chí có thể gọi cho lũ trai này bằng máy điện đàm.
Tôi nhìn ngang qua chiếc xe Dodge và dẫn Pamela bước nhanh về góc cắt với phố Lafayette. Khi chiếc xe đã ở phía sau lưng, tôi nhận rõ một cảm giác tê tê giữa hai bả vai.
Chúng tôi an toàn đến được góc phố. Rồi chúng tôi bắt đầu chạy. Tôi dừng lại bên chiếc xe thể thao của mình, mở cửa xe, ấn Pamela ngồi vào trong rồi cúi thấp xuống bên cô.
- Tôi phải quay trở lại lần nữa. Cô hãy khóa chốt cửa từ phía trong và thụt sâu đầu xuống! Tôi sẽ quay lại ngay. – Tôi sập cửa lại rồi lướt về góc phố.
Một chiếc xe chở hàng chất quá tải đang gầm gào đi dọc phố Canal lên trên. Ánh đèn pha run rẩy lướt trên chiếc Dodge. Tôi cúi xuống, chờ một cơ hội thuận tiện để có thể lẻn lại gần nó.
Lúc đó tôi nhìn thấy Phil. Anh đang đi dọc tường nhà. Trong một thoáng, bóng anh hắt lên trên những cánh cửa cuốn bằng sắt che phía bên ngoài cửa sổ của một cửa hiệu. Thế rồi chiếc xe chở hàng rùng rùng lăn bánh qua và bóng tối lại bao trùm lấy bạn tôi.
Tôi nén không bật một tiếng kêu cảnh báo khi thoáng nhận thấy những chuyển động lờ mờ. Nếu bọn gangster nhận thấy là Phil không đi một mình, và qua đó đâm e ngại bị giẫm chân vào bẫy, thì phản ứng của chúng sẽ trở nên bất lường.
Tiếng kêu bất ngờ của Phil bị bóp nghẹt dưới một bàn tay người. Một ánh đèn pin lóe lên. Hai gã trai đập Phil ngã xuống. Một tên thứ ba dùng đèn soi. Phil điên cuồng kháng cự. Nhưng cả hai gã trai đóng đinh anh thật chắc xuống nền đất, giữ chắc cả cánh tay lẫn chân anh. Hiện thời, bọn con trai vậy là vẫn bận rộn với bọn tôi. Tôi có vẻ chắc chắn là chúng không có ý định giết anh hoặc làm anh bị thương nặng. Chúng chỉ muốn thúc ép anh nói ra để biết anh muốn gặp Pat labonte vì lý do gì. Chắc là chúng đang lo dữ lắm, vì chúng biết là Labonte đã chết.
Vậy là với hai bước nhảy dài, tôi lao ngang qua khoảng vỉa hè, ném mình vào giữa hai chiếc xe đậu ở đó rồi khom thấp xuống, nép vào những chiếc xe đậu, tôi thận trọng tiến lại gần chiếc xe buýt nhỏ.
Tôi ép mình vòng qua cái mõm to bè của nó, rồi hơi ngẩng đầu lên một chút. Cánh cửa bên tay lái để mở. Vậy là tay lái xe cũng có mặt trong bộ ba đang bận rộn với việc đưa Phil lên xe. Vậy là hai chúng tôi chỉ phải đối phó với ba tên lưu manh. Bởi nếu không thì chí ít ra tay lái cũng sẽ ngồi lại trong xe.
Chiếc xe chuyển động nhè nhẹ khi bọn đàn ông ném Phil vào khoang đựng đồ phía sau. Tôi luồn người thật thấp lẻn vào cabin xe, giơ tay sờ dọc vô lăng cho tới khi ngón tay của tôi chạm vào chìa khóa. Nó lanh canh khe khẽ. Ở phía đằng sau xe có tiếng cửa sập mạnh.
- Đi thôi, nhanh lên! - Một giọng thô bạo thúc giục. Tôi nghe thấy tiếng chân người.
Tay lái xe đến!
Tôi rút chìa khóa xe ra khỏi ổ, ném mình xuống dưới nền đường và lăn ra phía trước hai bánh xe, lẻn vào góc chết, nơi tay lái xe không thể phát hiện ra tôi dù có bật đèn pha lên.
Tôi nghe tiếng chân gã nện lên bậc xe. Rồi cửa sập lại. Tôi hầu như không dám thở. Một chút sau đó, đèn trong xe được bật lên va cánh cửa lại mở bung ra.
- Khốn nạn, tao còn nhớ rất rõ là tao để cắm chìa khóa ở đây! – Thằng lái xe nói bằng giọng đã khản đặc vì kinh hoảng.
Cái giọng thô bạo kia trả lời bằng một câu chửi. - Đồ rác thối! Mày không còn nhớ mày làm cái gì nữa! Đi tìm cho bằng được cái chìa khóa! Nếu không…
Tên lái nhảy ra khỏi xe. Cánh cửa để mở. Cả cửa phía sau xe bây giờ cũng lại được bật ra. Tay lái chạy vòng ra phía sau xe.
Tôi bò vòng quanh bánh xe phía trước mé trái, rồi hơi nhỏm người dậy bên dưới cánh cửa, trèo vào trong buồng lái. Vì cửa để mở, lên đèn trong xe cháy. Trong ánh sáng của nó, tôi nhận ra khoảng để chân thông nhau của hai ghế ngồi phía trước. Như thế này còn tiện lợi hơn cả tôi chờ đợi. Ánh sáng của ngọn đèn nho nhỏ phía trước cho tôi nhận ra đường nét của một chiếc ghế dài, nó được gắn dọc theo cạnh trái của xe ô tô. Phía bên phải có một vài ghế ngồi riêng lẻ và một chiếc tủ nhỏ, có thể đựng đồ uống bên trong.
Phil nằm sấp trên ghế dài, và cổ tay cổ chân anh có ánh thép mờ mờ.
Ra lũ con trai đã khóa anh bằng còng.
Một thành viên của nhóm ba gangster cúi lom khom bên cạnh cửa sau xe, bám chắc hai tay vào viền mái xe, gã nhoài hẳn người ra phía ngoài. Nền xe được trải một lớp thảm ni lông rất dày. Vì thế mà chân tôi không hề gây tiếng động khi tôi lẻn đến sau lưng gã. Vẫn không một tiếng động, tôi rút súng ra. Rồi tôi ép sát nòng súng vào tai phải của tên gangster trong khi dịu dàng thì thào vài câu ân ái vào tai kia.
- Biết điều thì đứng có mở mồm ra, anh bạn, - tôi thì thầm. Cơ thể gã trai đột ngột cứng ra như một ván gỗ. - Suỵt! – Tôi rít lên. Tôi nhìn ngang qua hắn ra ngoài.
Cả hai tên còn lại đang gần như bò ra trên vỉa hè. Một đứa cầm một ngọn đèn pin. Cả hai đứa vừa chìa khóa vừa chửi nhau.
Tôi kéo thằng lưu manh đã gần hóa đá vì sợ và vì bất ngờ vào phía trong xe. Nó cao cỡ trung bình, nhưng lực lưỡng và chắc chắn là khỏe như một con gấu, và không đến nỗi ngu. Gã không dùng mánh. Chắc gã cho tôi là một kẻ cùng loại, và đoán tôi sẵn sàng làm mọi thứ.
Tôi dẫn gã đến bên một chiếc ghế. Chỉ bằng một động tác thành thạo, tôi rút ra tối hai khẩu súng lục từ túi áo gã. Một khẩu có những đường nét hết sức quen thuộc. Nó là khẩu súng của Phil. Tôi đút nó vào người. Như tự động, tôi đưa khẩu kia lên mũi ngửi. Nòng súng còn bốc lên mùi thuốc nổ. Tôi đoán chắc là khẩu súng này đã phun lửa cách đây chẳng mấy xa.
Thật vui khi tìm thấy trong áo khoác ngoài của tên gangster thêm một đôi còng tay nữa.Vậy là tôi không cần phải hy sinh còng của mình. Tôi giật cánh tay gã ra sau lưng và cho chiếc còng số 8 sập vào. Phil ngọ nguậy và xoay đầu về hướng tôi. Tôi không biết liệu anh có nhận ra tôi. Giờ tôi không có thời gian để quan tâm đến anh.
- Thế, anh bạn, giờ nói cho bạn bè của mày biết là mày đã tìm thấy chìa khóa xe! Nhưng liệu hồn đừng có nói sai một tiếng… - Tôi để cho gã cảm nhận rất rõ lực ấn của nòng súng Smith & Wesson, và khi gã gật đầu, tôi nói: - Nó đi!
- Này, Rex! Tao tìm thấy chìa khóa rồi!
Nếu gã trai lực lưỡng như bò mộng này khôn ngoan, thì gã sẽ không giở mánh khóe bây giờ. Bởi vì nếu gã giở mánh và gạo tòng phạm ngoài kia bằng tên giả, thì bọn con trai phía ngoài kia sẽ chẳng mấy để ý đến gã bạn đang bị sa lưới của chúng trong này. Nếu chúng là tòng phạm của Pat Labonte, thì chúng cũng chính là những kẻ đã lái chiếc xe taxi bị đánh cắp và tìm cách bắn chết Mike Kelin. Một khi nổi nghi, chúng sẽ không chần chừ lấy một giây trước khi găm đạn chì xuyên thủng khoảng không gian bên trong chiếc Dodge.
Mặc dù vậy, tôi vẫn thấy hồi hộp.
Tôi rụt người xuống đằng sau tấm lưng to bè của tên gangster khi có một đứa nhô nửa người vào khuôn cửa sau để mở.
- Đồ ngu khốn nạn! - Một giọng khàn khàn rít lên. Thế rồi chủ nhân của cái giọng khàn đó nhảy vào trong xe, sập cửa lại.
Tên lái lại trèo lên chỗ của nó ở phía trước và ngồi xuống sau vô-lăng. Cửa sập lại. Đèn trong xe tắt.
- Chìa khóa đâu, Dumbo?. Tên lái bực dọc hỏi. Tôi cảm nhận một chuyển động bên cạnh tôi khi chủ nhân của giọng nói trầm khàn ngồi xuống. Lờ mờ, tôi có thể nhận ra nửa người phía trên của tay lái xe, kẻ bây giờ đang xoay về phía sau xe.
Tôi lắc lắc chùm chìa khóa và ném về phía trước, sao cho nó lăn vào một góc nào đó trên tấm thảm mềm. Tên lái xe thở hộc lên vì cáu.
- Khốn nạn, Dumbo, mày giở trò gì thế hả! – Gã cúi về phía trước và bắt đầu giơ tay sờ soạng nền xe.
Đó là dấu hiệu bắt đầu của tôi.
Tôi đã lại đút khẩu Smith & Wesson cùng những khẩu súng khác vào người. Ở trong không gian chật hẹp này, tôi phải trông cậy vào đôi bàn tay mình. Cũng như trông cậy vào lý trí và trí tượng tượng.
Tôi biết rất chính xác gã trai với cái giọng khàn khàn ngồi ở đâu. Sau này tôi mới biết gã tên là Lou Stearns và mang bí danh Blinky vì có hai con mắt rất sáng màu. Tôi chém cả hay bàn tay lên vai gã và húc gã ngả nghiêng ra khỏi ghế. Yếu tố bất ngờ thành công. Gã đàn ông đập người vào cửa sau. Tôi giật hai tay gã ra sau và thúc đầu gối vào xương bả vai gã. Trong tư thế bị ép sát mặt xuống nền xe, gã không chuyển động được nữa, nếu không muốn xương cánh tay bị trật khớp.
- Blinky! Dumbo! Có chuyện gì thế? – Tên lái thét lên.
Blinky ngạc nhiên lục khục trong cổ khi tôi giật áo veston của hắn xuống và rút khẩu súng lục ra khỏi cạp quần. Sau đó tôi đẩy tên gangster về phía trước, về chỗ mà tên lái xe đang nửa ngồi nửa quỳ tên nền xe. Tên lái giật người lên cao, đập đầu vào đâu đó.
Tôi quật cho hai gã đập vào nhau. Một vụ hỗn độn hoàn hảo nổ ra. Cả hai đứa đều không biết chuyện gì đang xảy ra với chúng, và đầu không biết rằng trên xe đang có mặt khách lạ. Tôi bẻ quặp cánh tay trái của Blinky ra phía sau. Với một cử chỉ thành thạo, tôi tháo còng ra khỏi dây lưng - giờ tôi rất mừng là đã có mang theo một cặp còng tay trong người.
Tôi để một nửa số 8 dập lại quanh cổ tay trái của Blinky, bẻ cánh tay đdó ra và thúc nó xuyên qua vành tay lái. Thế rồi tôi tóm lấy ở phía bên kia bàn tay đang quơ quơ của gã lái và sập nửa số 8 còn lại quanh cổ bàn tay đó. Thêm một động tác nữa, tôi đã tước xong súng của gã.
- Vô địch tất cả cân hạng, - tôi nói khi bật đèn trong xe lên, đứng quan sát bãi chiến trường và cuối cùng, quay sang anh bạn tôi. Phil ngay lập tức càu nhàu.
- Mình đã tưởng cậu chẳng làm cái gì hết, - anh cằn nhằn. – Nào, nhanh lên chứ! Đi tìm chìa khóa cho mấy cài còng khốn kiếp này! Chắc một trong ba đứa kia phải có!
Tôi bắt đầu đi tìm. Đây là chuyện chẳng mấy dễ dàng ở cái đống hỗn độn những tay cùng chân ngổn ngang trong xe. Bởi bọn gangster dĩ nhiên chẳng thấy lý do gì để phải cộng tác. Ngay cả khi tôi đã nói cho chúng biết tôi là ai và Phil là ai, người đã bị chúng đánh úp một cách thâm hiểm.
Vừa tìm chìa khóa tôi vừa nói với bạn mình: - Nếu người ta muốn đương đầu với ba đối thủ đồng thời, người ta phải sử dụng đến lý trí và phải chờ thời điểm thích hợp. A, cái gì đây! - Cuối cùng tôi đã tìm thấy một chiếc chìa khóa nho nhỏ trong túi áo của Blinky Lou Stearns.
Một vài tích tắc sau chân tay Phil đã được tự do. Tôi trao cho Phil khẩu súng của anh và yêu cầu anh canh chừng bọn con trai cho tới khi tôi quay trở lại.
Tôi đi về xe Jaguar, bật máy điện đàm yêu cầu tăng viện hai xe tuần tiễu và một xe chở phạm nhân, rồi cùng Pamela quay trở lại chiếc Dodge. Tôi mở cánh cửa sau xe và bật cho ngọn đèn phía sau cháy lên.
Bọn gangster nhấp nháy mắt. Tôi giang tay choàng lấy bờ vai Pamela.
- Cô có quen những người đàn ông này không? – Tôi hỏi. Cô gật đầu, cố nén run rẩy. – Có phải họ đã ép cô…
Cô không để tôi nói hết câu. Cô hối hả gật đầu rồi xoay người đi.
Ngay sau đó, các cảnh sát viên phóng tới nơi.
Tôi yêu cầu họ đưa ba gã trai vào nhà ngục điều tra liên bang.
- Tôi sẽ đi theo và thực hiện các thủ tục cần thiết, - tôi nói.
- Chúng tôi phải có một lý do nào đó để ghi báo cáo, - một trong những cảnh sát viên nói, trong khi các bạn đồng nghiệp của anh lôi ba gã trai ra khỏi chiếc Dodge và điều khiển cho một xe bịt song sắt lùi lại gần.
- A, anh cứ viết: hăm dọa, giam giữ người trái phép, hãm hiếp, trợ giúp giết người và tìm cách giết một thanh tra.
Viên cảnh sát sững sờ nhìn tôi. Rồi anh khẽ cười. - Thế mới gọi là lý do cụ thể chứ! Tôi hy vọng anh có thể chứng minh được một nửa những gì mà anh vừa nói.
Tôi cũng hy vọng thế. Nhưng tôi đã tước vũ khí của bọn gangster. Các chuyên gia đạn đạo rồi sẽ chứng minh được rằng ít nhất là một trong những khẩu súng này đã được dùng để găm đạn vào xe tôi.
Tương lai của ba gã lưu manh thật sự không lấy làm gì tươi sáng.
•
• •
Tôi để Phil đi về nhà. Anh đã làm quá nhiều việc cho tôi. Tôi lại đưa Pamela lên chiếc Jaguar của mình. Thế rồi tôi nói chuyện một hồi qua máy với Steve Dillaggio, người chịu trách nhiệm chỉ huy ca trực đêm nay. Steve lật giở trong nhiều cuốn sổ địa chỉ khác nhau, rồi gọi điện đi khắp nơi cho tới khi anh tìm được một nơi ở phù hợp cho Pamela.
- Cha Linbrook và các nữ tu sĩ của nhờ thờ Đức Bà có duy trì một điểm tiếp nhận các cô gái trẻ trong nhà thờ St. Benedict. Cậu có biết nó ở đâu không?
- Đại Lộ Số Tám? Đoạn nào?
- Giữa Phố Số 16 và Số 17. Chúc may mắn!
Điểm tiếp nhận quả thật đang mở cửa. Vị cha đạo và các cô sơ ân cần tiếp đón cô gái. Tôi yêu cầu họ ghi tên giả cho Pamela vào danh sách và trông chừng cô thật tốt, chúng tôi còn cần tới cô. Cần cô cho một phiên tòa. Và cha cô chắc chắn cũng sẽ muốn gặp lại con gái.
Pamela mệt muốn chết. Nhưng cô gái cũng có phần nhẹ nhõm vì cuối cùng đã đạt được bước nhảy ra khỏi vũng nước ngầm.
Chỉ là một trong biết bao nhiêu ngàn cô gái?
Cuối cùng, tôi lái xe sang khu Park Row, tiến hành cuộc chiến tranh giấy tờ cho ba tên gangster đã được nộp vào đây. Sĩ quan trực tuyên bố giờ này không thể nghĩ đến chuyện hỏi cung. Cả ba gã trai đã đòi gặp luật sư. Và vì trời chưa sáng, nên tôi không thể tìm cách hỏi han bất cứ điều gì. Vậy là tôi cũng đi xe về nhà. Đúng 3 giờ 15 phút thì tôi thả được người xuống giường và thiếp đi ngay lập tức. Anh đã làm hỏng việc, Kellin, - Ủy viên công tố quận Hubert E. Greenfield gằn giọng nói. - Chỉ một mình anh, Kellin!
Greenfield đang đứng bên cửa sổ mé phải trong phòng làm việc của ông ta và nhìn xuống Phố Trung Tâm cũng như nhà tù thành phố phía dưới.
Mike Kellin có cảm giác mình là một chàng tân binh đang bị một bố hạ sĩ phụ trách thao trường cạo đầu. Anh đứng đờ ra trước bàn viết, ánh mắt hướng trân trân vào ngọn cờ nước Mỹ cắm trong một chiếc hộp cao, đứng giữa hai khuôn cửa sổ.
Kellin không thể né tránh việc phải báo cáo lại cho ủy viên công tố biết những gì đã xảy ra vào buổi tối hôm trước, và nó đã xảy ra sao, cũng như aingoài ông Elmar Rank đã treo cổ và tay Pat Labonte đã bị bắn chết – còn đóng một vai trò trong những sự kiện đó. Anh bắt buộc phải báo cáo là anh đã yêu cầu một sĩ quan đặc nhiệm đi cùng với mình, người anh khai là bạn anh. Và anh đã bắt buộc phải thú nhận rằng còn có một sĩ quan đặc nhiệm thứ hai nữa, cụ thể là Phil Decker, đã tham gia vào vụ việc.
- Đó là một trò rác rưởi khổng lồ, Kellin! – Greenfield xoay người về và bước nhanh bốn bước chân từ cửa sổ đến bên bàn làm việc với những cử chỉ cứng ngắt.
Tới đó ông ta đứng lại và chắp hai tay ra sau lưng, xoi mói nhìn Kellin bằng hai con mắt xám trong.
•
• •
Sáng hôm nay Kellin đã dán một miếng băng nhỏ hơn lên trên vết thương và quấn một dãy khăn lụa quanh cần cổ không cài cúc áo. Qua đó, miếng băng dính hầu như không còn gây chú ý.
Greenfield là một người đàn ông cao mảnh với dáng dấp dứt khoát cứng quèo của một người lính chuyên nghiệp. Mái tóc đã bắt đầu bạc được cắt ngắn. Khuôn cằm nhọn và má luôn được cạo nhẵn râu. Kể từ mùa hè vừa qua, ông ta để một hàng ria mép mảnh, khiến cho gương mặt nghiêm nghị thay đổi hẳn.
- Phía đối diện thêm một lần nữa lại được thông báo rất tốt, ít nhất là tốt hơn tôi tưởng, nhờ vào sự can thiệp quá vội vàng của anh từ chiều hôm qua. Nếu tôi mà nhìn thấy biên bản điện thoại đó, Kellin, chắc chắn tôi đã thực hiện những biện pháp khác.
- Biện pháp nào kia, thưa ngài? – Kellin hỏi.
- Biện pháp nào hả? Anh còn hỏi nữa hả? Tôi sẽ ngay lập tức cho bắt giam Rank tại nơi làm việc và đặt ông ta trước sự lựa chọn, hoặc cộng tar1c với chúng ta hoặc bị đuổi việc và mất đi tất cả những quyền lợi mà có thể ông ta sẽ được hưởng! Mà ngoài ra tôi còn đẩy được ông ta ra tòa nữa, cũng như sẽ thu nhập được đầy đủ bằng chứng! Kellin, ở đây có trò thối tha nào đó! Bọn phía bên kia lại thêm một lần nữa được cảnh báo! Nếu tôi không tin tưởng anh, anh cũng biết tôi sẽ phải làm gì? Không hả? Tôi sẽ nghĩ là anh đánh bài lừa, khốn nạn!
Greenfield cúi người về phía trước và chống nắm đấm lên mặt bàn.
Kellin cảm nhận rõ là mặt anh đang mất máu.
- Thưa ngài, tôi đề nghị điều tra chống lại tôi!
- Đó là chuyện thừa, Kellin! Anh biết rất chính xác là phòng tổ chức đã điều tra rồi. Chính anh nghi tôi…
- Thưa ngài, tôi….
- Anh im đi! Đâu có phải là chuyện tình cờ khi anh rút cái biên bản điện thoại đó ra khỏi hộp thư đến trong khi tôi vắng mặt và Oliphant cũng ra ngoài! Anh thú nhận đi!
- Tôi không muốn để những kẻ không phận sự biết tới nó.
- Tôi đâu phải là kẻ không phận sự. Ngoài ra, anh đã không gọi điện cho tôi…
- Tôi cho đây là chuyện không quan trọng, chỉ là kiểm tra theo lệ thường. Rank vốn được xếp vào một vị trí không quan trọng.
- Kiệm tra theo lệ thường mà anh đưa cả cảnh sát liên bang vào cuộc hả? Kellin, tôi cứ nghĩ anh sẽ đưa ra được một lời bào chữa thông minh hơn cơ đấy. Thôi anh ngồi xuống đi! Giờ anh định làm gì!
- Nếu tôi không được ngài tin tưởng nữa, tôi muốn đề nghị được đưa trở lại lực lượng cảnh sát thành phố, thưa ngài, - Kellin gượng nói.
- Từ chối, Kellin. Tôi không thể thiếu anh ở đây, cái đó anh biết.
- Nhưng nếu tôi không được tự do hành động…
- Anh đã được tự do quá nhiều, anh bạn thân mến. Từ nay trở đi chúng ta phải để ý nhiều hơn đến tinh thần đồng đội, một truyền thống xưa cũ trong hàng ngũ cảnh sát. Ta để FBI đứng ngoài. Nếu chúng ta cần đến các bạn đồng nghiệp đó, chúng ta sẽ chính thức yêu cầu họ trợ giúp. Ta hiểu nhau chưa?
- Dạ rồi, thưa ngài.
- Vậy thì anh đề nghị điều gì, Kellin?
- Tôi muốn kiểm tra tên Pat Labonte. Có một kẻ nào đó đã thúc gã đi giết Rank. Rất có thể tôi sẽ tìm ra được mối liên quan.
- Việc kiểm tra tên này là phần việc của ban trọng án. Mó tay vào chuyện đó anh chỉ phí thời gian thôi. Ngay cả khi anh hoặc ban trọng án tiến được vài bước thì muộn nhất là tới khi gặp một tên gangster khác, kẻ câm như hến, là các anh sẽ bị tắc đường.
Ủy viên công tố cầm lên một tập mẫu giấy in sẵn. Vừa làm điều đó ông ta vừa nhìn thật sâu vào mắt Kellin.
- Để anh không hiểu nhầm tôi, Kellin – tôi không cấm anh điều tra dấu vết của Labonte. Nhưng tôi yêu cầu anh không sao lãng công việc quan trọng của anh.
- Đây, - Greenfield vung vảy tập giấy in sẵn, - đây là biên bản điện thoại từ chiều hôm qua tới sáng ngày hôm nay. Anh hãy cùng nhân viên của mình soát lại tất cả! Rất có thể ẩn đằng sau một vài câu văn vớ vẩn nào đó là một sự trao đổi thông tin then chốt.
Ủy viên công tố lật qua từng tờ biên bản - gạch dưới ở đây một câu, ở kia một câu, ghi vào trang này một câu hỏi, đánh một dấu hỏi bên cạnh một cái tên ở trang khác. Một tờ giấy được ông rút ra và thờ ơ gạt sang bên.
- Cái này không còn quan trọng nữa. Đây, Kellin, anh vào việc đi! Và tôi nói cho anh nghe lần cuối - nếu anh còn làm hỏng việc một lần nữa như tối hôm qua hoặc sản xuất thêm một quả bóng giả nữa, thì anh có thể xuống dưới kia trông bãi đậu xe! Đã tới lúc tôi muốn nhìn thấy kết quả!
Kellin cầm sấp biên bản và đứng dậy.
- Còn điều này nữa, Kellin. Hãy lo việc ngưng canh chừng điện thoại của Rank! Bộ phận của tôi phải chi quá nhiều khoản rồi!
Không nói một lời, Kellin rời văn phòng của ủy viên công tố. Mệnh lệnh cuối cùng là hoàn toàn không quan trọng. Vì thế mà anh cũng ngay lập tức quên phắt nó đi.
•
• •
Rồi sẽ tới một lúc nào đó, - người đứng đầu lực lượng FBI New York là John D. High nói, - tôi chỉ còn được biết về những cú phiêu lưu của các sĩ quan đặc nhiệm dưới quyền mình thông qua mặt báo. Hay là qua đài truyền hình, thứ còn tồi tệ hơn nữa.
- Thưa ngài, dĩ nhiên tôi đã viết một bản báo cáo!
John D. High ném một cái nhìn đầy ý nghĩa xuống mặt đồng hồ. – Bây giờ là 10 giờ 15 phút. Bản báo cáo đâu?
- Thưa ngài, ba giờ sáng tôi mới về tới nhà. Ngoài ra sáng nay tôi vừa lượn qua Park Row để làm đơn xin lệnh bắt giam.
- Trong thời gian đó thì đã có một công tố ủy viên rất giận dữ đưa ra một tối hậu thư qua điện thoại, ép tôi ra lệnh cho nhân viên chỉ được phép quan tâm đến những công việc của liên bang. Thứ mà tôi đang làm đây.
- Tôi hiểu ạ, thưa ngài, - tôi nói.
- Vâng, - Phil đáp đơn giản.
- Và giờ thì tôi rất muốn nghe mọi chuyện từ phía các anh.
Tôi gắng sức cung cấp một bản báo cáo theo hướng nhìn của mình, một bản báo cáo rõ ràng và thâu tóm tất cả sự kiện, không hề dành chỗ cho những lời phỏng đoán.
- Jerry, anh có tin chắc là anh không bị Kellin lợi dụng cho một trò chơi?
- Cho trò chơi nào kia?
Có vẻ như trong văn phòng ủy viên công tố đang có một lỗ rò rỉ. Thế nếu Kellin gánh hai vai hai gánh khác nhau và áp dụng chiến thuật chạy trốn về phía trước thì sao?
- Thì chắc chắn nó phải là một trò chơi hết sức phức tạp. Có phải sếp của anh ta ám chỉ như vậy?
- Không. Bản thân tôi đã đưa ra một số câu hỏi tới phía ông ta. Nếu tôi nghe không lầm thì Kellin có một lối sống tương đối hoang phí.
- Anh ấy không có vợ.
- Anh ấy đã có vợ hai lần rồi. Tôi không phải lạ lùng gì với cuộc đời này, Jerry. Hai người vợ đã ly dị tốn không ít tiền. Chẳng phải bao giờ cũng tốn, đồng ý là như thế, nhưng đa phần sẽ tốn.
- Phòng tổ chức chắc chắn đã cho kiểm tra anh ấy rồi.
- Họ có kiểm tra. Nhưng anh đừng quên, anh ta là chuyên gia về các vụ án kinh tế! Anh ta là người biết cách rửa tiền hoặc giấu tiền tốt nhất.
- Tôi đã có mặt khi anh ấy bị bắn. Có thể nói là anh ấy thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.
- Nhưng bản thân anh cũng đã nói, anh bạn Kellin của anh đã sử dụng súng rất nhanh. Như thể anh ấy biết rất chính xác là chuyện gì sẽ xảy ra.
Tôi thoắt nín thở. Cả tôi cũng đã để ý đến vận tốc bắn của Kellin. Quả thật có phần đáng chú ý.
- Nếu tôi suy ngẫm về cái chết của Elmar Rank thì tôi thấy có vẻ như động cơ tự tử là tương đối rõ ràng và có lý, - sếp nói tiếp.
- Giờ tôi không tin đó là tự tử nữa, - tôi nói và nhìn Phil đòi hỏi. Bởi anh là người nắm yếu tố bất ngờ của buổi sáng hôm nay.
-Trước đây một nửa tiếng đồng hồ, các bạn đồng nghiệp ở khu Queens đã gọi cho tôi, thưa ngài, - Phil lên tiếng. - Người ta đã phân tích được những mảnh sợi tìm thấy trong các kẽ móng tay thuộc bàn tay trái của ông Rank. Đó là những sợi len màu xanh dương, trong khi vải phủ ghế xe ôtô của Rank được dệt bằng sợi ni lông. Trong toàn bộ ngôi nhà đó không hề tìm thấy một mảnh sợi len màu xanh dương có cùng cấu trúc.
Phil ngừng lại một đoạn ngắn, để điều vừa nói gây hiệu ứng của nó. Sau đó anh mới tiếp tục: - Trong sáng hôm nay sẽ có một số thanh tra đến lấy mẫu của tất cả các loại vải màu xanh dương tại nơi làm việc của ông Rank cùng khu vực bao quanh đó. Có lẽ kết quả mổ xẻ cho kết luận chung cuộc. Ý tôi muốn nói, chúng ta nên lấy xuất phát điểm là Rank đã bị giết. Sát thủ biết là Rank sống một mình trong ngôi nhà đó. Vậy là gã có thời gian để tìm đường vào mà không để lại dấu vết.
Những vết nhăn trên gương mặt của John D. High hằng sâu hơn. Rõ ràng là sếp đang nghĩ đến hậu quả của những dữ liệu mà Phil vừa báo cáo.
- Nếu điều đó đúng, thì vụ tấn công ở khách sạn Atlantis nhắm vào Kellin chứ không phải nhắm tới Rank. Vậy thì cú điện thoại được ghi lại nhằm mục đích đưa Kellin vào bẫy.
- Cho việc này, chúng phải dẹp ông Rank ra khỏi đường trước đã, - Phil nói.
- Hơn thế nữa, - tôi bổ sung. - Bằng cách dàn xếp cái chết của Rank như một vụ tự tử, chúng buộc người ta hiểu cái chết của Kellin là một sự nhầm lẫn.
Sếp trầm ngâm gật đầu. - Nếu Kellin bị giết, thì dù chúng ta có đứng trước một vụ giết cảnh sát chăng nữa, nhưng là một vụ giết lầm. Bởi cứ theo biên bản cú điện thoại kia, sau đó người ta sẽ hiểu là vụ đánh đó nhằm vào một nạn nhân khác. Nếu cứ thẳng thắn ra mặt giết Kellin, vụ tấn công sẽ cho mọi người biết là có một kẻ nào đó cảm thấy khó chịu với anh ấy. Mà người ta thì muốn tránh điều này bằng mọi giá.
- Chính xác, - tôi khẳng định. – Vì thế mà đám tòng phạm của Labonte đã ngay lập tức gắng sức tấn công lần thứ hai. Chừng nào cái chết của Rank còn chưa được biết tới thì cái chết của Kellin vẫn còn có thể được phủ dưới cái nhãn Rank.
- Luôn với điều kiện rằng đây không phải là cuộc chơi của anh ta, - sếp nhắc nhở. – Thôi được, anh phải báo cho Kellin biết. Nhưng đừng ngáng đường Greenfield! Con người ấy quả thật có thể trở thành rất khó chịu.
- Chúng tôi chỉ quan tâm đến những việc của liên bang, - tôi khẳng định. John D. High nhìn tôi với nét mặt điềm đạm. – Hãy chú ý đến ba tên lưu manh anh đã cho bắt giam đêm qua! Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu đây là một băng gangster thực thụ. Hãy phát hiện những mối quan hệ của chúng! Hãy quan tâm đến những mối giao tiếp xuyên tiểu bang!
- Vâng, vâng, thưa sếp, - tôi nói, hơi có phần ngạc nhiên. Mới trước đây vài giờ đồng hồ, tôi còn bị huýt còi khiển trách vì tội quan tâm đến những việc không liên quan đến mình. Vậy mà bây giờ sếp lại giao cho chúng tôi chính những công việc đó.
Ra đến ngoài hành lang , Phil nói: - Này, cậu nghe rõ rồi đấy nhé - đừng chạm tay vào Greenfield!
- Ai nói thế?
Phil há mồm hớp hơi. – Này cậu! Cậu điếc hả? Sếp đã nói rằng…
- Mình đã nghe lời sếp rất rõ. Chúng ta không nên ngáng đường Greenfield và chỉ nên quan tâm đến những việc của liên bang. Băng đảng tội phạm có tổ chức luôn luôn là việc của liên bang. Nó là chuyện của liên bang nếu bọn gangster xứ Las Vegas làm hại thành phố New York nhiều triệu đô-la. Nếu chúng nó giết người ở đây. Nếu chúng nó tìm cách ám sát một thanh tra và xỏ mũi một ủy viên công tố.
Phil đứng phắt lại. - Một ủy viên công tố? Trời ạ, cậu có quá lời không!
- Nếu sự việc xoay quanh những món tiền lớn như trong những vụ mà Kellin đang điều tra thì bọn lưu manh đó chỉ bắt tay với những quý ngài sang trọng hạng nhất, cậu cứ yên tâm như thế đi! Và nếu bây giờ chúng mang ý định giết ai đó hoặc tắt công- tắc một ai đó, chắc chắn chúng sẽ để ý nhiều hơn đến chất lượng công việc. Thời kỳ của những cú ra tay tình cờ và tạm bợ qua rồi.
- Thế cậu đề nghị điều gì?
- Đầu tiên là những việc nho nhỏ, tỉ mẩn. Cậu đi sang phía Queens, xem kết quả trong vụ ông Rank. Mình đoán rằng giờ thì các bạn đồng nghiệp đã rà soát xong toàn bộ ngôi nhà và khuôn viên thêm một lần nữa. Mình muốn chắc chắn là chúng ta không đuổi theo một bóng ma.
- Mình sẽ mang về cho cậu tên của kẻ sát nhân, - Phil cười đùa.
- Cũng để cho mình một chút việc chứ! Rank có hai đứa con trai. Cậu biết gì về họ? Ngoài những thứ mà mình đã kể cho cậu nghe.
- Không biết nhiều. Họ tên là Desmond và Robert, 21 và 23 tuổi, một người học luật, người kia học sinh vật. Nhưng đừng hỏi mình ai học ngành nào! Cảnh sát khu Queens đã báo ngay cho họ trong đêm hôm đó. Mình đoán là bây giờ họ đã về đến nhà rồi.
- Hãy nói chuyện với họ! Rất có thể họ biết điều gì. Cũng có thể biết ma không ngờ tới. Và cũng có thể họ đang gặp nguy hiểm.
- Cậu thì bao giờ cũng tính đến khả năng xấu nhất, - Phil nói.
- Mình không muốn bỏ lỡ một yếu tố nào, chừng nào mình còn chưa vào cuộc hẳn.
- Thế trong thời gian đó cậu làm gì?
- Mình sẽ nói chuyện với ba thằng trẻ con hôm qua đánh úp cậu.
- Chúng nó làm được trò đó chỉ bởi vì mình tập trung quá sức vào cậu thôi. Mình đâu có thể tưởng tượng là chúng nó lại nhắm vào mình, chỉ bởi vì mình đã hỏi tên cái thằng Pat Labonte kia. Suy cho cùng thì chính cậu mới là người cuỗm đi của chúng nó một cô gái điếm.
- Pamela bây giờ không phải là gái điếm nữa, Phil, - tôi thân thiện sửa lại.
- Không, dĩ nhiên là không. Xin lỗi nghe!
- Được rồi.