watch sexy videos at nza-vids!
Truyện CUỘC TÌNH CUỐI CỦA CHÀNG CẢNH SÁT-Chương 1 - tác giả Jerry Cotton Jerry Cotton

Jerry Cotton

Chương 1

Tác giả: Jerry Cotton

Mechiael Kellin bước ra từ phòng tắm. Trong khi vừa đưa tay cài cúc áo sơ mi vừa với lấy bao súng P38 từ chiếc bàn nhỏ kê nơi đầu giường, anh thấy rõ đôi mắt xinh đẹp của Cora thoắt biến thành trầm ngâm và băn khoăn, theo dõi từng chuyển động của anh. Cô vẫn nằm trên giường, dưới tấm chăn mỏng hiện rõ từng đường nét của cơ thể hút hồn.
- Anh khéo chiều con gái ghê, - cuối cùng cô nói. Nghe giọng như có chút ngạc nhiên, như thể cô không hề chờ mong điều đó.
Anh xoay lại và nhìn xuống mặt cô. Qua những kẻ hở của mành mành có một vệt nắng phủ xuống bờ vai trần. Trời đất, một người con gái tuyệt vời làm sao, anh nồng nhiệt nghĩ thầm. Anh quen cô đã từ ba tuần nay, nhưng tới hôm qua họ mới chung đêm với nhau.
Anh đã tưởng mình không bao giờ còn say mê được thế nữa. Suy cho cùng, anh đã bước vào tuổi 41 trước đây một tháng. Đằng sau lưng anh là hai quan hệ vợ chồng đổ vỡ, không biết bao nhiêu những cuộc tình, những cuộc phiêu lưu, những mối quan hệ hời hợt.
- Cứ mỗi lần nhìn em là trong đầu anh lại nảy ý định ngu ngốc, - anh nói.
- Lại nữa ư? – Cora hỏi. Cô ườn oài và mỉm cười khêu gợi.
- Không phải thứ em tưởng đâu, - anh nói nhanh.
- Thế anh định nghĩa một suy nghĩ ngu ngốc như thế nào? - Cô hỏi.
- Anh nghĩ đến một ngôi nhà thân quen, với ngọn lửa cháy trong lò sưởi, nơi em chào chồng em với một nụ hôn và một cốc rượu.
- Và với bao nhiêu năm tháng hạnh phúc cùng giấy chứng nhận hôn thú và nhẫn cưới, - cô châm biếm thêm vào. Hai con mắt xanh lục lóe sáng.
Anh bối rối cười nhẹ rồi đeo bao súng vào thắt lưng. Anh đẩy nó ra phía sau lưng một chút, để khẩu súng không nổi rõ lên dưới tà áo veston.
Cora chỉ về phía khẩu súng. - Anh đã dùng nó lần nào chưa? - Cô hỏi. - Ý em muốn nói - đã bao giờ anh dùng nó bắn vào một người nào chưa?
- Em đánh trống lảng, - anh nhận định.
- Em hỏi nghiêm chỉnh đấy. Em quan tâm đến chuyện đó.
- Chưa, chưa bao giờ anh bắn vào ai cả. Và anh hy vọng anh không bị ép phải làm điều đó.
Một nếp nhăn rất sâu hằn phía chân mũi anh. Tối hôm nay có thể sẽ đến bước đó. Thật đột ngột, cảm giác sợ hãi lại nội dậy. Nó siết bóp tim anh. Trong đêm qua anh đã quên được nỗi sợ. Giờ nó lại hiện hữu.
Anh lắc đầu xua đi những suy nghĩ u ám khi khoác áo veston lên người rồi cúi xuống với Cora.
- Anh không nhìn được máu, - anh nhẹ nhàng nói. - Hẹn gặp lại em sau, bé yêu! Giờ anh đã vui khi nghĩ tới lúc gặp lại em.
Cô duỗi dài hai cánh tay về phía anh. Và vòng ôm lấy cổ anh. Anh hôn lên trán cô, rồi lên miệng cô. Rồi anh giơ tay gạt làn chăn mỏng ra khỏi cơ thể cô và chầm chậm vuốt cả hai tay lên làn da nóng rẫy của cô, trước khi anh dứt mình đứng phắt dậy và bước đi luôn, không nhìn lại thêm lần nữa, bởi e ngại cái nhìn đó có thể lại khiến anh thành yếu đuối. Anh cần một cái đầu tỉnh táo, và anh không thể né tránh, không thể tỏ ra hèn hạ, nếu không muốn làm hỏng thành quả của bao nhiêu tháng trời lao động.
Anh không còn nghĩ đến chủ đề lấy vợ nữa.
Mike Kellin không phải dạng đàn ông thích ràng buộc. Cora Dixon cũng thế - dù là với những lý do hoàn toàn khác.

• •

Đến cửa phòng làm việc, tôi va phải Phil. Tôi bước đến, còn anh đã lại muốn bước về. Người bạn và cũng là đồng nghiệp của tôi đang mặc bành-tô, chiếc bành-tô mà anh mới mua được có vài ngày nay. Áo màu xanh thẫm, chiết eo nhẹ, một chiếc áo thật sự sang trọng, thật sự không thể tưởng tượng được là giá của nó chỉ có 38 đô-la. Đúng là một cơ may chỉ có tại phố Orchard, nơi những nhà buôn người Do Thái có thể bán cho ta mọi thứ hàng đặc biệt trên đời, những món hàng không còn được bán chạy ở nơi khác.
- Chào cậu,- tôi nói. - Nhìn như thể cậu đang vội thì phải?. - Trong những ngày qua, hai chúng tôi theo đuổi hai vụ án khác nhau, và tôi sực nhớ ra rằng đã hay ngày nay tôi chưa gặp anh.
- Mình phải sang khu Park Row, - Phil nói.
Trong khu Park Row là nhà tù điều tra liên bang.
- Vậy là được việc rồi hả? - Tôi hỏi. - Cậu tóm được Larry Walsh?
- Tóm được rồi, - Phil khẳng định. - Nếu luật sư của gã không giở trò bẩn, gã sẽ ngồi trong đó cho tới ngày xét xử.
- Chúc mừng! - tôi nói. Larry Walsh là một tay lừa đảo cưới xin xuyên tiểu bang, kẻ đã làm tan nát biết bao trái tim phụ nữ và gây nên những tổn thất vật chất nặng nề. - Chú ý đừng để cho tay luật sư qua mặt! - Tôi nói thêm.
- Jerry, mình phải vôi rồi. mà này, có người vừa gọi đến cho cậu. Một thanh tra Kelly hay là Keller gì đó. Hay là Kellin. Chào nhé.
- Cậu có ghi số lại không?
- Anh ta sẽ gọi lại lần nữa, - Phil hối hả cất bước.
Kelly, Keller, Keller, thanh tra. Lờ mờ, tôi nhớ đến một chàng trai kiêu ngạo đã có lần cùng tôi điều tra một vụ lừa đảo séc tầm cỡ cách đây đã nhiều năm. Mike Kellin của Sở Cảnh Sát, đúng thế, chắc là anh ấy rồi. Anh ấy trực thuộc bộ phận tội phạm kinh tế.
Tôi nhìn xuống đồng hồ. 11 giờ kém 15. Đúng 12 giờ tôi có hẹn. Mà là hẹn với công tố viên liên bang bên tòa liên bang. Một cuộc hẹn không thể lỡ.
Trong sổ điện thoại của tôi quả thật vẫn còn số của Michael Kellin. Tôi giơ tay nhấc máy và chọn số. Ở phía bên kia, tại Sở Cảnh sát, có một giọng đàn ông vang lên.
- Văn phòng các thanh tra, hạ sĩ Leonard xin nghe.
- Tôi là Cotton, FBI. Tôi có thể nói chuyện với Mike Kellin chứ?
- Ông Kellin hiện không còn ở bộ phận chúng tôi nữa, thưa ngài, ông ấy làm việc ở văn phòng ủy viên công tố quận. Ông chờ đã, tôi có thể tìm hộ ông số điện thoại mới.
Mike Kellin vậy là đã thăng tiến. Thanh tra trong văn phòng ủy viên công tố quận. Công việc này thích hợp với anh ấy. Tôi ghi số điện thoại, cám ơn, dập máy rồi gọi tiếp.
lần này tôi gặp một giọng phụ nữ. Câu xưng danh nghe khô khan, hầu như bẳn gắt. - Oliphant, phòng chờ của ủy viên công tố. Quý vị cần gì?
- Tôi là Cotton. Tôi muốn nói chuyện với ông Kellin.
- Về chuyện gì?
- Cái đó tôi không biết. Anh ấy đã gọi cho tôi nhưng không gặp, giờ tôi gọi trở lại. Anh ấy muốn nói chuyện với tôi.
- Ông Kellin hiện không có ở đây. Tôi có thể ghi số của ông không?
- Anh ấy biết rồi, thưa quí bà.
- Tôi là bà Oliphant, ông Cotton.
- Vâng, thưa bà Oliphant. Cám ơn vì cuộc nói chuyện.
Lắc đầu, tôi đặt máy.Về đoạn cuối, giọng của quí bà đầu bên ấy nghe chói chang rít réo đến phát sợ. Tôi đã muốn báo cho trung tâm biết là tôi đi ăn trưa thì chuông điện thoại reo.
- Thanh tra Kellin đây, - giọng nói đầu dây bên kia vang lên. – Anh còn nhớ tôi chứ, Mr. Cotton?
- Tôi nhớ, - tôi dè dặt trả lời. Lúc đó tôi quả thật không có một lý do rõ ràng cho sự lạnh lùng của mình. - Cũng đã lâu lắm rồi, Mr.Kellin, - rồi tôi thêm vào với giọng ấm áp hơn chút đỉnh.
- Ba năm rồi, tôi tin vậy. Ngày đó anh gọi tôi là Mike.
- Dĩ nhiên, Mike.
Anh chần chừ một chút, rồi nói: - Bây giờ tôi làm việc trong văn phòng ủy viên công tố quận. Ông Greenfield đã rút tôi sang bên này.
- Tôi biết, - tôi nói.
- Jerry, tôi gặp chuyện.... nhưng mà cuộc nói chuyện này... ừ thì, không nên coi là chuyện chính thức. Không hiểu sao tôi cứ hy vọng anh giúp được tôi. Tôi chỉ không biết nên trình bày như thế nào.
- Tốt nhất là bắt đầu từ đầu, - tôi nói. - Nếu nó không quá dài.
- Nếu anh đồng ý, chúng ta gặp nhau bên bữa ăn trưa.
- Anh có thể xuống khu Downtown không? Khoảng một giờ trưa ở quán Bernie, phố Warren? Anh biết quán Bernie chứ?
- Tôi đã làm việc dưới khu đó 16 năm liền, anh đừng quên. Thế nhé, một giờ. Cám ơn rất nhiều, Jerry.

• •

Mike Kellin đẩy tới đẩy lui chiếc cốc đựng nước.
- Tôi làm việc cho Hubert Greenfield từ hai năm nay. Suốt thời gian đó tôi thật sự chỉ theo đuổi duy nhất một việc. Văn phòng Greenfield là đầu mối của tất cả các vụ án kinh tế có liên quan đến các hợp đồng xây dựng trong thành phố New York. Bộ phận của chúng tôi quá nhỏ, Jerry. Trong thành phố này có những nhóm người đã yên ổn hút tiền công từ nhiều năm nay. Hàng triệu bạc, - và hết mực an toàn. Dù là những tòa nhà chung cư dành cho người thu nhập thấp ở khu Lower Eastside. Dù là trường học hoặc những công trình xây dựng mới ở khu Harlem hoặc Bronx, dù là việc sửa chữa một nhà ga điện ngầm hoặc xây dựng mới một ngã tư xa lộ ở đại lộ Major Deegan, một công trình nặng 40 triệu đô-la.
- Có phải ngã tư Major Deegan là nơi mới xảy ra cái vụ tai nạn đó? Việc đó xảy ra bao giờ nhỉ? Trước đây hai tuần?
- Đã bốn tuần rồi. Đoạn đường dẫn từ cầu George Washington lên xa lộ bị sụp. Bốn người chết. Thiệt hại vật chất ít nhất 15 triệu đô-la, nếu mà một thiệt hại loại đó có thể được nêu ra bằng con số. Nó được xây dựng bằng vật liệu chất lượng kém. Những cột bê-tông còn đứng lại và những phần đường đã được làm sẵn, tất cả đều phải bị đập bỏ. Không còn khả năng khác. - Anh nhìn vào mắt tôi. - Trước đây một năm đã xảy ra một tai nạn tương tự như thế. Dự án đường trên cao ở khu Queens. Một mảng trong cây cầu bê-tông đã bị gãy. Cũng may mà không có người chết, mặc dù đoạn đường đã được đưa vào sử dụng. Cả ở đó người ta cũng chứng minh là rõ ràng đã có kể sử dụng vật liệu xây dựng chất lượng kém, vật liệu xây dựng không được phép hoặc đã bị loại thải. - Anh nuốt khan. - Tất cả đều dùng theo một công thức đó. Đầu tiên là một hãng danh tiếng nhảy ra dìm giá trong vòng đấu thầu để gạt các ứng cử viên khác ra ngoài. Qua đó, họ nhận được hợp đồng. Những gì mà thành phố không biết là chuyện sau đây: trước đó một khoảng thời gian ngắn, có những nhóm người rất nhiều tiền núp đằng sau những hãng giả đã mua vơ mua vét đa số cổ phần của cái hãng danh tiếng nọ. Sau đó đến lượt trưởng công trình, hàng ngũ kiểm tra vật liệu cũng như các thanh tra nghiệm thu bị mua chuộc hoặc bị bẻ gãy bằng nhiều kiểu đe dọa khác nhau. Đa phần trong số họ đều từng có lần xà xẻo tiền công vào túi riêng, và vì thế mà rất dẽ bị khuất phục.
Mike Kellin nhìn tôi, và vì tôi im lặng chờ, nên anh uống thật nhanh một ngụm nước, rồi tiếp tục báo cáo.
- Trước đây người ta làm việc thô thiển hơn. Họ đưa đến ít đá, ít bê-tông, ít thép và ít gỗ xây dựng hơn so với những con số trong đơn đặt hàng và những con số trên giấy giao nhận hàng. Các thanh tra tham nhũng ký tên công nhận số lượng đó, và thành phố trả tiền. Bằng cách này, người ta có thể dễ dàng kiếm một vài triều đô-la trong một dự án lớn. Cánh điều tra kinh tế chúng tôi đã đạt được một số thành công nhất định và đẩy lùi đa phần dạng lừa đảo này. Ngày còn làm trong Sở cảnh sát, tôi đã tạo dựng nên một hệ thống kiểm tra hàng vào, đảm bảo ngăn chặn được những dối lừa vê số lượng kiểu đó. Chính vì những thành công này mà Greenfield đã cho đưa tôi lên văn phòng ông ấy.
Kellin nói tiếp:
- Những doanh nghiệp lừa đảo đã thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Giờ họ cung cấp đủ số nhưng là những vật liệu tồi tệ hơn và rẻ tiền hơn so với yêu cầu. Những mẫu hàng thử, dù là thép xây dựng, mảng bê-tông đúc sẵn, gỗ xây dựng hay những thứ khác, dĩ nhiên bao giờ cũng đạt chất lượng tốt nhất. Những mẫu bê-tông mà họ đổ nên có thể chịu đựng bất kỳ cuộc kiểm tra kỹ lưỡng nào. Nhưng rồi sau đó, khi công việc xây dựng thật sự được xúc tiến và dòng sông vật liệu xây dựng bắt đầu tuôn chảy, khi mỗi ngày có một số lượng lớn thép xây dựng và những mảng bê-tông làm sẵn cần phải được xử lý và giao nhận, thì các tiêu chuẩn không còn được đảm bảo nữa.
Kellin mím chặt môi. Anh đã đặt một bánh Sandwich và một suất Whisky. Cốc Whisky đã cạn từ lâu. Chiếc bánh Sandwich chưa được chạm tới.
- Nhưng người ta phải luôn luôn kiểm tra chất lượng, luôn luôn phải kiểm tra liệu các chuẩn mực có được tuân thủ, liệu vật liệu có thỏa mãn mọi tiêu chuẩn hay không! Tôi không phải là người trong ngành, Mike, nhưng không thể đơn giản như thế được!
- Tất cả các thanh tra nhận hàng hoặc nhận tiền đút lót hoặc bị đe dọa. Hoặc bản thân họ cũng bị lừa. Hoặc có một nhân viên nào đó trong bộ phận kiểm tra vật liệu lén rút ra những mẫu vật liệu lấy tư công trình xây dựng và tráo vào đó những mẫu vật liệu có chất lượng tốt. Danh sách kiểm tra và bản báo cáo sau đó đều chứa những con số chuẩn mực. Một khi tình huống trở nên cấp bách, các doanh nghiệp sẽ bị giải thể. Lúc đó không còn tiền nữa, chẳng còn gì. Chỉ còn lại các đại diện cùng một trưởng công trình là những kẻ phải chịu trách nhiệm. Những người đàn ông đó bị đẩy vào phía sau chấn song sắt. Nhưng bản thân học cũng bị lừa. Người ta sẽ bắt họ phải ngồi tù rất lâu, mặc dù họ vô tội.
Kellin châm thuốc lá. Anh hối hả thở phì khói ra.
- Tôi thật sự vẫn chưa tưởng tượng được anh muốn gì ở tôi.
- Giờ thì tôi đã tin chắc rằng chúng ta đang phải đối mặt với những tay Gangster hết sức bình thường. Không, không, - anh giơ tay ngăn ý phản đối trước khi tôi kịp lên tiếng. - Món tiền mà người ta dùng để mua cổ phần của các hãng xây dựng danh tiếng là những khoản tiền sạch sẽ, cho dù chúng có xuất xứ tư trò buôn bán thuốc phiện hay từ những tội phạm khác. Đa phần chúng chảy tới từ Las Vegas, một vài lần thậm chí từ châu Âu, đấy là những món tiền mà người ta bảo là của các nhà đầu tư người Anh hay người Đức. Nhưng cái mà tôi muốn nói là chuyện thực hiện và canh chừng những vụ đe dọa, thúc bách, chuyện đút lót, chuyện hăm dọa, tất cả được thực hiện bởi những tay gangster thật sự.
- Có dấu hiệu không?
- Dấu hiệu thì có, nhưng tôi chưa thể chứng minh được điều gì. Tôi bị đe dọa. Người ta đã tìm cách dùng tiền. Nhưng chỉ một lần. Khi bắt đầu vào làm ở chỗ Greenfield, tôi nhận được một cú điện thoại là từ nay trở đi cứ mỗi ngày thứ sáu tôi sẽ nhận được một phong bì chứa 500 đô-la ở một hộp thư nọ, nếu tôi không quá sốt sắng thúc đẩy công việc điều tra của mình. Tôi đã báo cáo việc đó lên trên và cùng một bạn đồng nghiệp đi lấy phong bì đầu tiên. 500 đô-la! Nhưng sau đó người ta không gửi nữa. Chỉ còn lại những cú điện thoại hăm dọa. Tôi không được phép bước vào quá sâu, nếu tôi còn muốn sống. Người ta chấp nhận chuyện không mua được tôi, và người ta thỉnh thoảng sẽ chịu đẩy cho tôi một tay ăn trộm trứng gà vặt vãnh để tôi có thành công mà báo cáo. Nhưng ngoài ra thì tôi nên cư xử cho bình tĩnh. Nếu không người ta sẽ biết cách giẫm vào chân tôi. Và họ đã chứng minh. Việc họ có thể dẫn vào chân tôi, ý tôi muốn nói thế. Một ngày nọ tôi tìm thấy trong căn hộ của mình một bưu kiện có chứa bom, lần khác thì phanh ôtô của tôi bị đứt. Họ cho tôi nhận ra sự có mặt của họ. Bọn tội phạm cũng không muốn ngay lập tức phải chịu cái gánh nặng giết cảnh sát viên. Nhưng chúng sẽ làm điều đó, một khi chúng không tìm ra cách khác. Bởi chúng đã giết người rồi, và đây không phải là vụ tai nạn ở ngã tư Major- Deegan. Ý tôi muốn nói đến một vụ giết chóc có chủ ý. Ngay cả khi tôi chưa thể chứng minh.
Nét mặt Mike Kellin bây giờ đờ đẫn. Anh đã vươn cằm về phía trước, và những sợi gân trên cổ anh căng hằn lên. Anh ấy sợ, tôi nhận định. một nỗi sợ hết sức dễ hiểu.
- Đến tuần vừa qua thì mọi chuyện được đẩy đến đỉnh cao, - Kellin nói tiếp. - Một cựu trưởng công trình của một dự án đường trên cao tại khu Queens muốn cung khai. Ít nhất anh ấy cũng có thể nhận diện được hai gã đàn ông đã làm những công việc bẩn thỉu. Và anh ấy có thể kể cho tôi nghe bọn con trai đó đã cùng cách nào để luôn luôn đẩy được những mẫu vật liệu sai vào phòng phân tích. Thời trước anh ấy đã bị tôi hỏi cung nhiều lần, nhưng anh ấy im lặng. Giờ anh ấy bị mất việc. Anh ấy ly dị đã lâu rồi, và bắt đầu nghiện rượu. Anh ấy đã sa xuống rất thấp. Anh ấy gọi điện cho tôi. Cú điện thoại đến sau vụ tai nạn xảy ra ở ngã tư Major –Deegan. Anh ấy nói cuối cùng cũng đã tới lúc anh ấy muốn khai. Vào thứ ba tuần trước, khi anh ấy đi bộ ra khỏi căn nhà tại Englewood, muốn đi ra xe để sang Manhattan, anh ấy bị một xe ôtô đâm phải và bị nó kéo lết gần 200 mét. Anh ấy không chết ngay lập tức. Anh ấy chết hai ngày sau đó. Tôi đoán là qua đó, chúng cũng muốn gửi đến tôi một lời cảnh báo. Cho tới nay người ta vẫn chưa tìm ra được tay lái chiếc xe nọ. Chuyện là như thế.
- Anh ăn bánh Sandwich đi. - Tôi nói. - Nào, ăn đi nào! - Tôi vẫy cô bồi bàn lại gần và đặt hai tách cà phê. - Và bây giờ anh muốn điều gì ở tôi? - Tôi hỏi.
- Tôi đang đứng trước ngã ba đường, anh hiểu không? Hoặc tiếp tục hoặc đầu hàng? Nếu tiếp tục, tôi sẽ phải chịu một lực ép rất mạnh. Trong quá trình điều tra tôi đã va phải một nhân viên trong bộ phận kiểm tra vật liệu. Ông ta tên là Elmar rank. Thật ra mà nói, chỉ là một con cá nhỏ. Nhưng ông ấy có rác phải che giấu, chắc chắn là như thế. Tôi đã kiểm tra những khoản chi của ông ta và tôi hoàn toàn tin chắc vào khẳng định của mình. Gã con trai đó chi ra nhiều hơn mức lương rất nhiều. Gã làm điều đó khéo léo, nhưng gã không qua được mắt tôi. Dĩ nhiên cả điện thoại của gã cũng bị canh chừng, giống như với hàng tá người khác. Suốt thời gian trước không có chuyện gì xảy ra, tuyệt đối không. Cho tới ngày hôm qua. Ngày hôm qua Elmar Rank nhận được một cú điện thoại.
Mike Kellin rút từ túi áo veston ra một biên bản điện thoại, mở tờ giấy được gấp ba ra và đẩy chúng sang bên đĩa ăn của tôi. Đó là tờ giấy ghi lại một cuộc nói chuyện qua điện thoại, đã được bộ phận kỹ thuật của lực lượng cảnh sát thành phố ghi âm vào buổi sáng ngày hôm qua, từ 7 giờ 42 cho tới 7 giờ 44 phút. Phía trên của biên bản có ghi mã hồ sơ và số giấy phép cho việc nghe điện thoại. Tôi bắt đầu đọc.
Người gọi tới: Chào buổi sáng, Elmar, tôi là Mac đây. Xin lỗi ông, đã lâu chúng tôi không lên tiếng.
Rank: Mac hả? Tôi không biết.....
Người gọi tới: Chúng tôi còn nợ ông một số thứ, Elmar. Tôi nghĩ có thể ông đã sốt ruột rồi.
(Im lặng).
Người gọi tới: Tôi có cái này cho ông. Ta hãy gặp nhau như mọi khi....
Rank: Trong Atlantis?
Người gọi tới: (Sắc giọng) Elmar! Ông hãy vào quán! Chín giờ tối ngày mai. Được chứ?
Rank: Vâng, vâng, tôi sẽ tới.
(Kết thúc cuộc gọi).
Tôi đẩy tờ giấy trở lại phía kellin rồi nhìn anh ra ý hỏi. - Tôi thấy chuyện này có vẻ kỳ quặc, Jerry, - anh nói. - Trong vụ lừa đảo này có rất nhiều người tham gia, chắc chắn là như thế. Không biết bao nhiêu kẻ biết chuyện. Nhưng cứ lần lượt, ngay khi chúng tôi bắt đầu nghe lõm điện thoại của ai đó, ngay khi chúng tôi bắt đầu hỏi cung một kẻ nào đó, thúc ép một kẻ nào đó, là ngay lập tức lại có một tấm ván sập xuống. – Kellin gõ gõ đầu ngón tay vào tờ giấy. – Đây là lần đầu tiên chúng tôi ghi được một cuộc nói chuyện như vậy.
Tôi quan sát người bạn đồng nghiệp. Thêm một lần nữa tôi nhận thấy dấu hiệu của sự sợ hãi trong gương mặt phẳng với cái mũi nhỏ và bờ miệng mỏng, hai bờ môi bây giờ căng ra như mõm một con chó sói. Kellin là một người đàn ông được phụ nữ ưa thích, tôi biết thế. Anh đã ly dị hai lần. Còn con số các cuộc tình thì chắc bản thân anh cũng biết rõ.
Nhưng chuyện đó không liên quan đến tôi.
Anh không phải là cộng sự của tôi, và tôi không phải là sếp của anh.
- Vậy ra anh tin đây là một cái bẫy? - Tôi hỏi. - Bẫy cho Rank? Hay cho ai?
- Tôi không biết, Jerry. Vì thế mà tôi muốn yêu cầu anh - xin anh đi cùng tôi buổi tối hôm nay! Tôi có ít kinh nghiệm trong những vụ bắt bớ kiểu này. Tôi cần một cộng sự.
- Tại sao anh không mời một đồng nghiệp trong cùng văn phòng ủy viên công tố quận? Hoặc một người từ bộ phận cũ của anh?
- Tôi không biết còn tin nổi ai nữa, Jerry. Có một lỗ rò rỉ. Chắc chắn phải có một lỗ rò rỉ! Cú giết người tại Englewood đã khiến tôi mở mắt ra.
- Theo những gì mà anh miêu tả thì đây là một vụ tai nạn với tay lái xe bỏ trốn.
- Jerry, chẳng lẽ anh không nghĩa giống tôi sao?
- Tôi muốn bám vào các sự kiện, - tôi nói. Đó không phải là sự thật. Cả tôi cũng rất nhiều khi tin vào linh cảm của mình hơn là tin vào các sự kiện trần trụi. Thường chúng cũng chẳng phải là sự kiện, mà chỉ là kết quả của dối trá.
- Thế, cái phong bì 500 đô-la, quả bom trong căn hộ của tôi, vụ phanh xe của tôi bị hỏng, những thứ đó không phải sự kiện sao?
Tôi chỉ vào biên bản. – Có những ai biết chuyện này?
- Các bạn đồng nghiệp ở bộ phận kỹ thuật, vị quan tòa đã ra lệnh nghe lén chiếc máy này và tôi. Chiều hôm qua, lúc người đưa thư mang biên bản lại thì Oliphant đang đi ăn. Tôi đã cầm ngay lấy nó, mà không ghi vào danh sách theo như quy định. Tôi nhìn thấy một cơ hội, nhưng tôi cũng có một cảm giác kỳ quặc.
- Anh đang sợ.
- Anh biết rõ điều đó. Tại sao anh cứ phải nói nó ra? – Kellin hỏi bằng vẻ cáu kỉnh thù địch.
- Anh muốn tôi đi cùng, vì tôi có nhiều kinh nghiệm hơn trong những vụ như vậy. Ở một cuộc bắt giam vào đúng thời điểm thích hợp. Nhưng khi gặp chuyện khó xử, chuyện tế nhị, thì cả tôi cũng sợ. Nếu ta nói thẳng nó ra, ít nhất ta cũng ý thức rõ cảm giác của mình. Người ta không được phép tự lừa dối mình, Mike. Sợ hãi không phải là chuyện nhục nhã, chắc chắn người ta đã nói với anh như thế trong khóa đào tạo cách đây tới 20 năm. Không một ai đòi hỏi anh phải vào vai người hùng. Nếu anh thấy cần, anh có thể gọi cho trạm cảnh sát trực thuộc. Thậm chí rất ngắn hạn, để có thể né tránh được cái lỗ rò rỉ kia.
- Tôi biết, - Kellin cúng người nói. – Dù sao tôi cũng cám ơn anh là anh đã tới đây. Để tôi trả tiền ăn trưa.
- Thôi, đừng có quá nóng như thế chứ! Tối hôm nay tôi cũng vô tình chưa có việc gì làm. - Tôi không nhắc tới cuộc hẹn hò với một cô giáo ngọt ngào đến hút hồn. Rồi tôi sẽ tìm cách an ủi cô sau. Người ta đâu có tiếc gì một khi có bạn đồng nghiệp cầu xin ta trợ giúp!


• •

Có ai đó ném một vốc xu vào hộp nhạc và không gian ngay lập tức tràn ngập những âm thanh khêu gợi. Trong một thoáng, tôi không nhìn thấy Mike Kellin khi có một nhóm thanh niên đi ngang qua chỗ anh để xuống khiêu vũ trong khoảng sản nhảy mờ tối phía sau phòng. Thêm một lần nữa, Mike Kellin bám chắc vào tay nắm của quầy bar. Anh nhìn thoáng xuống phía tôi rồi cầm cốc lên, và nhấm nháp món uống như một vị khách bình thường.
Anh ấy khá lắm, tôi nghĩ thầm. Hai chúng tôi vật vờ ở đây từ 8 giờ tối, giờ là 9 giờ rồi. Nói cho chính xác là 9 giờ kém 2 phút. Khi đến đây chúng tôi đi riêng. Làm như không quen nhau. Mỗi người cố gắng xoay xở với cái trò chờ đợi căng thẳng gặm nhấm thần kinh này.
Không một ai trong hai chúng tôi biết liệu Kellin có đoán đúng địa điểm hay không. Hay liệu gã đàn ông tự xưng là Mac kia thật ra nhắc đến một quán rượu hoàn toàn khác khi gã ra lệnh cho Elmar Rank đến gặp mình. Rank có nói đến khách sạn Atlantis, trong khi Mac chỉ nhắc đến một quán rượu. Nó có thể là bất kỳ một quán rượu nào nơi hai người đó đã thường xuyên gặp gỡ nhau để bàn luận về các tiêu chuẩn và các cuộc kiểm tra vật liệu. Cũng như để trả tiền và để nhận tiền.
Cũng dễ hiểu việc chúng tôi chọn khách sạn Atlantis, vì tên của khách sạn nay đã bị Rank buột miệng thốt lên. Khách sạn nằm ở phía tây của Đại Lộ số 10, cách nhà ga xe buýt và những cầu cảng mới bên dòng sông Hudson chỉ một vài quãng phố.
Quán rượu của khách sạn Atlantis có tên là King’s Pub và nằm dưới tầng hầm. Quán có ba cửa ra, một dẫn vào đại sảnh khách sạn, một dẫn ra Đại Lộ số 11 và cửa thứ ba dẫn ra Phố Số 44.
Chỉ sau một thời gian ngắn, quán rượu này đã trở thành điểm gặp gỡ cho những nữ diễn viên điện ảnh trẻ trung, những người sống trong những nhà trọ rẻ tiền bên Đại Lộ số 9 và ngày ngày chờ được nhận vai của một vở kịch hoặc một trong các đài truyền hình. Người ta nhanh chóng truyền tai nhau rằng đến đây bạn có thể mời được các cô gái, nếu bạn có một ngoại hình dễ thương và tỏ ra rộng rãi.
Tôi lén ném một cái nhìn xuống đồng hồ 9 giờ 3 phút. Hộp nhạc câm bặt. Rồi chỉ một phút sau đó từ loa lại vang lên những bài hát của một bản nhạc kịch đang thành công. Một cô gái thanh mảnh tóc đen chạm nhẹ vào cánh tay Kellin. Anh nhìn vào mặt cô, và tôi chợt nhận ra cái thoáng lửa lóe lên trong mắt anh. Nhưng rồi anh mỉm cười lắc đầu, và cô gái nhún đôi vai trần mảnh dẻ, mắt vẫn nhìn anh không ngưng. Cô mặc một chiếc áo len màu đen rất mỏng, bám như một làn da thứ hai sát quanh bờ ngực nhỏ nhắn và vòng eo thon. Cô muốn nói chuyện với Kellin. Anh xoay người đi và gắng không quan tâm đến cô nữa.
Vẫn chưa có gì xảy ra. Trong tầm nhìn của tôi là cửa dẫn ra khách sạn và mấy bậc cuối của đoạn cầu thang cong tròn, uốn dẫn lên Phố Số 44. Kellin quan sát khoảng cầu thang khác, nằm phía sau lưng tôi. Kellin đã chỉ cho tôi xem ảnh của Rank, và tôi đã khắc vào não mình những đường nét chảy xệ của một gương mặt đàn ông rất khó đoán tuổi.
Elmar Rank không đến. Tôi chạm khẽ vào chiếc máy bộ đàm mỏng dẹt đút trong túi ngầm áo veston. Máy được bật, chắc chắn là như thế. Nếu Elmar Rank lại gần khách sạn, Phil sẽ cho tôi biết.
Dĩ nhiên tôi không thể nhảy vào một cuộc phiêu lưu mà không có sự yểm trợ phía sau lưng, nhất là khi có ít thông tin như lần này. Rất có khả năng Mike Kellin dựng lên mọi chuyện thì sao!
Vậy là tôi đã báo cho Phil biết ý định của mình. Phil ngay lập tức tỏ ý sẵn sàng hy sinh buổi tối của anh. Sáng kiến của Phil là bám theo ông Elmar Rank kể từ giây phút người đàn ông đó rời nhà của ông ta ở khu Queens để đến với cuộc hẹn hò cùng tay trả tiền đút lót.
Vợ của Rank đã chết cách đây một năm rưỡi. Cả hai cậu con trai của ông ta đang học ở trường Harvard. Họ không nhận được học bổng. Vì hai đứa con trai, ông ta thường xuyên làm việc ngoài giờ. Vì hai đứa con trai, ông ta cung cấp những giấy chứng nhận chất lượng giả mạo và khiến cho thành New York phải trả hàng triệu đô-la uổng phí. Elmar Rank thay vào đó chắc chỉ nhận được một món tiền boa nho nhỏ.
Vào lúc 9 giờ 7 phút, một trong mấy người bồi bàn vặn nhỏ hộp nhạc lại, rồi thổi vào một chiếc microphone.
Sau đó anh ta nói: - Có điện thoại cho ông Rank! Ông Rank, làm ơn đến máy điện thoại!
Giọng anh ta vang ra rất rõ ràng từ dàn loa Stereo. Mike Kellin ném cho tôi một cái nhìn nhanh, bồi hồi. Tôi còn sững sờ hơn anh, bởi anh không biết là tôi đã đẩy Phil đi theo dõi Rank, và Phil chắc chắn đã báo cho tôi biết nếu Elmar Rank lên đường tới đây.
Có chuyện trục trặc. Tại sao Elmar Rank không đến cuộc hẹn của ông ta?


• •

- Mời ông Rank! - Giọng người bồi bàn vang ra từ loa.
- Không có mặt! - Một cô gái thét. – Vặn nhạc lên!
Có chuyện gì trục trặc? Có phải phía bên kia cũng canh chừng Rank? Có kẻ đã nhận ra là Rank bị theo dõi?
- Ông Rank, ông có thể nhận cuộc gọi ở cabin bên trái, dưới cầu thang! - Người bồi bàn nói rồi đặt microphone sang bên, vặn cho nhạc to trở lại.
Mike Kellin nhìn tôi ra ý hỏi. Ánh mắt bập bùng và gương mặt nhợt nhạt cho biết anh đang sợ lắm. Nhưng anh muốn bám theo vụ này bằng được. Tôi biết rất rõ nội tâm anh giờ ra sao.
Giờ anh muốn nghe lời khuyên của tôi, có thể là một cú hích khích lệ. Tôi phải làm gì? Đây là vụ án của anh. Chính anh là người đưa ra sáng kiến tới nơi này. Nếu anh muốn giả làm Rank, đó là chuyện của anh. Anh phải biết qua việc đó anh sẽ đạt được điều gì.
Tôi thoáng gật đầu.
Mike Kellin tụt từ trên ghế xuống, rời quầy rượu và đi vòng quanh chân cầu thang. Ngay khi vừa tới đây, tôi đã để ý quan sát và làm quen với địa điểm.
Trong con đường tối mờ bên dưới cầu thang là những cánh cửa dẫn vào khu vệ sinh và các cabin điện thoại.
Một người đàn ông trẻ tuổi bước theo những bậc thang dẫn từ ngoài phố vào. Tôi nhìn thấy bóng của anh ta trước khi người đàn ông bước vào hành lang. Anh ta đi ngang qua Kellin, trước khi viên thanh tra biến vào bóng tối khuất dưới gầm cầu thang. Bóng đèn treo phía cuối hành lang không cháy.
Đột ngột, sao tôi thấy nhạc to quá, và cái trò chen lấn bên quầy thì cửa toilet mở ra. Trong một thoáng ngắn ngủi, có một vệt sáng rộng hắt ra hành lang và bức tường đối diện. Cũng thoáng qua, tôi nhìn thấy một vệt tối giật về trước mảng sáng đó và nấp vào phía sau cánh cửa đang mở ra.
Chỉ thế thôi, nhưng cơ thể tôi phản ứng như dưới một hồi chuông báo động gắt gao. Tôi phi vào đám đông như một mũi tên, thúc vào lưng người vào vai người, tách các đôi uyên ương ra làm hai, rồi chạy thật nhanh giữa những dãy bàn về phía khúc hành lang. Vừa chạy tôi vừa giơ tay tóm lấy một chai rượu Brandy được để trên một mặt bàn đứng giữa ba người đàn ông. Chai rượu còn đầy đến một nửa, và nhóm đàn ông vẫn còn có ý định sử dụng nốt phần rượu còn lại. Họ gào lên phía sau tôi.
Tôi ném chai rượu như cách người ta ném một quả lựu đạn cầm tay vào khoảng hành lang, vào đúng chỗ tôi đã nhìn thấy bóng đen.
Nhạc lại tắt vì hết đĩa. Trước khi chai rượu đập vào tường và vỡ ra, tôi nghe thấy tiếng lạo xạo của thủy tinh. Rồi sau đó chai Whisky mới vỡ. Cùng trong lúc đó tai tôi nhận thấy một tiếng gầm gay gắt không thể trộn lẫn vào đâu được, tiếng một khẩu P38 vừa được bóp cò trong một không gian hẹp.
Các thực khách sau lưng tôi bắt đầu la hét. Tôi lao vào khoảng hành lang giờ lại tối mò. Mãi sau này chúng tôi mới điều tra ra rằng từ ngày hôm trước đã có kẻ phá hỏng cổ bóng đèn treo tường.
- Đứng lại! Đứng lại!
Đó là giọng Kellin, anh đang gầm lên.
Một dáng đàn ông gầy mảnh chạy thẳng vê hướng tôi. Tôi nhìn thấy bàn tay duỗi ra đang cầm chắc một khẩu súng lục. Gã đàn ông đó đang vội vàng. Gã va vào người tôi.
Gạt bàn tay cầm súng lục sang bên, tôi đẩy cánh tay đó cùng bờ vai của nó vọt lên cao, rồi dùng toàn bộ trọng lượng của mình húc gã trai dán vào tường.
- Kellin! Tôi tóm được nó rồi! – Tôi kêu lên. Bởi tôi hoàn toàn không có ý định nhận một mẩu chì từ khẩu P38, nếu anh bạn của tôi chưa nắm rõ tình hình.
Tôi nhìn gã đàn ông. Đầu gã mềm oặt, lúc lắc từ bên này sang bên khác. Khi tôi giảm nhẹ lực ấn của bờ vai mình, định tước súng và lục người gã tìm những món vũ khí khác, thì cơ thể gã xỉu xuống. Tôi để gã trượt xuống đất, cố gắng giữ cho gã trượt nhẹ.
Bởi bây giờ tôi mới thấy là tôi đang nắm giữ một người đã chết.
Hai con mắt mở lớn của gã đàn ông giờ đã kéo màng. Bàn tay đi găng với khẩu súng lục nặng ký nằm mềm oặt trên nến đất. tôi gỡ khẩu súng ra khỏi những ngón tay và đẩy nó đi tiếp một đoạn. Ở đầu nòng súng có gắn bộ phận giảm thanh.
- Gọi bác sĩ! – Tôi kêu lên. - Gọi xe cứu thương! Nhanh lên!
Mọi sự cứu giúp bây giờ đều đã quá muộn. Vệt máu ở cổ đã ngưng chảy khi nhịp tim chậm xuống. Tôi vẫn ép một bàn tay lên vết thương, dù biết là không thể giữ cho mạng sống ở lại trong thân người gầy guộc này.
Mkie Kellin khuỵu một bên gối xuống cạnh tôi. Anh vẫn còn cầm khẩu súng lục trong bàn tay cứng ngắt.
- Nó bắn tôi, - anh khàn khàn nói.
Tôi liếc nhìn anh. Mặt anh chảy máu. Một viên đạn đã cày lên một đường xước dài dưới tai trái. Kellin thậm chí chưa nhận ra vết thương đó.
- Anh có quen gã không? – Tôi hỏi anh.
Kellin đờ đẫn lắc đầu.
- Nó không phải là Rank, đúng không?
- Không dĩ nhiên là không. – Kellin nhìn tôi bằng vẻ thảm thương tột cùng trong hai con mắt, một vẻ thảm thương khiến tôi đâm lo. – Rank! Trời ơi, bây giờ ông ta ở đâu?
Cái đó, tôi thầm cân nhắc, cũng là thứ mình đang rất muốn biết.
- Ra đẩy đám người tò mò kia lùi về! – Tôi gầm vào mặt Kellin. Bởi đám thực khách đang nhích lại mỗi lúc một gần hơn và nhìn trân trân vào kẻ đã chết.
CUỘC TÌNH CUỐI CỦA CHÀNG CẢNH SÁT
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10