Chương 6
Tác giả: John Steinbeck
Có một con phố nhỏ cách không xa quảng trường thị trấn, ở đó những nóc nhà nhọn và cửa hiệu lẫn vào nhau. Trên hè phố và trong lòng đường tuyết bị dậm dẽ xuống, nhưng tuyết vẫn còn chất cao trên hàng rào và ùn lên thành đụn trên đỉnh mái nhà. Tuyết thổi tấp lên khung cửa sổ cánh sập của những ngôi nhà nhỏ bé. Trong sân nhà lối đi được cào sạch tuyết. Ðêm tối tăm và lạnh lẽo, không một chút ánh sáng nào hé ra từ các cửa sổ để quyến rũ những chiếc máy bay ném bom. Và không ai đi lại trên phố vì lệnh giới nhiêm rất ngặt. Những ngôi nhà như những đống đen lù lù nổi lên nền tuyết. Chốc chốc có một đội tuần tra sáu người đi qua bên đường, dòm ngó quanh quất, mỗi người mang trong tay một cây đèn bấm dài. Tiếng bước chân nặng nề của họ âm thầm vang lên trong phố xen lẫn với tiếng giày bốt nghiến trên nền tuyết dẽ. Những bóng người ấy trùm kín dưới lớp áo khoác dầy; dưới nón sắt của họ thêm một lớp mũ len choàng quá khỏi tai, bọc luôn cả cằm và miệng. Vài bông tuyết trắng rơi lưa thưa, lắc rắc như gieo hạt.
Ðội tuần tra vừa đi vừa nói chuyện, họ nó về những điều họ thèm muốn―về thịt và súp nóng, về hương vị đậm đà của miếng bơ, về nét xinh xắn cùng với nụ cười, đôi môi, ánh mắt của các cô gái. Họ nói về những điều thèm muốn và đôi khi họ nói về công việc họ đang làm, về nỗi cô đơn―những điều mà họ thù ghét.
Một ngôi nhà nhỏ, mái nhọn bên cạnh cửa hiệu bán đồ sắt, cũng có tuyết phủ trên mái và có hình dáng như những ngôi nhà khác. Không chút ánh sáng nào thoát ra từ những cửa sổ cánh sập, và cánh cửa chắn bão của ngôi nhà được đóng chặt; nhưng trong phòng khách ngọn có một đèn dầu thắp sáng, cửa dẫn vào phòng ngủ và cửa dẫn xuống nhà bếp đều mở. Một chiếc lò sắt dựa vào bức tường phía sau, một ít than đang cháy trong lò. Căn phòng đơn sơ, ấm cúng, thoải mái, sàn nhà phủ thảm đã sờn, giấy dán tường màu mâu ấm áp, trang trí bằng những mẫu hoa huệ cách điệu màu nhũ vàng. Bức tường phía sau treo hai bức tranh: một bức vẽ con cá chết nằm trên chiếc đĩa lót lá dương xỉ, bức kia là con gà gô nằm chết trên một nhánh linh sam. Trên bức tường bên phải có một bức tranh của Chúa Cứu Thế bước đi trên sóng hướng về những người đánh cá đang tuyệt vọng. Trong phòng có hai chiếc ghế dựa thẳng và một chiếc sofa phủ chăn màu sáng. Ở giữa phòng đặt một cái bàn tròn nhỏ, trên bàn một chiếc đèn dầu với chao đèn có hình hoa trang trí, ánh sáng trong phòng ấm áp, dịu mắt.
Cánh cửa phía trong, nằm cạnh chiếc lò, dẫn vào một hành lang thông đến cánh cửa chắn bão.
Molly Modern ngồi một mình trên chiếc ghế xích đu cũ có đệm lót đặt cạnh chiếc bàn. Cô đang xổ len từ một chiếc áo len cũ và cuộn len thành một trái cầu khá lớn, trên bàn có một mẫu len đan dỡ hãy còn gắn thanh đan, và một chiếc kéo lớn. Cô để cặp mắt kính nằm trên bàn, vì cô không cần đến nó khi đan. Cô trông gọn gàng, xinh xắn, trẻ trung. Mái tóc vàng được cô bới cao trên đỉnh đầu, và một chiếc nơ xanh đính trên tóc. Hai tay thoăn thoắt xổ len. Vừa làm việc, cô thỉnh thoảng đưa mắt nhìn về phía cửa thông ra hành lang. Gió thổi kêu thành tiếng rì rào trong ống khói, và đêm lặng yên cuộn mình trong tuyết.
Ðột nhiên cô ngưng công việc. Hai tay không động. Cô nhìn hướng về phía cửa, nghe ngóng. Tiếng bước chân nặng nề của đội tuần tra đi qua bên đường, loáng thoáng nghe được tiếng nói chuyện của người lính. Tiếng nói chuyện xa dần. Molly xổ thêm một đoạn len nữa và cuộn vào quả cầu len. Cô ngưng lại lần nữa. Có tiếng sột soạt trước cửa và sau đó là ba tiếng gõ. Molly bỏ công việc, bước đến mở cửa.
“Ai đấy?” Cô gọi.
Cô mở của ra, một bóng người trùm kín trong áo khoác dầy bước vào. Ðó là Annie, người nấu bếp, mắt đỏ gay, chiếc khăn quàng quấn quanh cổ. Bà lướt nhanh vào trong, giống như đang luyện tập thao tác lách mình nhanh qua khung cửa và sập cửa lại sau lưng. Bà đứng lại, sụt sịt cặp mũi đỏ au và đưa mắt liếc nhanh quanh phòng. Molly nói, “Chào bà, Annie. Tôi không nghĩ là bà tới đây tối nay. Cởi áo khoác ra lại đây sưởi ấm. Lạnh ở ngoài ấy.”
Annie nói, “Bọn lính đem mùa đông đến sớm. Cha tôi nói chiến tranh luôn mang thời tiết xấu đến, hay thời tiết xấu mang chiến tranh đến. Tôi không nhớ rõ cái nào.”
“Cởi áo khoác rồi đến lò cho ấm.”
“Không được,” Annie nói, vẻ mặt quan trọng. “Họ đang đến.”
“Ai đang đến?” Molly hỏi.
“Ðức ông,” Annie nói, “cùng với ông bác sĩ và hai cậu con trai nhà Anders.”
“Ðến đây?” Molly hỏi. “Ðể làm gì?”
Annie đưa tay ra, trong tay cầm một cái gói nhỏ, “Cầm đi,”bà nói. “Tôi lấy cắp từ trong đĩa của tên đại tá. Thịt đấy.”
Molly mở cái gói, bên trong là cái bánh thịt nhỏ, cô bỏ vào miệng và vừa nhai vừa nói. “Bà có miếng nào chưa?”
Annie nói, “Tôi nấu mà, phải không? Tôi luôn lấy được một ít.”
Annie sịt mũi. “Anh em nhà Anders sẽ vượt biển đi Anh quốc. Chúng phải đi. Chúng bây giờ đang trốn.”
“”Họ à?” Molly hỏi. “Tại sao vậy?”
“Làm sao nữa, thằng anh chúng, thằng Jack, bị bắn hôn nay vì phá một chiếc xe nhỏ. Bọn lính đang lùng những người còn lại trong gia đình. Cô biết lối làm việc của họ mà.”
“Phải,” Molly nói. “Tôi biết lối làm việc của họ. Ngồi đi, Annie.”
“Không có thời gian đâu” Annie nói. “Tôi phải quay về nói với Ðức ông là ở đây an toàn.”
Molly nói, “Có ai thấy bà đến đây không?”
Annie mỉm cười tự hào. “Không, lẩn lách thì tôi giỏi lắm mà.”
“Làm sao Ngài Thị trưởng có thể đi ra được?”
Annie cười. “Joseph sẽ nằm trên giường của Ngài thị trưởng, đề phòng trường hợp bọn họ dòm dỏ, và mặc cả áo ngủ của ngài, nằm ngay bên cạnh Phu nhân!” Và bà lại cười, bà nói, “Joseph phải nên khá nằm thật yên.”
Molly nói, “Ði thuyền trong đêm như thế này thật đáng sợ.”
“Còn đỡ hơn là bị bắn.”
“Ừ, đúng vậy. Nhưng sao Thị trưởng lại đến đây?”
“Tôi không biết. Ông ấy muốn nói chuyện với các cậu con trai nhà Anders. Tôi phải đi đây, tôi đến báo cho cô biết.”
Molly nói, “Bao lâu nữa họ mới đến?”
“Ồ, có thể nửa tiếng, hay bốn mươi lăm phút,” Annie nói. “Tôi sẽ đến trước. Không ai để ý đến mấy đầu bếp già.” Bà dợm bước ra cửa nhưng nửa chừng quay người lại, giọng nói giận dữ trách mắng Molly như thể chính cô đã nói ra những chữ cuối cùng ấy, “Tôi không già đâu đấy!” Rồi bà lướt nhanh ra ngoài, đóng cửa lại sau lưng.
Molly lại tiếp tục đan một lúc, rồi cô đứng dậy bước lại cái lò. Cô dỡ nắp lò, ánh lửa hừng lên soi sáng khuôn mặt của cô. Cô cời tro, bỏ thêm vài hòn than rồi đóng nắp lại. Cô chưa kịp quay lại ghế ngồi, đã có tiếng gõ ở cửa ngoài. Cô băng ngang căn phòng và tự nói với mình, “Không biết bà ấy quên cái gì.” Cô đi ra hành lang và nói, “Bà cần cái gì?”
Giọng một người đàn ông trả lời. Cô mở cửa và giọng người đàn ông nói, “Tôi không có ý xấu. Tôi không có ý làm hại cô.”
Molly trở vào trong phòng và Thiếu úy Tonder đi theo sau cô. Molly nói, “Anh là ai? Anh muốn gì? Anh không thể đến đây? Anh cần gì?”
Thiếu úy Tonder khoác trên người chiếc áo choàng xám rộng. Hắn bước vào phòng dỡ nón sắt ra, hắn nói như khẩn nài. “Tôi không có ý làm hại ai. Xin cho tôi vào.”
Molly nói, “Anh muốn gì?”
Cô bước ra đằng sau hắn và đóng cánh cửa lại, hắn nói, “Cô à, tôi chỉ muốn được nói chuyện, chỉ vậy thôi. Tôi muốn nghe cô nói chuyện. Tôi chỉ muốn vậy thôi.”
“Anh cưỡng hiếp tôi?”Molly hỏi.
“Không, cô ôi, hãy cho tôi nán lại đây một chốc rồi tôi sẽ đi.”
“Anh muốn gì?”
Tonder tìm cách giải thích. “Cô có hiểu không―cô có tin không? Chúng ta có thể quên đi cuộc chiến này không, chỉ trong chốc lát thôi? Chỉ một chốc lát thôi. Chỉ trong chốc lát, chúng ta có thể nói chuyện với nhau như con người với―con người?”
Mollly nhìn hắn hồi lâu và rồi đôi môi cô hiện lên một nụ cười. “Anh không biết tôi là ai, đúng không?”
Tonder nói, “Tôi từng thấy cô đưới phố, tôi biết cô dễ thương. Tôi biết tôi cần nói chuyện với cô.”
Molly vẫn mỉm cuời. Cô nói dịu dàng, “Anh không biết tôi là ai.” Cô ngồi xuống chiếc ghế và Tonder đứng đó như một đứa trẻ, mắt nhìn ngờ nghệch. Molly lặng lẽ nói tiếp, “Sao đấy, anh cô đơn. Chỉ đơn giản vậy thôi, đúng không nào?”
Tonder liếm đôi môi, hắn nói giọng háo hức. “Ðúng đó,” hắn nói. “Cô hiểu, tôi biết cô sẽ hiểu. Tôi biết rồi cô phải hiểu tôi.” Lời hắn lập bập tuôn ra. “Tôi cô đơn đến nỗi phát bệnh. Tôi cô đơn trong sự câm lặng và căm thù.” Hắn nói như van nài, “Chúng ta có thể trò chuyện được không, chỉ một lát thôi?”
Molly cầm lấy mẫu đan lên tay. Cô liếc nhanh về phía cửa trước. “Anh có thể ở đây nhưng không quá mười lăm phút. Ngồi xuống đi, Thiếu úy.”
Cô nhìn lại cánh cửa lần nữa. Căn nhà kêu lên ken két. Tonder trở nên căng thẳng, hắn nói, “Có ai ở đây không?”
“Không, tuyết đóng nặng trên mái nhà. Tôi không còn có một người đàn ông để đẩy tuyết xuống.”
Tonder nói nhẹ nhàng, “Ai gây ra chuyện đó, có phải chúng tôi không?”
Molly gật đầu, nhìn mông lung. “Phải.”
Hắn ngồi xuống, “Tôi xin lỗi.” Một lát sau hắn nói, “Tôi mong có thể làm được chuyện gì đó. Tôi sẽ đẩy tuyết ở trên mái xuống.”
“Không,” Molly nói, “không.”
“Sao không?”
“Vì người ta sẽ nghĩ là tôi bắt tay với các người. Họ sẽ xua đuổi tôi. Tôi không muốn bị họ xua đuổi.”
Tonder nói, “Phải, tôi hiểu được chuyện đó. Người của cô đều ghét chúng tôi. Nhưng tôi sẽ chăm sóc cô nếu cô cho phép.”
Molly lúc này biết được cô đang nắm hắn trong tay, mắt cô hơi nheo lại hiện lên vẻ tàn độc, cô nói, “Tại sao anh phải hỏi? Anh là kẻ chiến thắng. Người của anh đâu cần phải hỏi, họ cứ lấy những gì họ muốn.”
“Ðó không phải là chuyện tôi muốn,” Tonder nói. “Tôi không muốn như vậy.”
Molly cười, vẫn còn chút ít tàn độc. “Anh muốn tôi thích anh, đúng không, Thiếu úy?”
Hắn nói gọn, “Vâng,” và ngẩng đầu lên, hắn nói, “Cô thật đẹp, thật nồng ấm, và mái tóc cô óng ả. Ôi, đã lâu lắm tôi chưa từng thấy vẻ dịu hiền trên khuôn mặt của một người đàn bà.”
“Anh có thấy trên gương mặt tôi có chút nào hiền dịu không?” Cô hỏi.
Hắn nhìn sát vào mặt cô. “Tôi muốn thấy nó.”
Cuối cùng cô đưa mắt nhìn xuống. “Anh đang muốn làm tình với tôi, đúng không, Thiếu úy?”
Và hắn nói vụng về, “Tôi muốn cô thương tôi. Chắc chắn tôi muốn cô thương tôi. Chắc chắn tôi muốn thấy điều ấy trong mắt cô. Tôi thấy cô trên phố. Tôi trông cô đi qua bên đường. Tôi đã ra lệnh không ai được hà hiếp cô. Cô có bị ai hà hiếp không?”
Và Molly trả lời lặng lẽ, “Cám ơn; chưa, tôi chưa bị ai quấy nhiễu.”
Hắn hấp tấp vội nói, “Sao ư, tôi còn viết cho cô một bài thơ. Cô có muốn xem bài thơ đó của tôi hay không?”
Cô nói với vẻ trêu chọc, “Bài thơ dài không? Anh phải đi gấp đấy.”
Hắn nói, “Không, chỉ một đoạn thơ nho nhỏ, một đoạn thơ ngắn thôi.” Hắn cho tay vào chiếc áo chẽn, lấy ra một mẩu giấy gấp đưa cho cô. Cô nghiêng người gần ngọn đèn, đeo mắt kính lên và lặng lẽ đọc.
Mắt em vời vợi phương trời
Hồn ta vương vấn khôn dời bước chân
Biển xanh tình ý trào dâng
Rót bao dịu ngọt bâng khuâng tim này.
Cô gấp tờ giấy lại đặt lên đùi, “Anh làm bài thơ này hả, Thiếu úy?”
Cô nói giọng châm chọc, “Cho tôi?”
Tonder trả lời một cách khó khăn, “Vâng.”
Cô nhìn hắn không chớp mắt, mỉm cười. “Anh không làm bài thơ này đâu, Thiếu úy, đúng không?”
Hắn mỉm cười đáp lại như một đứa bé bị bắt quả tang nói dối. “Không.”
Molly hỏi hắn, “Anh biết ai làm nó không?”
Tonder nói, “Biết, Hein sáng tác bài thơ ấy, nó tên là ‘Với mắt em xanh.’ Tôi luôn yêu bài thơ ấy.”(1) Hắn cười ngượng ngùng và Molly cũng cười, bỗng nhiên cả hai cùng cười với nhau. Và cũng đột ngột không kém, hắn ngưng đi tiếng cười, ánh mắt hắn đượm vẻ u ám. “Ðã lâu lắm rồi tôi không được cười như vậy. Họ nói với chúng tôi rằng dân chúng sẽ mến chúng tôi, sẽ cảm phục chúng tôi. Không, họ chỉ toàn ghét chúng tôi.”Và hắn thay đổi câu chuyện như đang cố đuổi cho kịp thời gian. “Cô thật đẹp. Cô thật là càng đẹp hơn khi cô cười.”
Molly nói, “Anh bắt đầu muốn làm tình với tôi đó, Thiếu úy. Anh phải đi ngay trong chốc lát.”
Tonder nói, “Có thể tôi muốn làm tình với cô. Người đàn ông sẽ chết nếu không có tình yêu. Bên trong hắn héo hắt vào ngực hắn vỡ thành những mảnh vụn khô khan. Tôi cô đơn.”
Molly đứng lên khỏi ghế. Cô bồn chồn nhìn về phía cửa và cô bước đến cái lò rồi quay trở lại. Khuôn mặt trở nên cau có và ánh mắt như kiệt sức, cô nói, “Anh muốn lên giường với tôi phải không, Thiếu úy?”
“Tôi không nói vậy! Sao cô lại nói như vậy?”
Molly tàn nhẫn nói, “Có thể tôi đang cố làm anh ghê tởm. Tôi đã có lần lấy chồng. Chồng tôi đã chết. Anh thấy không, tôi không phải là gái trinh.” Giọng cô đầy cay đắng.
Tonder nói, “Tôi chỉ muốn cô thương tôi.”
Molly nói, “Tôi biết. Anh là một người văn minh. Anh biết việc làm tình sẽ càng tràn trề, trọn vẹn và vui sướng hơn nếu ưa thích nhau.”
Tonder nói, “Ðừng, làm ơn xin đừng nói như vậy.”
Molly liếc nhanh về phía cửa. Cô nói, “Chúng tôi là những kẻ bị chinh phục, Thiếu úy. Anh giật lấy đi miếng ăn. Tôi đói. Tôi sẽ thương anh hơn nếu anh cho tôi ăn.”
Tonder nói, “Cô nói gì vậy?”
“Tôi có làm anh ghê tởm không, Thiếu úy? Có thể tôi cố làm như vậy. Giá của tôi là hai khúc dồi.”
Tonder nói, “Cô không thể nói như vậy được!”
“Những đứa con gái ở xứ của các anh sau cuộc chiến vừa rồi thì sao, Thiếu úy? Một người lính có thể lựa trong đám con gái với cái giá của một cái trứng hay một khoanh bánh mì. Hay anh chỉ muốn lấy không tôi, hả Thiếu úy? Giá của tôi cao quá phải không?”
Hắn nói, “Cô ghẹo tôi nãy giờ. Nhưng cô cũng ghét tôi nữa, phải không? Tôi tưởng có lẽ cô không đến nỗi ghét tôi.”
“Không! Tôi không ghét anh,” cô nói. “Tôi đói và―tôi ghét anh!”
Tonder nói, “Tôi sẽ cho bất cứ những gì cô cần, nhưng―”
Và cô ngắt lời hắn. “Anh muốn gọi chuyện đó là một việc gì khác sao? Anh không muốn một con đĩ. Ý anh có phải vậy không?”
Tonder nói, “Tôi không hiểu được ý của cô, lời cô nói có vẻ đầy hận thù.”
Molly cười. “Bị đói thì không có gì đẹp đẽ cả. Hai khúc dồi, hai khúc dồi ngon, béo ngậy có lẽ là những vật quí giá nhất trên đời.”
“Ðừng nói những chuyện đó,” hắn nói. “Xin đừng!”
“Sao không? Những chuyện đó là sự thật.”
“Chúng không phải là sự thật! Không thể là sự thật!”
Cô nhìn hắn một lúc rồi ngồi xuống, và ánh mắt hạ thấp, cô nói, “Không, không phải là sự thật. Tôi không ghét anh. Tôi cũng cô đơn, và tuyết đóng nặng trĩu trên mái nhà.”
Tonder đứng dậy tiến tới gần cô. Hắn đưa hai tay cầm lấy một bàn tay của cô và hắn nói với giọng tỉ tê, “Xin cô đừng ghét tôi. Tôi chỉ là một thiếu úy. Không ai sai tôi đến đây. Không ai bảo cô làm kẻ thù của tôi. Tôi chỉ là một người đàn ông, không phải là một kẻ đi chinh phục.”
Ngón tay của Molly vẽ vòng tròn trong lòng bàn tay hắn một lúc và cô nói, “Tôi biết; vâng, tôi biết.”
Tonder nói, “Chúng ta có một ít quyền nhỏ bé cho cuộc sống trong cái cõi chết chóc này.”
Cô đặt tay lên má hắn một lát và cô nói, “Vâng.”
“Tôi sẽ chăm sóc cô,” hắn nói. “Chúng ta có một ít quyền cho cuộc sống ở cái chốn giết người này.” Hắn đặt tay lên vai cô. Ðột nhiên người cô trở nên cứng ngắt bất động, đôi mắt mở to nhìn trừng trừng như đang nhìn thấy một hồn ma. Hắn buông tay ra và hỏi “Có chuyện gì? Cái gì vậy?” Mắt cô nhìn chăm chăm thẳng tới trước và hắn nhắc lại câu hỏi, “Cái gì vậy?”
Molly nói như người bị ma ám, “Tôi phục sức cho anh ấy như một cậu bé ngày đầu tiên đến trường, nhưng anh ấy sợ hãi. Tôi cài nút áo sơ mi và cố an ủi anh ấy nhưng lòng anh ấy không thể nào khuây. Và anh ấy sợ hãi.”
Tonder nói, “Cô nói gì vậy?”
Molly dường như thấy được những gì cô diễn tả. “Tôi không biết tại sao họ cho anh ấy về nhà. Anh ấy bối rối. Anh ấy không biết đã xảy ra chuyện gì. Anh ấy cũng quên không hôn tôi khi anh ấy đi. Anh ấy sợ, nhưng rất dũng cảm, như một cậu bé trong ngày đầu tiến đến trường.”
Tonder đứng lên, “Ðấy là chồng cô.”
Molly nói, “Phải, chồng tôi. Tôi đến với ngài Thị trưởng, nhưng ông ấy không giúp được gì. Rồi anh ấy bước đi―yếu ớt, chân đi không vững―và anh điệu anh ấy đi, bắn anh ấy. Sự việc xảy ra lúc ấy trông lạ lùng hơn là đáng sợ. Lúc ấy tôi không tin đó là sự thật.”
Tonder nói, “Chồng cô!”
“Ðúng, bây giờ trong căn nhà tịch mịch, tôi biết đó là sự thật. Bây giờ khi tuyết đóng nặng trĩu trên mái nhà, tôi biết đó là sự thật. Và trong nỗi cô đơn lúc đêm về sáng, trên chiếc giường nửa bên trơ lạnh, tôi nhận ra điều ấy.”
Tonder đứng trước mặt cô, khuôn mặt hắn đầy đau khổ. “Chúc ngủ ngon,” hắn nói. “Chúa che chở cho cô. Tôi có thể trở lại không?”
Molly đưa mắt nhìn về bức tường, ánh mắt còn mông lung lưu lại ở một miền ký ức. “Tôi không biết,” cô nói.
“Tôi sẽ trở lại.”
“Tôi không biết.”
Hắn nhìn cô rồi lặng lẽ bước ra cửa, Molly vẫn nhìn đăm đăm vào bức tường. “Chúa che chở tôi!” Một lúc sau cô vẫn còn nhìn vào bức tường. Cánh cửa mở ra không một tiếng động và Annie bước vào. Molly cũng không hề nhìn thấy bà.
Annie nói với vẻ không bằng lòng, “Cửa để mở đấy.”
Molly từ từ nhìn qua Annie, mắt cô vẫn mở to. “Vâng. Ồ, Annie.”
“Cửa để mở. Có một người đàn ông đi ra. Tôi thấy hắn, hắn trông giống một tên lính.”
Molly nói, “Vâng, Annie”
“Có một tên lính đến đây phải không?”
“Phải, có một tên lính.”
Annie nghi ngờ hỏi, “Hắn làm gì ở đây?”
“Hắn đến để làm tình với tôi.”
Annie nói, “Cô này, cô làm gì vậy? Cô không hợp tác với chúng chứ? Cô không đi theo chúng như tên Corell kia chứ?”
“Không, tôi không đi với chúng, Annie.”
Annie nói, “Nếu Ngài Thị trưởng đến đây mà bọn chúng quay lại, có chuyện gì là lỗi của cô đấy; lỗi cô cả đấy!”
“Hắn không trở lại đâu. Tôi sẽ không để hắn trở lại đâu.”
Nhưng Annie không hết nghi ngờ. Bà nói, “Tôi có thể cho họ vào bây giờ không? Cô nói có an toàn không?”
“Vâng, an toàn. Họ ở đâu?”
“Họ ở ngoài, sau hàng rào,” Annie nói.
“Nói họ vào đi.”
Annie đi ra, Molly đứng dậy vuốt mái tóc, lắc lắc đầu, cố tỉnh táo trở lại. Có tiếng động nhẹ ở hành lang. Hai thanh niên cao, tóc vàng bước vào. Họ mặc áo len cổ cao, bên ngoài khoác áo thuỷ thủ, đội mũ len có chóp nhọn nhô cao trên đầu. Nước da họ nâu sạm vì gió biển và thân thể cường tráng. Họ trông giống như hai anh em sinh đôi. Ðó là Will Anders và Tom Anders, hai anh em làm nghề đánh cá.
“Chào chị Molly, chị có nghe nói rồi chứ?”
“Annie có nói với tôi. Ðêm nay đi trời xấu.”
Tom nói, “Còn đỡ hơn một đêm trời trong. Máy bay có thể thấy được mình vào đêm trời trong. Ngài Thị trưởng cần chuyện gì vậy, chị Molly?”
“Tôi không biết. Tôi có nghe chuyện người anh các cậu. Tôi thật buồn.”
Hai người thanh niên im lặng họ trông ngượng ngùng. Tom nói, “Cô biết chuyện đó như thế nào, hơn ai hết.”
“Ðúng; đúng, tôi biết.”
Annie quay trở vào lại và bà nói thì thầm bằng giọng khàn khàn, “Họ đến đấy!” Thị trưởng Orden và Bác sĩ Winter đi vào. Họ cởi áo khoác và mũ len bỏ lên ghế sofa . Orden bước tới Molly, hôn trên trán cô.
“Chào Molly.”
Ông quay sang Annie. “Ðứng ở hành lang, Annie. Gõ cửa một tiếng khi có đội tuần tra, một tiếng khi họ đi, và hai tiếng khi có gì nguy hiểm. Bà có thể hé cửa ngoài để nghe xem có người nào đến.”
Annie nói, “Vâng, thưa ngài.” Bà vào trong hành lang, khép cửa lại.
Bác sĩ Winter đứng ở lò sưởi, hơ ấm đôi tay. “Chúng tôi nghe nói các cậu ra đi đêm nay.”
“Chúng tôi phải đi thôi,” Tom nói.
Orden gật đầu. “Phải, tôi biết. Chúng tôi nghe nói các cậu định bắt cả ông Corell theo nữa.”
Tom cười chua chát, “Chúng tôi nghĩ chuyện ấy không đến nỗi sai. Chúng tôi lấy thuyền của hắn. Chúng tôi không thể để hắn ở lại. Gặp mặt hắn ở trên phố không tốt chút nào.”
Orden nói giọng buồn rầu, “Tôi mong hắn bỏ đi. Bắt hắn đi, các cậu sẽ gặp nguy hiểm.”
“Gặp mặt hắn ở trên phố không tốt lắm.” Winter lặp lại anh hắn. “Ðể dân chúng thấy hắn ở đây không tốt.”
Winter hỏi, “Các cậu bắt hắn được không? Hắn không đề phòng sao?”
“Ồ, vâng hắn có đề phòng bằng một cách nào đó. Nhưng vào 12 giờ, hắn thường đi bộ về nhà. Chúng tôi đứng sau tường. Tôi nghĩ tôi có thể tóm hắn xuống khu vườn dưới của nhà hắn và xuống bờ nước. Thuyền của hắn buộc ở đây. Ngày hôm nay chúng tôi đã ở trên thuyền chuẩn bị sẵn sàng rồi.”
Orden nhắc lại, “Tôi mong là các cậu không phải làm việc đó. Nếu hắn gây ra tiếng ồn, bọn tuần tra có thể đến.”
Tom nói, “Hắn sẽ không làm ồn, nếu hắn biến mất trên biển lại càng tốt hơn. Có ai đó ở thị trấn sẽ khử hắn và rồi sẽ có quá nhiều giết chóc. Không, tốt hơn nên để hắn ra biển.”
Molly lại cầm món đồ khâu của cô lên. Cô nói, “Các anh sẽ ném hắn xuống biển?”
Will đỏ mặt, “Hắn sẽ được đi biển, thưa chị.” Hắn quay lại Thị trưởng. “Ngài muốn gặp chúng tôi?”
“À, vâng, tôi muốn bàn chuyện với các cậu. Bác sĩ Winter và tôi đã thử suy nghĩ―có khá nhiều bàn bạc về công lý, bất công, chinh phục. Dân của chúng ta bị xâm lăng, nhưng tôi không nghĩ họ bị chinh phục.”
Có tiếng gõ gắt ở ngoài cửa, cả phòng im lặng. Molly ngừng đôi kim đan, cánh tay của Thị trưởng đang duỗi ra khựng lại trong khoảng không. Tom đang đưa tay gãi lỗ tai cũng ngưng lại, bàn tay giữ yên vị trí đó. Mọi người trong phòng bất động, tất cả mọi con mắt đều hướng về cánh cửa. Rồi tiếng bước chân của đội tuần tra, lúc đầu chỉ hơi mơ hồ nhưng từ từ lớn dần; lúc họ đi ngang qua lẫn trong đó có tiếng giày bốt nghiến trên tuyết và tiếng nói chuyện. Họ đi ngang qua trước cửa, rồi tiếng bước chân chìm hút dần vào khoảng xa. Có tiếng gõ cửa lần thứ hai, trong phòng mọi người thư thả trở lại.
Orden nói, “Annie ở ngoài chắc bị lạnh.” Ông nhặt lấy chiếc áo khoác của mình nằm ở trên sofa và mở cửa trong đưa chiếc áo ra. “Choàng áo này lên vai đi, Annie,” ông nói và khép cửa lại.
“Tôi không biết tôi sẽ làm sao nếu không có bà ấy,” ông nói. “Nơi nào bà ấy cũng đến được, bà ấy thấy và nghe được hết mọi chuyện.”
Tom nói, “Chúng tôi phải sớm đi ngay, thưa ngài.”
Và Winter nói, “Tôi mong các cậu sẽ quên ông Corell đi.”
“Không thể được. Thấy mặt hắn trên phố thật không tốt.” Hắn nhìn qua Thị trưởng Orden dò hỏi.
Orden chậm rãi nói. “Tôi muốn nói một cách đơn giản. Ðây là một thị trấn nhỏ. Công lý và bất công là những lời lẽ vụn vặt. Anh của các cậu bị bắn và Alex Molly bị bắn. Trả thù kẻ phản bội. Dân chúng giận dữ và họ không có phương thế nào để đánh trả. Nhưng tất cả đều là những lời lẽ vụn vặt. Ðây là con người chống lại con người, không phải ý tưởng đối kháng ý tưởng.”
“Thật là khôi hài khi một bác sĩ nghĩ đến việc phá huỷ, nhưng tôi nghĩ là tất cả những người bị xâm lăng đều muốn chống cự. Chúng ta bị tước đoạt vũ khí; tinh thần và thân xác của chúng ta không đủ. Tinh thần của một con người bị tước đoạt vũ khí suy sụp.”
Will Anders hỏi, “Tất cả những điều ấy có nghĩa là gì, thưa ngài? Ngài cần gì ở chúng tôi?”
“Chúng tôi muốn chiến đấu chống lại họ nhưng không thể làm được,”Orden nói. “Bọn họ đang dùng cái đói để trị dân chúng. Cái đói làm con người yếu hèn. Các cậu vượt buồm qua Anh quốc. Có thể không có ai nghe các cậu, nhưng hãy chuyển lời của chúng tôi―từ một thị trấn nhỏ―hãy gửi vũ khí đến cho chúng tôi.”
Tom hỏi, “Ngài cần súng?”
Lần nữa có tiếng gõ nhanh ở ngoài cửa và mọi người dứng sững tại chỗ của mình. Ở bên ngoài có tiếng chân của đội tuần tra, nhưng bước chân gấp, đang chạy. Will nhanh nhẹn bước đến bên cửa. Tiếng chân chạy ngang qua trước nhà. Có tiếng ra lệnh, với giọng nói tắc nghẽn và đội tuần tra chạy đi. Ngoài cửa lại tiếng gõ lần thứ hai.
Molly nói, “Bọn họ chắc duổi theo ai đó. Không biết lần này là ai đây?”
“Chúng tôi phải đi đây,” Tom bồn chồn nói. “Ngài cần súng chăng? Chúng tôi có nên hỏi xin súng không?”
“Không, hãy nói với họ tình trạng của chúng ta. Chúng ta đang bị theo dõi. Bất cứ sự loạn động nào của chúng ta cũng bị trả đũa. Nếu chúng ta có thể có những thứ vũ khí đơn giản, bí mật; những thứ vũ khí kín đáo, chất nổ, mìn, để nổ tung đường ray, lựu đạn, nếu có thể, luôn cả chất độc.” Ông nói giọng giận dữ. “Ðây không phải là một cuộc chiến danh dự. Ðây là một cuộc chiến lừa lọc và sát nhân. Chúng ta hãy dùng những phương pháp đã được áp dụng lên chúng ta! Hãy để người Anh thả bom những công trình lớn, nhưng cũng để họ thả cho chúng ta những trái bom nhỏ, để dấu đi, để luồn dưới đường ray, dưới bồn nhiên liệu. Như thế chúng ta sẽ được vũ trang, bí mật vũ trang. Rồi những kẻ xâm lăng sẽ không biết ai trong chúng ta đang có vũ khí. Hãy để những chiếc máy bay thả bom mang đến cho chúng ta những vũ khí đơn giản. Chúng ta sẽ biết cách dùng chúng.”
Winter nói xen vào, “Bọn họ không bao giờ biết sẽ bị tấn công ở đâu. Những người lính, đội tuần tra, sẽ không bao giờ biết được ai trong chúng ta được vũ trang.”
Tom lau trán. “Nếu chúng tôi đi qua lọt, chúng tôi sẽ nói với họ, thưa ngài, nhưng―tôi nghe nói là ở Anh quốc có những người đang cầm quyền không dám đặt vũ khí vào tay của thường dân.”
Orden nhìn hắn chăm chú. “Ồ! Tôi chưa nghĩ đến điều đó. Vậy thì chúng ta chỉ còn nước chờ xem thôi. Nếu những người như thế vẫn còn cai trị Anh và Mỹ, thế giới sẽ mất. Hãy thuật lại cho họ nghe lời của chúng tôi, nếu họ chịu nghe. Chúng ta phải cần có sự giúp đỡ, nhưng nếu chúng ta có được sự giúp đỡ”―mặt ông trở nên đanh lại― “nếu chúng ta có những thứ ấy, chúng ta sẽ tự cứu mình.”
Winter nói, “Nếu họ cho chúng ta chất nổ để chúng ta dấu đi, chôn xuống đất để đến lúc cần sẵn sàng, kẻ xâm lăng sẽ không bao giờ được nghỉ ngơi, không bao giờ! Chúng ta sẽ nổ tung đường tiếp tế của bọn họ.”
Căn phòng trở nên phấn khởi. Molly hăm hở nói, “Phải, chúng ta có thể đánh lúc hắn nghỉ ngơi, chúng ta có thể đánh lúc hắn ngủ. Chúng ta có thể đánh vào thần kinh và lòng kiên định của hắn.”
Will lặng lẽ hỏi, “Tất cả chỉ có vậy thôi, phải không, thưa ngài?”
“Phải.” Orden gật đầu. “Ðó là chuyện chính yếu.”
“Nếu họ không nghe theo thì sao?”
“Các cậu chỉ thử thôi, giống như các cậu đang thử thách đêm nay.”
“Chỉ có vậy thôi, phải không, thưa ngài?”
Cửa mở và Annie im lặng bước vào. Orden nói tiếp, “Chỉ vậy thôi. Nếu các cậu phải đi ngay bây giờ, hãy để tôi cho Annie ra xem đường có vắng không.” Ông ngẩng đầu lên và thấy Annie đi vào. Annie nói, “Có một người lính đi lên hướng này. Hắn trông giống như người lính lúc nãy ở đây. Lúc nãy có một người lính ở đây với Molly.”
Người trong phòng quay nhìn Molly. Annie nói, “Tôi đã khóa cửa.”
“Hắn muốn gì?” Molly hỏi. “Tại sao hắn lại trở lại?”
Có tiếng gõ nhè nhẹ ở cửa ngoài. Orden bước tới Molly. “Ðây là chuyện gì hả Molly? Cô có chuyện gì rắc rối hả?”
“Không,” Cô nói, “không! Hãy ra bằng ngả sau. Các người có thể đi thông ra được ngả sau. Mau, ra mau!”
Tiếng gõ vẫn tiếp tục ở cửa trước. Có giọng nói nhỏ nhẹ của một người đàn ông. Molly mở cửa dẫn xuống nhà bếp. Cô nói, “Mau, mau!”
Ông Thị trưởng đứng trước mặt cô. “Cô có chuyện rắc rối hả Molly? Cô đâu có làm gì phải không?”
Annie lạnh lùng nói, “Trông có vẻ như cùng một tên lính. Lúc nãy ở đây có một tên lính.”
“Phải,” Molly nói với Thị trưởng, “Phải, có một người lính ở đây lúc nãy.”
Thị trưởng nói, “Hắn muốn gì?”
“Hắn muốn làm tình với tôi.”
“Nhưng hắn không chứ?” Orden nói.
“Không,” Cô nói. “Hắn không, Ði đi, tôi sẽ lo liệu được.”
Orden nói, “Molly, nếu cô bị chuyện gì rắc rối, hãy để chúng tôi giúp.”
“Chuyện rắc rối của tôi đang vướng vào không ai có thể giúp được,” cô nói. “Ði đi,” và cô đẩy họ ra cửa.
Annie đứng lại phía sau. Bà nhìn Molly. “Cô à, tên lính đó muốn gì vậy?”
“Tôi không biết hắn muốn gì.”
“Cô sẽ nói cho hắn biết hết mọi chuyện phải không?”
“Không,” ngỡ ngàng, Molly lặp lại, “Không.” Rồi với giọng gay gắt cô nói, “Không, Annie, tôi không có đâu!”
Annie cau có với cô. “Cô, tốt hơn cô không nên nói với hắn chuyện gì hết.” Bà bước ra ngoài và đóng cửa lại.
Tiếng gõ tiếp tục ở cửa trước, và có thể nghe được tiếng nói của người đàn ông sau lần cửa.
Molly đến bên ngọn đèn đặt giữa phòng, người cô trông như đang mang một gánh nặng. Cô cúi nhìn chiếc đèn. Cô nhìn xuống bàn, và thấy chiếc kéo lớn nằm bên cạnh mẫu đan của cô. Cô nhắc lên lạ lẫm nhìn lưỡi kéo. Cô đưa lưỡi kéo lọt qua kẻ ngón tay và nắm chiếc kéo như một con dao, ánh mắt long lên dễ sợ. Cô cúi nhìn ngọn đèn, ánh sáng toả lên khuôn mặt của cô. Cô chậm chạp đưa chiếc kéo lên và đặt nó vào trong lần áo.
Tiếng gõ ngoài cửa vẫn tiếp tục. Cô nghe có tiếng gọi cô. Cô nghiêng người qua cái đèn trong giây lát rồi đột nhiên thổi tắt nó. Căn phòng tối đen ngoại trừ một đóm đỏ phát ra từ cái lò. Cô mở cửa, giọng nói của cô ngọt ngào nhưng thiếu tự nhiên. Cô nói, “Tôi đến đây, Thiếu úy, tôi đến đây!”
1) Christian Johann Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ lớn người Ðức. Nhiều bài thơ của ông được hai nhà soạn nhạc nổi tiếng Franz Schubert và Robert Schumann phổ nhạc. Ðoạn thơ trên trích trong bài “Mit deinen blauen Augen” do Louis Untermeyer dịch ra tiếng Anh:
Yours eyes’ blue depth are lifted,
With love and friendship stirred.
They smile; and lost in dreaming,
I can not speak a word.
Your eyes in their deep heavens
Possess me and will not depart;
A sea of blue thoughts rushing
And pouring over my heart;
(ND)