Phần 14 - 15
Tác giả: Kazimierz Korkozowicz
NHỮNG GHI CHÉP CỦA A-NA-XTÔN XAR-NA
Địa chỉ nhà nghỉ trọ “Nhạn trắng được ghi ngay ngắn trên bến đỗ xe taxi, ở cạnh nhà xe. Nên chỉ mười phút sau, mình đã thuê xe đến tận nơi cần tìm.
Nhà nghỉ này là một biệt thự hai tầng, xây dựng từ năm 1910, mái đã sứt mẻ lỗ chỗ, tường mặt trước hình bán nguyệt, nằm sát bên một vườn hoa, chạy dài dọc bãi tắm phía nam. Bây giờ đã là giữa tháng chín nên mọi chuyện thuê phòng mình chẳng hề gặp khó khăn gì. Một cô gái tóc đen xách va li mình lên tầng trên, sau khi hứa là sẽ dọn ngay cho mình bữa ăn sáng. Mình nhận phòng, rồi chạy ngay vào phòng tắm, mở gương sen. Khi đã tỉnh táo liền xuống ngay phòng ăn.
Quả thực, bữa ăn sáng đã được dọn sẵn. Đang cuối mùa tắm biển nên trong phòng chỉ kê lác đác vài chiếc bàn ăn. Vừa ăn, mình vừa đưa mắt dò tìm viên quản đốc hoặc chủ nhân của ngôi nhà nghỉ. Lát sau, đã biết được chủ nhân là một phụ nữ, đang ngồi trong góc phóng. Bà đang trò chuyện với một người đàn ông. Mình chờ một dịp thuận tiện để tới gặp bà chủ. Mãi sau, bà ta mới hết khách. Thế là mình đứng ngay dậy, bước lại. Cái gật đầu đáp lễ khiến mình bối rối: hình như bà ta đã để ý đến mình ít nhiều gì đây thì phải.
- Tôi đang gặp những khó khăn – mình mở đầu câu chuyện đã dự tính sẵn đâu đó lúc còn ở nhà – mà chắc khó lòng vượt qua nổi nếu không có sự giúp đỡ của bà.
- Xin ông cho biết rõ hơn – bà chủ tỏ vẻ quan tâm.
Phòng ăn lúc này đã chẳng còn ai, nên mình có thể nói năng khá thoải mái.
- Tôi đến đây, rất lấy làm tiếc, không phải là để nghỉ ngơi, mà cũng chẳng phải để công tác – mình mỉm cười báo trước với bà ta – vì tôi chẳng phải là phóng viên, mà thanh tra cũng lại không nốt. Tôi chỉ là một họa sĩ ở Vac-xa-va… Đây, xin bà xem chứng minh – Mình chìa giấy tờ ra – cho nên, nếu tôi có hỏi bà về chuyện khách trọ thuê phòng ở đây, thì xin bà đừng ngại. Đấy chẳng qua chỉ là những quan tâm của riêng cá nhân tôi thôi ạ.
Người phụ nữ dừng mắt trên tấm giấy chứng minh một lúc, rồi ngước lên nhìn mình. Hai bên nhìn nhau đến cả phút đồng hồ. Cuối cùng, bà ta hướng mắt về phía khác, và mỉm cười. Đây là nụ cười đầu tiên hiện ra trên khuôn mặt nãy giờ vẫn bất động.
- Ông mở đầu câu chuyện quá ư trang trọng làm tôi đâm khó nghĩ, chẳng biết có giúp gì được ông không đây?
- Tháng bảy vừa rồi tôi có đến Xô-pốt. Dạo này cũng có một cô gái đến nghỉ tại đây. Cô ta cho biết là đã trọ tại nhà bà. Đây, bà xem, ảnh cô ấy đây – mình chìa bức ảnh ra, mà tim đập dồn dập, chờ phản ứng cửa bà chủ quán trọ.
- Ồ, cô El-mer đấy mà. Tôi còn nhớ cô ta rõ lắm. – vừa nhìn bức ảnh, bà đã reo to.
Mình thở phào nhẹ nhõm
- Vâng, chính cô An-ca El-mer… - mình nhắc lại với vẻ đắc ý, vì rốt cuộc rồi cũng biết được họ của cô ả - Chúng tôi – mình nín lặng một lát – rất thân nhau, vì thế An-ca đã tặng tôi bức ảnh này… Ở mặt sau An-ca viết… xin bà tự đọc lấy để tin chắc là tôi nói thật…
Bà chủ lật mặt sau tấm ảnh và nhẩm đọc những lời do chính mình viết khi còn ở Vác-xa-va, trù liệu sẵn trước cho cuộc trò chuyện này: “Tặng A-na-tôn để anh đừng chóng quên em – An-ca”, phía dưới ghi ngày tháng.
Trong ánh mắt bà mình đọc thấy những ánh lửa hân hoan, khiến mình càng thêm hy vọng.
- Thôi, được rồi, thế anh cần tôi giúp gì nào.
- Tôi sắp nói đây ạ. Lúc chia tay, vì, thật đáng tiếc, tôi phải đi trước, An-ca có trao địa chỉ của cô ấy ở Vác-ca-va, nhưng phiền một nỗi là tôi đã đánh mất ạ.
- Tôi cũng lấy làm ái ngại cho anh thật. Nhưng nếu thế thì tôi sẽ giúp được gì đây?
- Tôi chợt nhớ là trong sổ đăng ký ở chỗ bà đây thường vẫn ghi địa chỉ thường trú của khách. Thế là tôi vội vàng lên tàu, đến đây tìm bà…
- Chỉ vì cái địa chỉ ấy mà anh đến tận đây sao?
- Tôi làm sao lại có thể để mất một cô gái như thế được kia ạ.
- Tìm đến phòng chỉ dẫn ở Vác-xa-va có phải tiện hơn không nào?
Câu hỏi ấy thì ngay từ lúc còn ở nhà, mình đã chuẩn bị sẵn trước rồi nên bình tĩnh đáp ngay:
- Thế bà tưởng tôi không đến đó sao? Khốn nỗi, phụ nữ có cái tên như cô ấy phải đến hàng chục. Với lại tôi không biết chắc: An-ca có phải là cái tên thân mật để gọi An-na hay không.
- Chà, trai trẻ có khác! – bà chủ cười khanh khách và đứng lên – Anh chờ cho một lát nhé, tôi tìm được ngay đây.
Bà trở lại với quyển sổ bìa đen trong tay rồi đặt nó xuống trước mặt mình.
Có được địa chỉ, mình trở về Vác-xa-va ngay với hy vọng là cuộc truy lùng cô ả đáng nguyền rủa này chỉ nay mai thôi sẽ mang lại kết quả. Mình cũng mừng thầm là đã gặp may vì chỉ còn sáu ngày nữa là Tê-rê-da đã trở về. Mình đến nhà lúc gần nửa đêm nên không thể tính ngay đến chuyện đi thẳng đến cái địa chỉ vừa tìm được trong quyển sổ đăng ký khách thuê phòng của nhà nghỉ trọ.
Sáng hôm sau, mình vội vã lên đường ngay.
Mở cửa cho mình là một bà đứng tuổi, bé nhỏ và gầy gò, mái tóc quăn trên đầu đã đỉêm bạc. Mặt bà đầy những nếp nhăn nhưng đôi mắt vẫn còn giữ được vẻ trẻ trung thời con gái.
- Gì mà bấm chuông bấm chiếc ầm ĩ lên thế - bà nói gắt gỏng thay cho câu chào, vì quả thật mình giữ tay trên nút bấm chuông có hơi lâu do lòng phấn chấn.
- Xin bà vì chúa mà thứ lỗi cho. An-ca có nhà đấy chứ ạ?
- Ôi dào, lại chuyện gì thế hả? Tôi đã trả lời với các ông rồi đấy thôi.
- Trả lời bao giờ mà “đã” thế ạ? – mình ngẩn người ra – Cháu có một chuyện riêng cực kỳ quan trọng liên quan đến cô ấy.
- Anh ở đằng Cục công an đến chứ gì?
- Ở đâu kia ạ? Lẽ nào bà không nhận ra cháu là loại người gì sao? Chà, đứng ở phòng ngoài mà trò chuyện thế này e bất tiện bà nhỉ…
Bà ta liền đưa mình vào một căn phòng hết sức tinh tươm, với đủ các thứ rèm be bé trên cửa sổ, các thứ khăn bàn và những pho tượng nhỏ nhỏ bằng sứ trên bàn, trên tủ. Chỉ cho mình một chiếc ghế bành, rồi bà ta cũng ngồi ngay xuống một chiếc kế bên.
- Chuyện riêng gì mà quan trọng thế? Khéo An-ca lại có chuyện lôi thôi gì nữa phải không?
- Nghe bà nói, cháu biết ngay là cô ấy thường gặp những chuyện lôi thôi – mình nói trớ đi, để ngay từ đầu đã biết thêm được ít nhiều về cô An-ca nọ - Cảnh sát mà để mắt đến thì quả là chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành đâu bà nhỉ…
- Tôi cần quái gì cái chuyện hứa với chẳng hẹn – bà cụ lầu bầu, vẻ chẳng thân thiện tí nào – có điều với cậu cảnh sát đến đây, dễ thương thì có dễ thương thật nhưng dẫu sao cũng thấy khó ăn khó nói quá…
- Chà, xem ra thì cháu coi bộ khó thương lắm nhỉ? – mình thử đùa một câu cho không khí bớt căng.
- Tôi đâu ám chỉ đến cậu.
Câu trả lời khá gay gắt, chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành. Tuy thế, bà cụ vẫn bắt chuyện. Ném một cái nhìn rất nhanh từ đầu đến chân mình xong, bà cụ liền lên tiếng, trong khi hai hàng lông mày vẫn chau lại:
- Còn một người nữa cũng đã tới đây. Nhưng gã này tôi không ưa: nom hắn gian gian thế nào ấy. Tôi chỉ tiếp hắn trước ngõ, làm thế mà lại hóa hay kia đấy. Vì vừa ra khỏi đây, gã đã bá vai bá cổ ngay với cái lão gác đêm chết giẫm của khu chúng tôi, cả đời lúc nào cũng say bí tì, rồi đưa nhau vào cái quán đối diện kia – bà chỉ tay về phía một khung cửa sổ - bù khú, chính mắt tôi nhìn thấy mà.
- Thế cảnh sát họ đến hỏi về việc gì ạ?
- Một sĩ quan kia đấy, thiếu úy thì phải… Hỏi về con bé cháu nhà tôi, cũng muốn dò tìm chỗ nó đang ở hiện giờ. Nhưng tôi chẳng nói gì sất…
Bà cụ mỉm chặt môi, vẻ mặt tỏ ra rất kiên quyết. Xem thế đủ biết bà ta không muốn để lộ những gì mình biết về cô cháu yêu quý.
- Cháu xin trở lại với chuyện của cháu. Bà nghĩ sao, bao giờ thì cô An-ca lại ghé về?
- Nó đi nhưng chẳng bảo đi đâu, cũng chẳng bảo bao giờ về.
Câu trả lời làm mình ngao ngán. Nhưng nhớ lại những lời bà cụ buột miệng nói ra lúc nãy, mình vẫn cố gạn hỏi thêm.
- Thế có nghĩa là bà không thể cho cháu biết thêm được gì phải không ạ? Chuyện này đối với cháu hệ trọng lắm. Theo cháu, cả đối với An-ca nữa – mình nói thêm bằng một giọng nhiều ngụ ý.
Bà ta nhìn mình, mắt gườm gườm:
- Tôi sẽ báo cho cậu biết một đôi điều. Nhưng ít ra cũng phải cho tôi hay cậu là ai, cậu đến với mục đích gì đã chứ.
Ý kiến đó rõ ràng là xác đáng, nhưng trả lời thế nào thì mình chưa biết. kể hết tình cảnh câu chuyện lôi thôi của mình khéo lại làm cho cơ hội thành công giảm đi. Nhưng của đáng tội, cháu ruột của bà cụ cũng đã vì tình mà gây nên chuyện rắc rối cho bà, ấy vậy mà bà có ghét bỏ gì cô ấy đâu. Nghĩ thế, mình bèn quyết định nói thật.
Mình trình bày rõ mục đích cuộc viếng thăm này, lý do khiến mình phải đi tìm An-ca (dĩ nhiên là không thuật lại mọi chi tiết để bà cụ đỡ lo). Mình thấy cũng không nên ăn nói quá thẳng thắng, bởi thế, thay vì nói “đánh cắp”, mình dùng từ “lấy mất”.
Nghe xong, bà cụ cúi xuống và nói khẽ, giọng buồn rầu:
- Ra thế đấy… Ra cơ sự đã đến nông nổi này cơ đấy! Lúc đầu là cảnh sát, tiếp đến là gã du côn nọ, bây giờ đến lượt cậu… Bây giờ thì tôi tin người ta truy tìm nó không phải để có thêm một nhân chứng, như cậu thiếu úy cảnh sát bảo tôi. Rõ ràng là nó đã gây nên chuyện tày đình… Thảo nào lúc chia tay, nó không dám để lại địa chỉ. Cứ như là chạy trốn vậy.
- Cô ấy không để địa chỉ lại sao? – mình thốt lên với một giọng đầy chán ngán.
- Thì tôi đã bảo là không mà…
- Bà không thể mách giúp cháu cách gì để dò tìm chỗ ở hiện tại của cô ấy được sao? Ít ra cũng để báo cho cô ấy biết là cô ấy đang bị truy nã chứ.
Bà cụ ngẫm nghĩ một lát, rồi mới đánh liều cho biết:
- Hừm… Cậu nói đúng đấy, tôi tin cậu… Lúc đi qua phòng ngoài, nó có dặn thế này: “Nếu có thư từ gì thì dì gửi cho cháu đến hòm thư lưu tại bưu điện khu Pra-ha nhé…”. Hẳn nó muốn nói đến đứa bạn tên là Dô-xca Uây-xka-y-a đây. Cô ấy hiện sống tại quận Pra-ha, đường Gi-ma-lư, số nhà tôi quên mất rồi… Tôi không dám cho cảnh sát biết địa chỉ ấy, mặc dầu tôi nghĩ bụng thế nào An-ca cũng sẽ tìm đến đó… Cậu cứ thử xem, không khéo cậu lại gặp may đấy. Nhưng dù thế nào đi nữa, cậu cũng nhớ cho điều này, đừng đánh lừa tôi mà tội nghiệp cái thân già này.
- Tất nhiên, tất nhiên, xin bà yên tâm! Thành thật cám ơn bà đã giúp cháu.
- Hy vọng là cậu không hại An-ca. Nó chỉ là đứa ngốc nghếch, nhẹ dạ thôi, chứ chẳng phải là con kẻ trộm đâu, cậu ạ…
PHẦN 16
Chẳng có thư từ gì cả. An-ca chán nản bước ra khỏi bưu điện và dừng lại ngắm dòng người đang đi lại tấp nập trên vỉa hè. Cô muốn được hòa vào dòng người đó, rồi đi đến đâu thì đẹn, đi mãi mãi để được cảm thấy thanh thản, thoát khỏi cái cảnh sống buồn tẻ trong căn phòng bé tí, chật chội mà cô đang nương náu. “Mình nhớ là vườn bách thú ở đâu rất gần đây thôi – cô nghĩ – Sao lại không đi xem mấy chú gấu con ngộ nghĩnh, suốt ngày cứ ì à ì ạch trèo lên trèo xuống mấy cái cầu tuột bằng bê tông nhỉ?”. Nhưng cô cố thắng những điều đang cám dỗ mình, vì sợ những cuộc gặp mặt không ngờ, không cần thiết. Ra khỏi nhà để đến bưu điện thế này cô cảm thấy đã liều lĩnh lắm rồi. Chớ có dại dột lao đầu vào nguy hiểm mà làm gì, vì nhỡ ra một cái mà chạm trán với Vich-to hay với đám bạn nào đó trong cái băng của gã thì tính mạnh coi như đi đứt. Cô cũng bắt đầu hiểu rằng cái lối sống buông thả đã gây cho cô đủ mọi thứ lôi thôi và bây giờ đành phải cắn răng mà chịu đựng. Nhưng dẫu sao cô cũng phải trả thù đến nơi đến chốn cái kẻ đã dám đánh đập cô. Lúc này mà chạm trán hắn thì sẽ ra sao đây? Đã thế lại còn cảnh sát nữa chứ? Chắc chắn là người ta đang cố tìm chỗ tiền đó. Biết làm gì với nó đây? Khoản tiền đâu phải ít…
Suy tính kỹ lưỡng tất cả những chuyện đó, cô thấy mình nên trở về nhà. Cô biết là bây giờ ở nhà chẳng còn ai nữa. Dô-xca đang trực ở tổng đài điện thoại thành phố cho đến nửa đêm. Bà mẹ thì chưa đi làm về. Sẽ phải xuống bếp hâm lại món thịt ninh hôm qua còn thừa và đun nước pha trà. Sau đó, cứ thử mở ti vi xem có tiết mục gì không. Vì không quen chuyện nội trợ nên cái cảnh cô vừa vẽ ra trước mắt đó chẳng có sức hấp dẫn mấy.
Ngoài phòng treo áo vắng tanh. An-ca bước qua cửa quay, vào đến một gian phòng không rộn lắm nhưng sạch sẽ. Sau cái quầy dài nằm dọc theo bức tường hông của căn phòng, có một cô bán hàng đang đứng không. Chỉ có hai chiếc bàn con đang bận khách, còn bao nhiêu đều trống.
Cô ngồi xuống, mở thực đơn ra và bắt đầu thầm đọc. Ngay lúc ấy trên đầu cô vang lên một giọng nói nhỏ nhẹ, lịch sự một cách quá đáng.
- Thưa cô, cô dùng gì, xin cứ bảo ạ?
An-ca ngẩng lên. Trước mặt cô là một anh hầu bàn mặc áo bu-dông trắng bằng vải gai. Khuông mặt tươi cười đó, An-ca thấy quen quen, nên cô mìm cười đáp lại, rồi hỏi:
- Nom anh quen quá. Có điều tôi không nhớ là đã gặp ở đâu.
- Ở Bri-xtôn đấy ạ, cách đây ít lâu tôi vẫn làm ở đó.
- À, tôi nhớ ra rồi, ông là Di-u-tếch. Sao lại chuyển đến đây thế?
Nét mặt Di-u-tếch ỉu xìu ngay
- Bọn chúng đẩy tôi đi đấy, quân chết giẫm. Chúng nói tôi thu lạm tiền của khách… Thôi, mặc xác chúng, muốn nói gì thì nói. Uống đẫy vào rồi kiếm chuyện, chẳng cho ai làm ăn gì sất!
- Tôi hy vọng là ông chẳng phải ở đây ;âu. Vì Bri-xtôn đâu phải là cái hang chuột.
- Vâng, dĩ nhiên… Bây giờ tự dưng cô hóa thành như một bà quả phụ nhỉ?... Ai có thể ngờ được thế. Cô có cho tôi biết được không: kẻ nào đã gây nên thế? Cơ sự thế nào vậy?
Những câu hỏi kỳ lạ ấy làm cô sợ. Sao ông ta lại nói đến chuyện góa phụ nhỉ? Có chuyện gì xảy ra vậy? Khó khăn lắm cô mới giữ được hơi thở bình thường.
- Ông muốn nói đến Vich-to phải không? Chúng tôi chia tay nhau rồi… Lâu nay tôi có gặp lại đâu… - cô nói rất khẽ, cảm thấy mặt tái đi.
- Ra cô chưa tin sao? – Di-u-tếch cúi người xuống, rồi hạ giọng – Anh ta bị giết, cách đây hình như hai ba ngày rồi.
- Chết rồi ư? Vích-to! Trời ơi! Có lẽ người ta đồn bậy hay sao ấy, chứ có thấy báo chí đả động gì đén chuyện ấy đâu.
- Bậy gì nữa, báo hơi đâu đưa tin riêng về từng vụ. Một thằng bạn của Vích-to có ghé đến chỗ anh ta. Nhưng cửa đã bị niêm phong. Có điều, cả khu nhà đang kháo ầm lên về chuyện đó… Nhờ bà con hàng xóm mà cậu này hay tin đấy.
- Khủng khiếp quá! Khó mà tin được – An-ca cảm thấy choáng váng như sắp ốm – Ông Di-u-tếch, tôi chẳng còn nuốt nổi một thứ gì nữa đâu. Ông chỉ cho một cốc vốt-ka và tách cà phê thôi nhé.
Thấy mặt cô gái tái nhợt, người hầu bàn vội trở gót quay đi và chỉ một phút sau đã mang những món cô gái vừa đặt tới. Rồi, khi cô gái vừa lấy tiền ra trả và châm thuốc hút, thì ông ta liền tiến ngay sau bức bình phong, dùng che lối vào của gian bếp. Ông ta gật gật mấy cái liền để gọi cô bán hàng lại và bảo khẽ:
- Va-xka, cô trông chừng hộ tôi mười lăm phút nhé! Tôi đảo lại đằng kia tí rồi về ngay đấy – và không đợi cô kia trả lời, ông ta đã cởi phăng ngay chiếc blu-dông trắng ra, khoác áo vét-tông vào.
- Được, nhưng phải nhanh chân lên đấy. Muốn “cua” con bé kháu khỉnh kia chứ gì?
- Đâu dám. Ruột gan tôi còn ở chỗ khác kia. Tôi sẽ quay lại ngay đấy – Ông ta đẩy cái bình phong cho hẹp lại một chút nữa và nhìn vào phòng ăn.
Thấy An-ca đã đứng lên, ông ta liền ba chân bốn cẳng lao ra cổng. Rồi không để lỡ một giây, ông ta theo sát cô, trà trộn trong đám đông, nhưng cố không để cho mái tóc màu sáng mất hút khỏi tầm mắt.