watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Một Thuở Long Đong-Phần II - tác giả Mỹ Hiệp Mỹ Hiệp

Mỹ Hiệp

Phần II

Tác giả: Mỹ Hiệp

Mọi thứ giấy tờ đã xong, hai giỏ thực phẩm vừa đủ sức cho hai cánh tay chị. Chị cùng cha chồng lên đường. Các con chị gởi cho ngoại và dì trông nom. Ba ngày ba đêm trên chuyến tàu Thống nhất Sài Gòn - Hà Nội. Chị ngồi rồi đứng. Tiếng xình xịch của tàu lửa cộng thêm sự mỏi mệt của tứ chi tù túng không đi lại được, làm chị muốn nhắm mắt, nhưng tàu đông người quá, lại sợ mấy giỏ đồ thăm nuôi bị cuỗm mất. Ngồi lâu mỏi chân, chị rút chân lên thay đổi thế ngồi. Mấy phút sau, bỏ chân xuống thì đôi dép không cánh mà bay!


Tàu vào ga Hà Nội, đêm đã xuống, ánh sáng heo hắt vàng ố trong sân ga. Cái lạnh cắt da thịt tháng giêng, chị rùng mình nghĩ ngợi, làm sao sống được nơi nầy! Nhìn xe bán bánh bao. Những chiếc bánh trắng nghi ngút khói. Đang lạnh và đói, những tuyến nước bọt trong miệng chị trào ra, nó len lén bò quanh vành môi:
- Tôi mua năm cái.


Sau khi trả tiền, hai cha con tìm chỗ ngồi ăn. Chị đưa chiếc bánh nóng kề môi, hơi nóng tỏa ra, môi chị dần dần ấm lại. Khí trời lạnh quá làm nguội bánh ngay trong giây lát. Chị cắn miếng bánh. Ngậm không nhai được, mùi gì khai nồng quá độ. Có lẽ là mùi khai bột nổi. Ăn không chết đâu, nếu ăn chết sao họ dám bán công khai vậy! Nước miếng làm bánh mềm, chị nuốt vội. Cắn tiếp miếng thứ hai, ngậm phải miếng thịt. Ôi! Tanh sao mà tanh quá! Chị quay sang hỏi cha chồng:
- Ba! Ba ăn thấy sao? Tanh mùi gì quá con muốn ói. . .

Ở đây thịt bán theo tem phiếu, theo tiêu chuẩn, thịt đâu ra để làm bánh! Chỉ có cá ế, chợ tan rồi người ta mua gom về làm nhân bánh thôi!


Phút giây nầy chị ao ước có một củ khoai mì thiu nuốt dễ hơn cho đỡ đói. Đã chín giờ tối, chị mặc thêm chiếc áo len, nhưng cũng cảm thấy lạnh như mình chưa mặc gì cả. Gọi xe xích lô đến khách sạn. Khách sạn không còn phòng trống. Người quản lý khách sạn cho biết sau mười hai giờ có người sẽ trả phòng. Ba chồng chị lẩm nhẩm tính, còn ba giờ nữa: " mình đợi vậy!" Ôi! Làm sao chị đợi được! Chị tưởng tượng sẽ hóa đá khi phải ngồi trước thềm khách sạn nầy thêm vài giờ nữa. Chị đang như ngồi trong tủ lạnh. Đôi dép đã mất trên tàu lửa, hai chân chị giẫm trên gạch đá mà tưởng chừng như trên những tảng băng. Ba ngày không rửa mặt súc miệng, không tắm rửa, chị nghe như có con gì ngọ nguậy trong châu thân.


Ba ơi! Hình như Ba có quen người ở Hà Nội nầy, Ba gọi xe cho con tới đó. Con sắp chết cóng đây!


Nhẫn vừa nói, môi đánh bò cáp, hai hàm răng cụng nhau côm cốp, chị rên hừ hừ.


Ngần ngừ mấy giây, cha chị gọi xe, hai cha con đến nhà Dì Dượng Hàn ở phố Hàng Buồm. Dì Dượng ở nhà tập thể. Tầng dưới là nhà giữ trẻ, từng trên chia ra làm nhiều phòng, mỗi phòng là một gia đình. Dì duợng có hai người con trai, chỗ ở thật chật chội. Có lẽ ba chị đã từng nghe dượng tả qua, nên ông ngần ngại không muốn đến làm phiền. Riêng Nhẫn thì mừng hết biết, chị được tắm qua loa, được thay bộ đồ đã mặc ba hôm, được có chỗ đặt hai giỏ đồ không sợ ai cuỗm mất mà chị mong mỏi trao đến tay chồng. Dị Dượng nầy tập kết ra Bắc năm 1954. Biết Nhẫn đi thăm nuôi chồng, họ gom thuốc lá thuốc tây trong nhà đem tặng chị. Thấy chị đi chân trần, bà Dì cũng cho chị đôi giày mới, bà đã mua chưa hề mang. Chị sung sướng nhất là tránh được giá buốt ngoài trời. Sáng hôm sau hai cha con ra sân ga mua vé tàu đi Vĩnh Phú.


Nầy, đưa giấy tờ Ba giữ, mầy ngồi đây coi mấy giỏ đồ, để tao vào mua vé. Cẩn thận nghen. . .! Cha chồng căn dặn trước khi chen vào quày vé.

Sau khi nắm được hai vé tàu trên tay, chen được ra ngoài sân ga cũng đủ đổ mồ hôi hột vì làn sóng người xô đẩy. Kẻ cố chen vô, người cố trở ra. Đến chỗ Nhẫn ngồi đợi, Cha chồng chị phát giác cái bốp của ông đã bị mất rồi. Ông đến gặp công an Ga cớ mất giấy tờ.


...Tiếng còi hụ vào Ga, Nhẫn cuống quít vì thấy người trên tàu đông lúc nhúc, Họ đeo hai bên cửa lên xuống như đàn kiến bò kín lối. Cha chị leo lên tàu qua cửa sổ, người bên trong xô đẩy ông bật ra. Ông nắm được bệ cửa, gồng hai tay, mang hai giỏ đồ, đong đưa người nửa trong nửa ngoài trên thành cửa. Nhẫn đứng chết trân dưới sân Ga. Chị biết trăm phần mình không thể nào lên tàu được. Con Tàu chuyển bánh một cách chậm chạp, rồi dần nhanh. Nhẫn run bần bật khi biết chắc chị bị rớt lại trên sân Ga xa lạ nầy. Bỗng, một cánh vạm vỡ ôm cứng người chị từ phía sau lưng, đưa người chị lên cao. Nhẫn hốt hoảng há hốc mồm. Nhưng khi thấy nhiều cánh tay của những người đứng ngay cửa lên xuống đưa ra, tay kia ôm chặt thanh sắt bệ cửa. Nhẫn lẹ làng chụp ngay cánh tay họ. Người đàn ông dưới đất chạy theo con tàu, tay đưa chị cao hơn ngang với bực cấp để chị có thể bước lên. Họ nhường chỗ cho chị và nghe có tiếng bảo đi tiếp vào bên trong. Chị làm theo như đó là mệnh lệnh! Vào được bên trong toa, chị cũng nghe được lời cha chồng hỏi:
- "Nhẫn! mầy lên được rồi phải không?
- Dạ!"


Nhẫn chưa qua cơn xúc động mạnh, nước mắt chảy ròng, chị cắn chặt môi, nhưng nước mắt từ đâu cứ tuông mãi. Chị muốn cám ơn những người xa lạ ngồi quanh nàng. Cám ơn ai đó đã nhảy xuống Tàu giúp chị mà chị chưa nhìn thấy mặt. Chị nghe nhiều tiếng hỏi lao nhao. Chị không biết nên trả lời ai câu hỏi nào. Chị chỉ nói vỏn vẹn có một câu:
- "Họ bảo chồng tôi đi học tập mười ngày, rồi họ đưa ra tận đây!".


Sau đó chị không nghe ai hỏi gì nữa. Hình như từng ấy lời cũng đủ xác định chị là ai và lý do chị có mặt trên chuyến tàu nầy.


Đến ga Ấm Thượng, người chỉ còn lưa thưa, hành khách xuống dần dần từng Ga. Hai cha con mang hành lý xuống tàu, rời Ga rồi theo người hướng dẫn đến nhà tiếp tân được dựng bên bờ sông. Căn nhà tiếp tân làm bằng những tấm phên tre, lợp lá cọ sơ sài nhưng sạch sẽ. Hai cha con ngủ lại đó một đêm vì lúc đến trời đã khuya. Sáng hôm sau, chị cũng có vài gia đình làm bạn đồng hành, nhưng họ không đến cùng một phân trại. Kẻ đến K 5 người đến K 1 . .Tuy nhiên ai đến K nào thì cũng phải qua đò đi Bến Ngọc. Đò chạy bằng máy đuôi tôm, dọc theo sông chị thấy những cô gái Bắc chống mãng, mãng làm bằng những ống bương ghép với nhau. Họ lướt nhanh trên dòng nước không thua thuyền máy.


Lênh đênh trên chiếc đò nhỏ, Nhẫn nhớ đến truyện "Anh Phải Sống" của Nhất Linh mà chị đã học năm đệ thất. Cảnh tang thương của một gia đình nghèo đi vớt củi trôi vào mùa nước lũ. . .Nhìn dòng nước đục ngầu, Vì không biết bơi nên lòng lo lắng. Trong phút giây nầy chị mới thấy rõ một hình ảnh mà Nhất Linh đã ví chiếc bè của vợ chồng Thức trôi trên sông Nhị Hà " Như chiếc lá khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son. . ." Thuở ấy, tuổi lên mười,mười một, trí tưởng tượng của chị nào đủ phong phú để hình dung ra được. Giờ đây, ngồi trên chiếc đò nhỏ chở đầy người, mặt nước lấp xấp mạn truyền đang trôi trên dòng sông nước đục đỏ ngầu chị mới nhận ra! Nhưng chị đâu có tâm trí nào để thưởng thức cảnh hùng vĩ sông núi quê hương.


Rời Bến Ngọc, Nhẫn thấy một chiếc xe trâu đợi sẵn. Các chị cùng đi đường xầm xì to nhỏ với nhau: "người đánh xe trâu nầy cũng là bạn tù cải tạo!" Chị được để hai giỏ đồ lên xe còn người thì đi bộ, đi mãi đến chiều tối mới đến K 2, nơi chồng chị bị giam. Trại tù Tân Lập, thuộc tỉnh Vĩnh Phú, nằm giữa dưới thung lũng núi bao bọc xung quanh thật hiểm trở. Dọc đường rải rác một vài túp nhà lợp lá cọ của dân. Đường xa, bụng đói, chị vào hỏi thăm mua thức ăn. Nhưng nhìn quanh thấy trống trơn. Quán nước chỉ có bán nước chè xanh và thuốc lào! Trời lạnh, hai hàm răng chị đánh vào nhau kêu lộp cộp, chân bị chuột rút không đi được. Vậy mà trẻ em đi học chỉ mang trước ngực một nồi đất nhỏ có vài đóm than lửa, khoác chiếc áo mỏng manh tay cầm lá cọ che mưa trông giống hình ảnh chú ếch che dù trong tranh hí họa!


Đi bộ suốt ngày mỏi mệt nhưng ai cũng nôn nao trông mau trời sáng để sớm gặp chồng, không chị nào chợp mắt được. Trong bếp nhà tiếp tân chỉ có ba miếng gạch kê phía sau, một vài cái nồi cũ méo mó. . .Nhà tiếp tân bên một dòng suối nhỏ, nước trong veo nhìn thấy rõ những con cá to bằng cái đĩa bơi lội tung tăng. Hình như chúng không sợ người. Nhẫn lội xuống lấy nước mang về dùng. Đàn cá cứ nhởn nhơ trước mặt. Có lúc chúng đùa nhau chạm vào chân, chị đưa tay chụp thì không thể nào bắt được. Chị đặt tên cho chúng là đàn cá ma!


Buổi sáng, chị dậy sớm nhóm lửa nấu một nồi xôi đậu xanh có cho bơ và đường giống như xôi vò. Chị vắt từng cục bằng nắm tay để chồng chị có thể chia cho vài người bạn cùng ăn lấy thảo. Nửa giờ gặp mặt, vợ chồng đối diện nhau trên một bàn dài, hai đầu bàn có hai ông cán bộ. Chị không dám nói gì, chỉ sợ họ nghi ngờ rồi sau đó làm tình làm tội chồng. Chồng chị tuy gầy nhưng đôi mắt còn tinh. Lựa lúc chộn rộn, thân nhân từ giã tù. Chị đứng sát, hỏi nhỏ vào tai chồng:
- " Anh thấy có hy vọng gì ngày về không?"
Chồng chị trả lời:
- " Em đừng hy vọng!"


Tên cán bộ quát tháo chấm dứt giờ thăm nuôi. Anh Tâm xách hai giỏ đồ đi về hướng trại tù, chốc chốc quay đầu nhìn lại. Chị cố cười thật tươi để anh mang theo hình ảnh nầy đi vào giấc ngủ đêm nay, chị nghĩ thế!


Ra khỏi cổng trại tù, Nhẫn cố bước nhanh, nhưng đường trơn tuồn tuột. Chị phải cố bấm mười ngón chân vào bùn cho khỏi ngã. Cơn mưa bụi tháng giêng, những hạt nước nhỏ mong manh bám trắng dày trên quần áo, trên mặt mũi, đồng tình với những giọt nước mắt tuôn ra dầm dề. Chị không lau, ngửa mặt đón nhận những giọt nước lạnh tê tái. Lúc ra đi, chị háo hức gặp chồng, sẽ được nghe những lời động viên an ủi, để chị nuôi niềm hy vọng, can đảm chống chọi với bao sóng gió cuộc đời, những đêm dài trằn trọc cô đơn chiếc bóng, gói mền lạnh tanh. Chị vọng tưởng những ngày gia đình sum họp, hạnh phúc đó có còn trở lại hay không? Lời nói của chồng như nhát búa chặt đứt, đốn ngã điểm tựa. Chị chới với và người lao đao ngã quị. Trở lại Bến Ngọc, Nhẫn tựa hồ như không đứng vững nữa, đầu óc choáng váng, mắt hoa lên. Suốt ngày bụng đói không có món gì. Ngay buổi sáng này, chị nấu xôi cho chồng nhưng không ăn miếng nào. Chị nằm dưới gốc cây miên man suy nghĩ:

- "Không lẽ mình chết ở đây, xác chôn nơi hốc núi nầy, hay mẹ mình phải lặn lội muôn dặm đường xa để đưa xác về quê. Chuyện người đàn bà đi thăm nuôi chồng, bị trúng độc trên chuyến tàu lửa sau khi ăn cái bánh chưng, xác chị ấy được đưa vào bịnh viện Bạch Mai. Những người bạn đồng hành đã thay chị mang quà vào chốn lao tù cho chồng chị, nhưng chỉ báo cho anh biết là chị ốm thình lình phải vào bệnh viện. Biết bao cái chết với nhiều lý do khác nhau trên đoạn đường thăm nuôi nầy. Thượng đế có thấu chăng! Chị khấn vái xin thần núi linh thiêng phù hộ cho chị được trở về các con đang trông chờ, che chở mạng sống cho chồng được sớm kết thúc cuộc lưu đày!"


Trong đám người từ dưới đò bước lên, họ cũng là những người từ Nam ra thăm tù. Một cụ già quần xoắn tận đầu gối, trơ hai ống chân khẳng khiu như hai khúc củi khô, nhưng bước đi của bà cứng cỏi vững vàng. Bà bước lại gần Nhẫn hỏi:
-" Cháu bị trúng gió hay sao mặt mày tái xanh vậy?"
- " Con đói và lạnh quá, suốt đường dài từ sáng đến giờ không gặp ai bán thức gì để mua ăn!"


Bà lão lấy trong túi lọ dầu thoa cho chị và đưa mấy viên thuốc bảo uống. Chị nghe lời không đắn đo, linh cảm bà là vị cứu tinh. Uống thuốc vào, khoảng một giờ sau, chị thấy người khỏe và xuống đò trở lại Ấm Thượng. Đến Ấm Thượng chị mua thức ăn và khỏe dần. Từ ngày có người đi thăm nuôi, ga Ấm Thượng ngày thêm nhộn nhịp và khởi sắc, có bán gà sống, mua ngay ở đây đem vào trại thăm nuôi cũng tiện, giá cũng không mắc lắm!
Một Thuở Long Đong
Phần I
Phần II
Phần III