Phần I
Tác giả: Mỹ Hiệp
Sau khi chiếm trọn miền Nam Việt Nam, ngày 30-4-1975, nhiều chiếc loa phóng thanh được đặt ở nhiều địa điểm suốt ngày loan: " Không được động tới cây kim sợi chỉ của dân". Những binh sĩ, quân cán chính của chế độ cũ học tập ba ngày tại nơi cư trú và sau đó được cấp giấy tờ để trở về cuộc sống dân sự lo làm ăn. Lòng Nhẫn hoang mang, nhưng cũng mong mau tới ngày chồng chị cũng học tập như mọi người rồi sau đó yên tâm kiếm chỗ định cư lập nghiệp, lo cho ba đứa con.
Lệnh của Ủy Ban Quân Quản thành phố Saigon thông cáo: những Sĩ Quan của chế độ cũ phải trình diện, mang theo tiền bạc lương thực cho mười ngày học tập. Một nỗi nghi ngờ lóe lên trong đầu, nhiều lúc muốn hỏi ý chồng có tin được không? Rồi lại ngần ngại, kẻ biết trước giờ chết đau khổ hơn cái chết đến với họ thật bất ngờ. Chị chỉ đưa ý kiến sẽ đem con về sống với ngoại ở Ninh Hòa. Chồng chị trả lời: " Anh không tính được gì cả cho đến lúc anh ở tù về".
Gom góp hết số tiền còn lại của chị đưa cho chồng. Một túi xách nhỏ, một chiếc mền mỏng, vài bộ đồ, khăn mặt bàn chải đánh răng, một cục xà phòng. Đó là hành trang với lời căn dặn: " Áo quần dơ anh đừng giặt, chừng mười ngày về, em giặt cho".
Vợ chồng chị chia tay không nói với nhau một lời. Anh cầm tay chị bóp mạnh. Anh xoa đầu các con dặn: " Ở nhà nghe lời má!" . Một nỗi cảm xúc nghèn nghẹn chận ngay cuống họng, không ai nói được lời gì.
Mười ngày dài chị đếm từng giây phút trong nỗi lo âu với sự nghi ngờ, từng đêm khắc khoải. Chị mong đợi mười ngày định mệnh qua nhanh để biết hậu quả thế nào. Ngày thứ mười chị bồng con đứng đợi, suốt ngày không thiết tha đến bữa ăn, cứ ngóng mắt trông từng chiếc xe trờ tới, chị cứ nghĩ là chồng chị về. Đợi mãi đến cuối ngày, mười một rồi mười hai giờ. Tiếng chuông đồng hồ báo hiệu qua ngày mới, Chị tức giận òa khóc, khóc tức tưởi. " Biết ngày nào gặp nhau, mình sẽ sống như người đàn bà góa bụa ở tuổi hai mươi lăm nầy sao?" Giờ đây đứa con ôm mẹ bú là giây phút hạnh phúc nhất còn lại, giúp chị vơi bớt nỗi cô đơn trong đêm dài thanh vắng.
Phiền muộn vất vả, cho con bú không có món ăn dinh dưỡng, chỉ vài tháng sau, Nhẫn đã thành người đàn bà ốm gầy khô đét. Hai bàn tay bị xà phòng ăn rướm máu, mà ngày nào cũng phải giặt hai thau đồ dày của đàn ông lẫn đàn bà, nước mắt hòa với máu đổ ra trên những đống quần áo dơ. Chị cúi mặt cam chịu sống nơi đây để đợi chờ tin tức, chị mong cánh thư chồng gởi về từ trại giam nào đó, để biết rồi an tâm ra đi.
Ôi! Thật là họa vô đơn chí! Thằng con lớn năm tuổi lại bị bệnh, nó ngủ liên miên suốt ba hôm rồi không dậy được, đầu lúc nào cũng hâm hấp nóng. Cho nó ăn cháo, nó không muốn ăn.
Để con ngủ
Con phải ngồi dậy ăn rồi ngủ. Ngủ đói chết sao?
Nó không ngồi dậy được. Công việc nhà không ai phụ giúp. Chị lo bữa trưa cha chồng đi làm về, em chồng đi học về mà cơm chưa nấu. Thế là đành bỏ con nằm một mình. Buổi chiều nó lên cơn sốt. Không có tiền đưa con đi Bác Sĩ, chị bèn thưa với mẹ chồng:
- Má có thuốc nhét đít cho trẻ con không? Cho con một viên, thằng nhỏ nóng quá!
Mẹ chồng chị chuyển lời hỏi ý chồng. Ông ngần ngừ đắn đo mấy phút, xoay lưng, cố lờ như không nghe, rồi quay qua nói với vợ:
- Có! Nhưng để giành cho con con Trúc!
Nhẫn nghe lọt lời ông nói nên mạnh dạn lên tiếng:
- Ba ơi ! Cho con xin một viên thuốc giảm nóng cho thằng nhỏ, nó bệnh đã ba hôm rồi. Cháu ngoại Ba đang khỏe mạnh ăn chơi, biết đợi đến lúc nào cho nó bệnh mà dùng?
Mẹ chồng nói:
- Ông đưa cho nó đi!
Suốt đêm, chốc chốc chị đưa tay lên sờ trán con, mắt Nhẫn lờ mờ như có màng sương mỏng, hình ảnh cha già với lời căn dặn:
- Con à! Lúc ông nội con còn sanh tiền có căn dặn con cháu mai sau lập nghiệp thì đi vô theo hướng Nam.
- Sao vậy Ba? Lời Nhẫn hỏi cha.
Từ đây đi ra là miền Trung, ra nữa là miền Bắc, đất đai cằn cỗi, mưa lụt mỗi năm, dân chúng khó làm ăn, lại thêm chiến tranh liên tục, tâm tình con người dần dần biến đổi theo sự khó khăn trong cuộc sống, cách sống của họ không rộng rãi, lúc nào cũng phải thắt lưng buột bụng, có cái gì cũng cho vào ruột tượng cột chặt vào lưng.
Chị ôm chặt con vào lòng, nước mắt chảy dài. Chị tự trách mình đã không nghe lời cha căn dặn. Đưa tay sờ trán con, chị cảm nhận nhiệt độ có phần giảm dần. Ngày hôm sau em gái chị từ Ninh Hòa vào thăm:
- Má nằm mơ, đêm nào cũng thấy chị liên tục suốt mấy đêm liền, Bà sốt ruột bảo em nghĩ bán hàng vô Sài Gòn xem chị ra sao!
- Cháu bệnh nặng nên chưa đưa con về thăm má được.
Trước khi về quê em chị để lại tiền, chị mang con đi chữa bệnh. Đứa bé thuyên giảm dần sau khi chị đem nó đến Bác Sĩ Mẫn, phòng mạch trên đường Nguyễn Tri Phương. Ôi sung sướng nào bằng khi thấy con ăn nói đùa giỡn.
Chị khe khẽ bảo nhỏ với con: " Ráng ăn cháo cho khỏe rồi má dẫn về ngoại ăn me!"
Tiếng ầm ĩ quát tháo dưới nhà cắt đứt niềm hạnh phúc nhỏ nhoi của mấy mẹ con. Nhẫn vội rời con đứng lên, đầu đập mạnh vào trần nhà cái bốp. Mắt té đôm đốm, đầu óc quay cuồng, vài phút mới định thần được. Mẹ con chị đang ở trên gác xếp chiều cao chỉ bằng người ngồi, vì lật đật chị quên bẵng đi. Vừa đặt chân xuống thang gác, chị nghe tiếng ông cha chưởi:
- Đồ thứ đàn bà hư, không nấu nổi bình nước sôi!
Có lẽ trước đó ông nói nhiều nữa nhưng chị không nghe được, đầu chị còn lùng bùng tưởng chừng nứt sọ vì va đầu vào tường quá mạnh. Nhẫn trả lời:
-Con đã nấu nước sôi rót đầy bình thủy, sau khi nấu xong bữa cơm chiều, ngày nào cũng vậy; có lẽ cô Bốn dùng nước nóng tắm cho các con cô rồi!
Miệng trả lời, tay chị vội vàng nhóm bếp lửa. Với nhiệt độ nóng hơn 110 độ F, sống trong căn nhà chung cư không có cửa sổ, cũng không có cửa hậu, khác nào ở trong phòng tằm hơi. Mồ hôi toát ra nhiều, người khỏe, không phải tốn tiền thuốc.
Chị ngẫm nghĩ:
" Thương chồng phải lụy nhà gia,
Chứ ta với họ có bà con chi!'
Chân dợm bước ra mà lòng lại bùi ngùi không dứt, tiếng kêu của con tim níu kéo dằn co, chị cầm nán lại đây đợi tin tức chồng. Hàng ngày sau khi mọi người trong nhà đã xong bữa cơm trưa, chị thu dọn rửa chén bát, chùi nhà. Dặn dò đứa con lớn cho hai em đi ngủ, chị đến xưởng dệt chiếu tập làm ăn công điểm mỗi ngày vài tiếng để kiếm ít tiền. Ngày lại ngày qua chị giống như con thoi trên khung cửi dệt, khung chiếu nầy xong lại mắc thêm khung nữa, cứ thế và cứ thế mãi. Mấy tháng sau, chị nhận được thư chồng báo tin cho thăm nuôi tại Trại Long Giao. Nhẫn đưa cả ba đứa con cùng đi. Chị cho chồng biết sẽ đưa con về ở bên ngoại, anh đồng ý.
Căn nhà tôn vách đất vừa mới dựng. Nơi đó phát ra tiếng khóc trẻ thơ tiếng võng kẻo kịt, tiếng ru con. Âm thanh đơn độc trong buổi trưa hè, Thiện nghe ray rức buồn:
- " Ầu Ơi. .. Chim xa bầy thương cây nhớ cội, người xa người tội lắm trời ơi. . .!"
Có lúc tiếng hát bỗng im bặt, anh ngần ngại đứng lại trên con đê hẹp hai bên ruộng lúa nặng trĩu hạt chín vàng. Đưa tay suốt vài hạt thóc bỏ vào mồm cắn, anh lẩm bẩm " nhờ trời năm nay được mùa lúa, hạt chắc nụi!". Con đê nầy bảy năm trước đây, chiếc xe anh đã mòn bánh. Mảnh vườn kia chính tay anh đã xới đã trồng những bụi hoa huệ, hoa tường vy, hoa bán dạ hương. Những đóa pensé, những đóa hồng nhung anh đã trân quý đem từ Đà Lạt về cắm vào chiếc bình trắng thủy tinh đặt nơi bàn học của nàng. Nàng cười hồn nhiên vô tư như không hiểu tình cảm sâu kín của anh. Nhà nào nay dựng trên mảnh đất nầy? Thiện mạnh dạn bước qua cổng vườn, băng qua mảnh đất ngày xưa trồng hoa huệ trắng nay chỉ là mảnh đất khô không một cọng cỏ. Đây rồi, nhà cửa đóng. Tiếng ru con lại cất lên:
" Qua cầu than thở cùng cầu. . .
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu. . .!"
Thiện đi lần về phía sân nhà, thấy cửa sổ mở. Anh đứng nép một bên nhìn vào. Trên chiếc võng, đứa bé miệng ngậm vú gục đầu bên ngực người đàn bà ốm khô. Chốc chốc đứa bé nhả vú khóc, người đàn bà tay xoa lưng con, cất tiếng hát, cố hát lớn hơn át tiếng khóc trẻ thơ. Tiếng thở của anh, anh nghe lớn quá, tiếng đập trái tim anh nghe tựa tiếng trống thình thịch. Sao lại thế nầy! Anh đưa tay mạnh dạn gõ lên thành cửa. Đợi chờ. Một phút. . .hai phút. . .năm phút! Cửa không mở. Nàng vẫn tiếp tục ru con:
" Qua đình ngả nón trông đình.
Ầu ơi. . .Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu!"
Thiện thở dài quay gót. Long anh chất nặng một nỗi buồn không tên!
Qua khung cửa sổ, bóng ai ngã dài trên sân đất. Bạn cũ, họ hàng, Nhẫn không tiếp đón một ại. Chị sống âm thầm với nỗi buồn riêng tư chất ngất. Chị không cần bạn bè an ủi, sau lưng chị thế nào cũng có đứa nói: " Cáo chết ba năm quay đầu về núi. !" Chị thầm nghĩ. Từ ngày chị nhận được thư chồng gởi về báo tin " Anh đang ở Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa", chị mất niềm hy vọng có ngày sum họp. Mình là vợ người tù bị đày biệt xứ. Mặc cảm của kẻ sa cơ, chị mang bộ mặt thách thức lạnh lùng với bạn bè ngày xưa cùng chung một mái trường, nhưng nay họ đội nón cối kè kè súng lục bên hông; cũng có thằng bạn trong chế độ cũ là sĩ quan được du học bên Mỹ, nay là kinh tài của chế độ mới! Nó mời chị nhận tiền để làm ăn, chị mỉm cười trả lời:
"Ngày xưa tôi không chọn anh và ngày nay tôi vẫn còn mang ý niệm đó! Cảm ơn tình bạn còn sót lại trong anh, nhưng anh đừng hy vọng thay đổi cục diện!"
Chị cố nuốt những giọt lệ sầu nếu có ai hỏi đến chồng chị. Không có vốn bán buôn, chị tập chằm (kết) nón lá. Dì của chị đưa tời nhà bà hai Cọt, bà nầy là chỗ thầu vật liệu làm nón lá, có bán nào: khuôn nón, lá, dứa, cước, dầu đánh bóng. . . Nhẫn vội bắt tay vào việc để kiếm tiền nuôi con. Chị theo học nghề từ bà dì và cũng nhờ dì làm giúp những khâu chị chưa làm được. Công việc của nghề nầy thật nhiêu khê và tỉ mĩ. Từ lúc gà vừa eo óc gáy xóm xa, chị đã thức dậy ủi lá, cắt và xếp lá, lựa lá có màu xanh non, đẹp thì xếp cho lớp ngoài, loại tệ hơn thì xếp vào lớp trong. Chẽ dứa ra thanh nhỏ rồi kéo những thanh nầy qua những lỗ tròn của thanh sắt được đục lỗ lớn nhỏ để làm vành nón. Mười sáu vành to nhỏ được đặt lên khuôn. Sau đó chị lợp những xấp lá đã lựa và chận lên một vòng giữ cho lá khỏi xê dịch. Chị bắt đầu khâu từng mũi một. Mới tập làm, kim đâm vào mấy ngón tay nứt thành những kẻ dài rướm máu. Chị dùng rẻo vải quấn lại nên công việc khâu nón trở nên chậm chạp. Thỉnh thoảng thằng con út đòi bú, sà vào lòng mẹ, té lên khuôn nón, làm vành bung khỏi khuôn. Nón làm xong méo xẹo, chỉ dùng đội ra vườn lúc trời mưa chứ không bán được.
Thời gian lặng lẽ trôi, thàng út lớn thêm một tuổi, chị thôi bú cho nó. Chị quyết định đổi nghề, gởi các con cho ngoại trông nom. Chị liều vào Sài Gòn hỏi mượn cha mẹ chồng một số tiền đi buôn hàng chuyến. Mua áo quần trẻ em từ Sài Gòn ra bỏ mối chợ Ninh Hòa. Ông bà ưng thuận. Chuyến thứ nhất chị kiếm lãi được 10%. Thật là quới nhơn đãi kẻ khù khờ, hàng về bán hết ngay trong vài ba hôm. Chị thâu được tiền trở vào mua chuyến khác. Như một tin sét đánh, cha chồng chị đòi lại số tiền và bảo:
- " Con Trúc bảo lấy lại tiền mua thuốc tây. . .!"
Chị trả ngay tiền lại cho ông và quay lại Ninh Hòa tay không. Thế là sau đó Nhẫn chỉ phụ em gái mua bán hàng nho nhỏ tại chợ.
Một hôm, chị ngạc nhiên quá, sao Bác Sáu cứ lẩn quẩn bên chị, giỏ thức ăn của Bác nằm đây không về nấu ăn, cá thịt ươn hết, chồng con đợi ở nhà. Chị muốn hỏi nhưng còn ngần ngại vì nhớ lại câu chuyện mẹ kể: " Nghe con đi lấy chồng xa, Bác Sáu ôm má khóc nói - "tôi có ý trông con Nhẫn hơi lớn lớn tí nữa sẽ hỏi cưới cho Thằng T., Sao chị gả nó đi xa. Con còn nhỏ, gả sao sớm vậy? " Rồi hai bà cùng khóc! Đắn đo vài giây, chị bạo dạn hỏi:
- Bác Sáu, Bác có đợi ai không?
Thằng T. bảo Bác ra xem con mua bán thứ gì nhà có thể mua về xài thì mua giùm con. Bác muốn ngồi đây chơi với con xem con buôn bán.
Ngày xưa, nhà T. và nhà chị đối diện nhau, ngày Tết Bác Sáu làm mứt chanh đẹp lắm. Bà thường gọi chị qua nhà dạy cách làm. Ngay cả đến ngày giỗ, Bác cũng để dành mâm thức ăn ngon, nhưng chị chưa bao giờ ăn mâm đó mà chỉ cho hai em gái qua thôi. Chị và T. cùng học một lớp.
Ban ngày chị gượng cười gượng nói cho mẹ già an lòng. Có lần chị nghe mẹ nói với em gái: " Chồng nó không về chắc nó điên!" . Đêm xuống con đã ngủ, chui vào mùng đắp chăn phủ đầu, chị khóc giọt dài giọt ngắn tha hồ tuông cho vơi sầu muộn.
Rồi có một ngày người đưa thư mang đến cho chị một tin vui. Chị được đi thăm nuôi chồng. Suốt ngày đêm chị miên man suy nghĩ sẽ mua món gì? Cám rang trộn đường - phòng ngừa phù thũng- Muối sả trộn bột ngọt - Trong rừng chắc là cần muối - Mắm ruốc xào sả ớt - Có thể để lâu không hư - Đường - Chắc là thèm ngọt lắm. Thịt chà bông -Món nầy mùi thịt thơm cám dỗ lũ con chị số một.
Ba đứa nhỏ cứ vây quanh chảo thịt, trời nóng bức mà chúng cứ ngồi sát bên lò, mắt thao láo nhìn. Mẹ nó dùng đũa trộn đều cho mau khô, chị lựa miếng nào có dính mỡ gắp cho vào miệng con, đứa khác nhìn chờ đợi, chị gắp miếng nữa cho vô miệng đứa kia, lây đũa trộn trộn, lựa miếng nào xâu xấu cho vào miệng đứa thứ ba. Ba đứa nhỏ chạy ra ngoài chơi mấy phút, nhai xong miếng thịt, mắt liếc liếc rồi cũng chạy vào nhìn chảo thịt thèm thuống. Chị lên tiếng:
- " Để gởi cho Ba chứ con!"
Chúng tản ra xa, nhưng cũng được vài phút thôi, lại trở vô bếp nói:
- "Con coi má làm thôi mà!".
Lòng thương con dào dạt, cũng bởi thiếu thốn nên con mình mới thèm như vậy. Thuở còn bé, cha mẹ mình không giàu có bằng ai, nhưng có bao giờ mình thèm món gì đâu. Bởi được cha mẹ cho ăn uống đầy đủ. . . Nước mắt chị ràn rụa, nhưng giả đò nói với con: " ngồi trong bếp nóng quá nên chảy nước mắt. Chị lấy đôi đũa sắt khua qua khua lại trên thành lò: " Sao không thấy cục than nào có khói mà làm mắt cay!" Con chị còn bé quá, không hiểu gì cả, tưởng mẹ nói thật. Chảo thịt khô rồi chỉ còn độ nửa lon guigô. Đọc lại bức thư của chồng, đọc mãi đọc hoài. Bức thư bao lần ướt nhão lại khô mà chị vẫn cứ quên không nhớ anh căn dặn những gì. Anh dặn chị mua bánh thuốc lào. Miền Bắc lạnh lắm nên anh quí thứ nầy! Hỏi mấy bà bán thuốc lá cho người ăn trầu -" Đây có bán thuốc lào không? " họ trả lời "không". Đi hết chợ chị không tìm thấy thuốc lào. Từ bé đến lớn chị không thấy ai ở quê chị hút thuốc lào nên không hiểu hình dạng nó ra sao. Chị chỉ thấy thuốc điếu, thuốc gói. Vô Sài Gòn hỏi mấy bà đi thăm nuôi trước, gởi tiền và nhờ mua giùm.