Chương 4 - 5
Tác giả: Natalie Babbit
Vào lúc hoàng hôn cùng cái ngày dài lê thê ấy, một người lạ mặt xuất hiện, đủng đỉnh từ dưới làng đi lên rồi dừng chân trước cổng nhà Foster. Winnie lại một lần nữa ở trong sân, lần này đang định chơi trò bắt đom đóm, và thoạt tiên cô bé không để ý thấy gã. Nhưng sau một hồi quan sát cô bé, gã lên tiếng, “Chào con!”
Gã rất cao và khẳng khiu, cái người lạ đang đứng đó ấy. Chiếc cằm dài của gã mờ dần đi dưới mớ râu lưa thưa gọi là có, nhưng bộ đồ của gã thì vàng chóe đến gần như hơi rực lên trong nắng nhạt. Một tay gã treo toòng teng chiếc mũ đen, và khi Winnie tiến lại, gã đưa tay kia lên vuốt lại mái tóc khô xám cho mượt. “Chà,” gã nói bằng giọng nhỏ nhẹ. “Con đang bắt đom đóm đấy à?”
“Dạ,” Winnie đáp.
“Bắt đom đóm vào một buổi chiều hè như thế này thật là đáng yêu,” người lạ tán dương. “Một trò chơi dễ thương làm sao. Hồi bác bằng tuổi con bác cũng thường chơi như vậy lắm. Nhưng tất nhiên là lâu lắm lắm rồi.” Gã vừa cười vừa đưa mấy ngón tay mảnh khảnh lên che miệng. Thân hình lênh khênh của gã động đậy liên tục; một chân gõ nhịp, một bên vai giật giật. Nó chuyển động xiên xẹo, khá nhát gừng. Nhưng đồng thời ở gã có một kiểu duyên dáng, như một con rối được điều khiển khéo léo. Quả thực nom gã gần như lơ lửng ở đó trong bóng chiều nhá nhem. Nhưng Winnie, dù đã gần như mê mẩn, bỗng giật mình sực nhớ đến mấy dải băng đen lạnh lùng trên cửa nhà từ hồi đám tang ông nội. Cô bé cau mày rồi nhìn người lạ kỹ hơn. Nhưng nụ cười của gã trông vẫn hết sức tự nhiên, dễ mến và thân thiện.
“Đây là nhà con phải không?” người đàn ông hỏi, hai tay giờ đã khoanh lại và tựa mình vào cổng.
“Dạ phải.” Winnie đáp. “Bác có muốn vào gặp ba con không ạ?”
“Có lẽ có. Một chút thôi,” gã nói. “Nhưng bác muốn nói chuyện với con trước. Con và cả nhà ở đây lâu chưa?”
“Dạ lâu rồi “ Winnie trả lời. “Con và cả nhà đã sống ở đây từ ngày xửa ngày xưa.”
“Từ ngày xửa ngày xưa,” người đàn ông trầm ngâm lặp lại.
Đó không phải là một câu hỏi, nhưng Winnie lại quyết định dù sao cũng phải giải thích.
“À, tất nhiên không phải là từ ngày xửa ngày xưa, nhưng cũng phải từ khi có người sống ở đây. Bà nội con sinh ra ở đây. Bà nói có thời ở đây toàn cây không à, khắp quanh đây chỉ là một cánh rừng lớn, nhưng mà giờ người ta chặt gần hết rồi. Còn có mỗi khu rừng kia thôi.”
“Bác biết rồi,” gã vừa nói vừa ngắt râu. “Vậy là chắc con quen hết mọi người, và biết hết mọi chuyện xảy ra quanh đây phải không?”
“Dạ cũng không hẳn,” Winnie nói, “Ít nhất thì con không biết. Nhưng mà sao ạ?”
Người lạ nhướng mày. “À, bác đang kiếm một người, một gia đình.”
“Con không biết nhiều người lắm,” Winnie vừa đáp vừa khẽ nhún vai. “Nhưng mà chắc ba con quen. Bác hỏi ba con thử xem.”
“Phải hỏi chứ,” gã nói. “Bác chắc là phải hỏi rồi.”
Ngay lúc ấy cánh cửa nhà xịch mở, và bà của Winnie xuất hiện trong ánh đèn hất lên bãi cỏ. “ Winnifred, đang nói chuyện với ai đó con?”
“Bà ơi có một ông,” Winnie đáp với lại. “Ông ấy nói là đang kiếm người.”
“Cái gì?” bà cụ nói. Bà nhấc váy lên rồi bước xuống lối đi ra cổng. “Con nói ông này muốn gì?”
Lúc này người đàn ông đứng bên ngoài hàng rào khẽ cúi đầu. “Chào bà ạ,” gã nói. “Thật vui khi thấy bà vẫn khỏe mạnh.”
“Vì lý do gì mà tôi lại không khỏe cơ chứ?” bà độp lại, săm soi nhìn người lạ qua làn ánh sáng lờ mờ. Bộ đồ màu vàng của gã hình như khiến bà ngạc nhiên, và bà nheo mắt ngờ vực. “Tôi nhớ chưa gặp ông bao giờ. Ông là ai? Ông đang tìm ai?”
Người đàn ông không trả lời câu nào. Thay vì vậy gã nói, “Quý cô trẻ tuổi này cho tôi hay là bà sống ở đây lâu lắm rồi cho nên tôi nghĩ chắc là bà biết hết những người đến và chuyển đi ở đây.”
Bà cụ lắc đầu. “Tôi không quen hết mọi người,” bà nói, “mà tôi cũng không muốn biết. Và tôi không đứng ngoài trời tối nói tới nói lui ba cái chuyện này với người lạ. Winnie cũng vậy. Nên là…”
Nói đến đây bà đột nhiên ngừng lại. Vì, xuyên qua tiếng dế buổi chiều và tiếng hàng cây thở dài, một điệu nhạc kỳ lạ, mơ hồ văng vẳng đến chỗ họ, và cả ba người đều ngoái đầu về phía nó phát ra, về phía khu rừng. Đó là một giai điệu nhẹ nhàng pha lẫn những tiếng leng keng, vang lên vài phút rồi dừng lại.
“Trời đất quỷ thần ơi!” bà nội Winnie thốt lên, tròn xoe mắt. “Chắc là nó quay trở lại rồi, qua bao nhiêu năm trời!” Bà ấn mạnh hai bàn tay nhăn nheo vào nhau, quên khuấy đi mất người đàn ông mặc bộ đồ màu vàng. “Con có nghe thấy không, Winnifred? Nó đó! Khúc nhạc yêu tinh mà bà kể cho con nghe đó. Sao vậy trời, phải lâu lắm rồi bà mới được nghe lại. Còn con mới nghe lần đầu phải không? Đợi đó để kể cho ba con nghe mới được!” Nói rồi bà túm lấy tay Winnie quay vào trong nhà.
“Xin chờ chút!” người đứng ở cổng nói. Gã đã ngây cả người, và giọng nói thì thật hào hứng. “Bà nói là trước đây từng nghe bản nhạc đó rồi phải không ạ?”
Nhưng trước khi gã kịp nhận câu trả lời thì điệu nhạc ấy lại cất lên và tất cả họ đều dừng sững lại lắng nghe. Lần này tiếng leng keng mơ hồ vang lên trong giai điệu nhẹ nhàng ba lần rồi lụi tắt.
“Nghe giống như phát ra từ hộp nhạc ấy,” Winnie nói sau khi nhạc đã tắt.
“Vớ vẩn. Là yêu tinh đấy!” bà của cô kích động reo lên. Rồi bà quay qua nói với người lạ vẫn đứng ở cổng, “Còn giờ thì xin phép ông nhé.” Nói xong bà cài cái then cửa lại ngay trước mũi gã, xem đã khóa kỹ chưa rồi vừa nắm tay Winnie vừa rầm rập đi vào nhà, đóng sập cửa sau lưng.
Nhưng người đàn ông trong bộ đồ vàng vẫn đứng đó một mình rất lâu sau đó, chân nhịp trên đường, nhìn về phía khu rừng. Gã vẫn đứng đó khi những vệt nắng cuối cùng của buổi hoàng hôn đã tan biến, và ánh tà dương cũng đã tắt lịm, dù tàn dư của nó vẫn lưu luyến vương trên mọi thứ nhạt màu - những viên đá sỏi, con đường lầm bụi, và thân hình của gã đàn ông - biến chúng thành màu thiên thanh mờ ảo.
Sau đó trăng lên. Người đàn ông sực tỉnh và thở dài. Vẻ mặt gã hết sức hài lòng. Gã đội mũ lên, và dưới ánh trăng sáng mấy ngón tay dài của gã trở nên thanh mảnh, trắng bệch. Rồi gã quay người đi khuất xuống con đường tối, lúc đi gã còn huýt sáo, rất khẽ, theo cái điệu nhạc nhẹ nhàng leng keng phát ra từ khu rừng ấy.
Chương 5
Sáng hôm sau Winnie thức dậy thật sớm. Mặt trời chỉ mới vừa hé mắt nơi đường chân trời phía Đông và ngôi nhà vẫn im phăng phắc. Nhưng cô bé nhớ ra là suốt đêm qua đôi lúc cô đã quyết định: hôm nay sẽ không bỏ trốn nữa. “Rốt cuộc rồi mình sẽ đi đâu cơ chứ?” cô tự nhủ. “Đâu có chỗ nào khác mình thật sự muốn đi đâu.” Nhưng tại một phần khác trong đầu cô bé, cái phần tăm tối nơi những nỗi sợ hãi xa xưa nhất của cô trú ngụ, cô biết rằng còn có một lý do nữa khiến cô muốn ở lại: cô sợ phải đi xa một mình.
Mong muốn được ở một mình, được làm những việc trọng đại là một chuyện, còn có gan làm chuyện đó khi có cơ hội hay không lại là chuyện khác. Nhân vật trong những câu chuyện cô đọc đều rũ áo ra đi mà không cần suy tính hay vướng bận, nhưng ngoài đời thì… ừm, thế gới bên ngoài đầy rẫy hiểm nguy. Mọi người luôn nói với cô như vậy. Cô sẽ chẳng thể nào xoay sở nếu không được che chở bao bọc. Họ cũng luôn nói với cô điều đó nữa. Chẳng ai chịu nói rõ cho cô biết những chuyện cô không thể tự mình xoay xở là chuyên gì. Nhưng Winnie cũng chẳng cần hỏi. Tự mình cô bé đã tưởng tượng ra biết bao nhiêu điều kinh khủng rồi.
Dù vậy, thật là bực mình khi phải thú nhận rằng mình sợ. Rồi cô cảm thấy còn nản lòng hơn nữa khi nghĩ đến con cóc. Nếu ngày hôm nay nó lại đến bên hàng rào nữa thì sao? Nếu nó âm thầm cười nhạo và cho rằng cô nhát gan thì sao chứ?
Thôi được, kiểu gì thì ít nhất mình cũng có thể vù ra ngoài, ngay bay giờ, cô quyết định, và đi vào rừng. Để xem cô có thể khám phá ra cái gì thật sự phát ra điệu nhạc tối hôm qua không. Chắc phải có cái gì đó chứ. Cô không cho phép mình xem xét cái ý tưởng muốn làm nên đôi chút khác biệt trên thế giới thì cần phải liều lĩnh mạo hiểm. Cô chỉ đơn giản tự an ủi bản thân rằng, “Dĩ nhiên, lúc ở trong rừng nếu mình quyết định không bao giờ quay trở lại nữa thì mới phải mạo hiểm thế.” Cô tin được điều đó vì cô cần như vậy; và, niềm tin ấy lại một lần nữa trở thành người bạn đường chân thật, đầy hứa hẹn.
Lại là một buổi sáng nặng nề nữa, chưa gì đã nóng bức và ngột ngạt rồi, nhưng không khí trong rừng thì mát mẻ hơn và có vẻ ẩm ướt khó chịu. Winnie mới rụt rè đi dưới những cành lá đan xen chưa đầy hai phút thì đã tự hỏi sao trước kia mình chưa từng vào đây bao giờ. “Tại sao vậy nhỉ, ở đây dễ chịu quá mà!” cô kinh ngạc nghĩ.
Cả khu rừng ngập tràn ánh nắng, khác xa thứ ánh nắng mà cô từng biết. Nó có màu xanh lá và vàng hổ phách, sống động, rung rinh từng vệt lấp loáng trên đất mềm, luồn vào khe hở giữa những thân cây khỏe khoắn. Đây là những bông hoa bé nhỏ cô chẳng biết tên, màu trắng và phớt xanh; kia là hằng hà sa số dây leo xoắn xuýt; và đây đó lại có một cành cây gãy đã mục nát phân nửa nhưng mềm mại với hàng mảng rêu nhung xanh mướt mượt mà.
Và ở đó chỗ nào cũng có sinh vật. Những hoạt động lúc tinh mơ của chúng khiến bầu không khí trong rừng chộn rộn hẳn lên: bọ hung, chim chóc, sóc, kiến, và còn vô vàn những sinh vật khác không nhìn thấy được, tất cả chúng đều hiền lành, cắm cúi vào việc của mình và chẳng hề đáng sợ chút nào cả. Ở đó thậm chí còn có, cô sung sướng khi trông thấy, chú cóc đó. Nó đang ngồi chễm chệ trên một gốc cây cụt và đáng lẽ cô đã không nhận ra, vì trông giống cây nấm hơn là một sinh vật sống đang ngồi đó. Tuy nhiên, khi cô đi đến bên nó, cóc ta liền chớp mắt và cử động đó khiến cô trông thấy nó.
“Mày thấy chưa?” cô reo lên. “Tao đã nói với mày là ngay sáng nay tao sẽ đến đây mà.”
Chú cóc lại chớp mắt và gật đầu. Hoặc cũng có thể chẳng qua nó đang nuốt một con ruồi. Nhưng chú ta bỗng lùi dần ra ngoài gốc cây và mất dạng trong tầng cây thấp.
“Chắc là nó chờ mình nãy giờ đây, “ Winnie tự nhủ, trong lòng cảm thấy hết sức vui.
Cô bé đi vơ vẩn loanh quanh một lúc lâu, nhìn ngắm mọi thứ, lắng nghe mọi thứ, tự hào vì đã quên được cái thế giới chật chội bị tỉa tót ở bên ngoài, miệng khe khẽ ư ử theo trí nhớ điệu nhạc hồi tối. Và rồi, ngay trước mắt, ở một chỗ nơi ánh sáng dường như rực rỡ hơn và mặt đất dường như thoáng đãng hơn, có cái gì đó đang động đậy.
Winnie dừng ngay lại và thụp người xuống. “Nếu đó là yêu tinh thật,” cô nghĩ, “thì mình có thể xem chúng.” Thế là, dù bản năng mách bảo hãy quay lui và bỏ chạy, cô hài lòng nhận ra trí tò mò của mình còn mạnh hơn cả nỗi sợ hãi. Cô bắt đầu rón rén tiến lên phía trước. Sẽ chỉ đến gần vừa đủ nhìn thôi, cô tự nhủ. Chỉ đến gần vừa đủ trông thấy thôi. Và sau đó cô sẽ quay lại và chạy. Nhưng rồi khi đã đến gần, núp sau một thân cây, và hé mắt nhìn ra, miệng cô há hốc kinh ngạc còn mọi ý nghĩ chạy trốn đều tan biến đi đâu mất.
Một khoảng rừng quang trải ra trước mắt cô, chính giữa là một cây cổ thụ khổng lồ, đám rễ mập mạp của nó làm nhàu mặt đất xung quanh đến gần ba mét về mọi hướng. Đang ngồi thư thả đó, lưng tựa vào thân cây là một cậu con trai, gần như đã là một người đàn ông. Và Winnie thấy cậu ta tuấn tú đến nỗi cô bé phải lòng ngay lập tức.
Cậu trông gầy và rám nắng, cái chàng trai tuyệt vời ấy, với mái tóc nâu quăn bù xù rậm rạp. Cậu mặc cái quần cũ kỹ hơi tả tơi và chiếc áo sơ mi cáu bẩn, rộng thùng thình nhưng dáng vẻ thì trông tự tin thoải mái như thể đang mặc đồ bằng lụa hay xa tanh vậy. Dây đeo quần màu xanh của cậu ta, để trang trí hơn là để xài, là phụ kiện cuối cùng trên bộ trang phục, vì chân cậu không mang giày, và giữa các ngón chân thò lên một mẩu cành. Cậu ngồi đó lơ đễnh phe phẩy nhánh cây, mặt ngửa lên đăm đăm nhìn tán lá trên cao. Nắng sớm vàng óng như rực sáng xung quanh cậu, và khi cành lá trên đầu câu rung rinh, bóng nắng rơi xuống đậu lên đôi bàn tay nâu rắn rỏi, lên mái tóc và khuôn mặt cậu.
Cậu lơ đễnh xoa xoa tai, ngáp, và vươn vai. Khi dịch chuyển vị trí, cậu để ý thấy một đống đá cuội nhỏ kề bên. Trong khi Winnie vẫn nhìn đến nín cả thở, cậu ta cẩn thận dời đống đá sang bên, từng viên từng viên một. Bên dưới đóng đá, nền đất lộ ra ướt loáng. Cậu nhấc viên đá cuối cùng lên và Winnie trông thấy một dòng nước trào ra, tuôn vồng lên rồi trở lại thấm ngược vào trong lòng đất, giống như một đài phun nước vậy. Cậu cúi xuống, ghé môi vào dòng nước, lặng lẽ uống, rồi ngồi dậy đưa ống tay áo lên quệt ngang miệng. Khi làm thế, cậu day mặt về phía Winnie – và mắt họ gặp nhau.
Họ im lặng nhìn nhau một hồi lâu, tay cậu ta vẫn đang đưa lên miệng. Không ai nhúc nhích. Sau cùng cậu bỏ tay xuống. “Em ra ngoài đây được rồi đấy,” cậu nói, cau mày.
Winnie đứng dậy, xấu hổ, và vì xấu hổ nên bực bội ra mặt. “Em không cố ý nhìn anh đâu,” cô quả quyết nói khi bước ra khoảng rừng trống. “Em không biết là lại có người ở đây.”
Cậu lom lom nhìn cô bước tới. “Em làm gì ở đây vậy?” cậu lạnh lùng hỏi.
“Đây là rừng nhà em.” Winnie đáp ngạc nhiên vì câu hỏi. “Em có thể vào đây bất cứ khi nào em muốn. Trước đây em chưa đến đây bao giờ, nhưng đáng lẽ em phải vào rồi mới phải, lúc nào mà chẳng được.”
“À,” cậu nói, nghe thoải mái hơn một chút. “Vậy em là con nhà Foster.”
“Em tên là Winnie,” cô nói. “Còn anh là ai?”
“Anh là Jesse Tuck,” cậu nói. “Chào em.” Rồi cậu chìa tay ra.
Winnie bắt bàn tay ấy và nhìn cậu chằm chằm. Nhìn gần trông cậu còn đẹp trai hơn nữa.
“Anh sống gần đây à?” sau cùng cô mới nặn ra một câu, miễn cưỡng buông tay cậu. “Trước đây em chưa từng gặp anh. Anh có thường đến đây không? Nhưng mà đâu có ai được phép vào đây. Đây là rừng nhà em mà.” Rồi cô thêm vào thật nhanh, “Nhưng anh đến đây thì không sao. Ý em là với em thì không sao.”
Cậu cười toe toét. “Không, anh không sống gần đây và cũng không đến đây thường xuyên. Anh chỉ đi qua đây thôi. Và cám ơn em, anh mừng là với em thì không sao.”
“Tuyệt lắm,” Winnie nói, không ăn nhập lắm. Cô lùi lại và đoan trang ngồi xuống cách xa cậu một chút. “Mà anh bao nhiêu tuổi vậy?” cô hỏi, nheo mắt nhìn cậu.
Yên lặng một chút. Sau cùng cậu lên tiếng, “Tại sao em muốn biết vậy?”
“Em chỉ băn khoăn thế thôi,” Winnie nói.
“Được rồi, anh một trăm lẻ bốn tuổi,” cậu nghiêm trang đáp.
“Không phải, ý em là tuổi thật của anh kìa,” cô khăng khăng.
“Vậy thì,” cậu nói, “nếu em cứ khăng khăng muốn biết, anh mười bảy tuổi.”
“Mười bảy à?”
“Đúng rồi.”
“Ôi,” Winnie thất vọng nói. “Mười bảy tuổi. Già thật.”
“Em không tưởng tượng nổi đâu,” cậu gật đầu đồng ý.
Winnie có cảm giác là cậu đang cười nhạo mình, nhưng rồi cô lại tự cho rằng đó là một kiểu cười nhạo thật đáng yêu. “Anh lấy ai chưa vậy?” cô hỏi tiếp.
Lần này thì cậu cười phá lên. “Chưa, anh chưa. Còn em?”
Giờ đến lượt Winnie bật cười. “Dĩ nhiên là chưa rồi,” cô nói. “Em mới mười tuổi. Nhưng sẽ lên mười một sớm thôi.”
“Sau đó em sẽ lấy chồng,” cậu gợi ý.
Winnie lại cười nữa, đầu cô nghiêng sang một bên, ngưỡng mộ nhìn cậu. Rồi cô chỉ vào dòng nước. “Cái đó uống có ngon không vậy anh?” cô hỏi .”Em khát.”
Khuôn mặt của Jesse Tuck đột nhiên nghiêm trang. “Ồ, nước đó hả? Không, không, không ngon đâu,” cậu nói thật nhanh. “Em không được uống nước đó. Phun thẳng từ dưới đất lên. Chắc là dơ lắm.” Và cậu bắt đầu lấp đá lên che lại.
“Nhưng anh uống nó mà,” Winnie nhắc.
“Ơ, em thấy rồi à? “ Cậu nhìn cô lo lắng. “À, anh thì cái gì cũng uống được hết. Ý anh là anh quen rồi nhưng mà nó không tốt cho em đâu.”
“Sao lại không?” Winnie nói. Cô đứng bật dậy. “Dù sao đi nữa, nước đó là của em, nếu nó ở trong rừng. Em muốn uống. Em khát khô cả cổ rồi nè.” Và cô đi đến chỗ cậu ngồi, quỳ xuống bên đống đá cuội.
“Tin anh đi mà Winnie Foster,” Jesss nói, “em mà uống một chút xíu nước này thôi là kinh khủng cho em lắm. Kinh khủng thật mà. Anh không để em uống đâu.”
“Nhưng mà em không hiểu sao lại không được,” Winnie rầu rĩ nói. “Càng lúc em càng khát. Nếu anh uống được thì em cũng uống được. Ba em mà có ở đây thì ba sẽ cho em uống ngay.”
“Em sẽ không kể cho ba em biết chứ?” Jesse nói. Mặt cậu tái nhợt đi dưới lớp da rám nắng. Cậu đứng dậy và kiên quyết đặt một bàn chân trần lên đống đá. “Mình biết việc này sớm muộn gì cũng xảy ra mà. Giờ mình phải làm gì đây?”
Cậu nói đến đây thì một tiếng ầm vang lên giữa những hàng cây và có tiếng gọi, “Jesse à?”
“Nhờ trời!” Jesse nói, thở phào nhẹ nhõm “Mẹ và anh Miles tới rồi. Họ sẽ biết phải làm gì.”
Ngay lúc đó một người phụ nữ to lớn nhưng trông có vẻ dễ chịu xuất hiện, dẫn theo sau một con ngựa già mập mạp, bên cạnh bà cũng là một thanh niên cũng tuấn tú như Jesse. Đó là bà Mae Tuck và đứa con trai còn lại, anh trai của Jesse. Vừa nhác thấy bóng hai người, Jesse đang đứng đạp chân lên đống đá còn Winnie thì quỳ gối bên cạnh, bà đã lập tức hiểu ra ngay. Cánh tay bà vung lên ngực giữ chặt chiếc ghim cài áo cũ kỹ trên tấm khăn choàng còn khuôn mặt trở nên u ám.” Mấy đứa à,” bà nói, “nó đây rồi. Điều tồi tệ nhất cuối cùng đã đến.”