Chương 6 - 7
Tác giả: Natalie Babbit
Sau này, cứ mỗi lần hồi tưởng lại, Winnie thấy những gì diễn ra mấy phút sau đó dường như chỉ còn là một khoảng mờ. Đầu tiên cô nhớ mình đang quỳ trên đất, khăng khăng đòi uống dòng nước ấy, và điều tiếp theo cô biết là cô bị ai đó túm lấy và ném đi, trong khi vẫn đang há hốc mồm kinh ngạc, rồi thấy mình đang ngồi trên cái lưng nhấp nhô của con ngựa già béo ú đó. Miles và Jesse lóc cóc chạy theo hai bên, còn bà Mae thì hổn hển nắm dây cương chạy đằng trước.
Trước đó Winnie thường bị ám ảnh với những giấc mơ cô bị bắt cóc. Nhưng chưa từng có giấc mơ nào giống như thế này, khi mà những kẻ bắt cóc trông cũng hãi hùng không khác gì cô cả. Cô lúc nào cũng tưởng tượng ra cảnh một đoàn gồm toàn gã đàn ông lực lưỡng để ria mép dài đen nhánh cuốn cô vào một cái chăn rồi vác đi như vác một bao khoai tây trong khi cô van xin cầu tha mạng. Nhưng thay vì thế, người cầu xin đây lại chính là họ, bà Mae Tuck, Miles và Jesse.
“Làm ơn, con… cưng, cưng à… đừng sợ.” Đó là tiếng bà Mae vừa chạy vừa ngoái đầu gọi với ra sau. “Chúng ta… sẽ không làm hại con đâu… dù có đổi cả thế giới này cũng vậy.”
“Nếu em… gào lên hay làm gì đó” tiếng Jesse “Ai đó sẽ nghe thấy và… nguy hiểm lắm.”
Và Miles nói, “Tụi anh sẽ giải thích cho em biết… nhưng phải đi xa đã.”
Winnie không nói nổi nên lời. Cô bé bám chặt vào yên ngựa kinh ngạc nhận ra rằng dù tim mình đang đập thình thịch còn sống lưng thì cứng đờ và lạnh toát như một cái ống đầy nước đang chảy, tâm trí cô vẫn bình tĩnh phát sợ. Những suy nghĩ rời rạc lần lượt nối đuôi nhau xuất hiện, cứ như nãy giờ chúng vẫn đang xếp hàng chờ đến phiên mình vậy. “Thì ra cưỡi ngựa là như vậy - đằng nào thì mình cũng định bỏ nhà đi hôm nay - cả nhà sẽ nói gì khi thấy mình không xuống ăn sáng nhỉ - mình ước gì con cóc đó thấy mình lúc này - bà ấy đang lo lắng cho mình - Miles còn cao hơn cả Jesse - mình cúi xuống thì hơn nếu không muốn bị cành cây kia quật ngã.”
Lúc này họ đã đến được bìa rừng, nhưng không có vẻ gì là sẽ đi chậm lại cả. Con đường, đoạn nó bẻ góc cắt qua đồng cỏ, đã ở ngay trước mặt, sáng lóa mắt trong ánh nắng tràn trề, Và đứng đó, ngay trên đường, là gã đàn ông tối hôm trước, người mặc đồ vàng chóe, đội mũ đen.
Nhác trông thấy gã, thấy vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt gã và lập tức được đặt trước sự chọn lựa, tâm trí cô lại đột nhiên trống rỗng một cách ngang ngạnh. Đáng lẽ phải kêu gào cầu cứu thì cô bé chỉ cứ giương mắt nhìn khi họ đi ngang qua chỗ gã đang đứng. Mỗi mình bà Mae Tuck lên tiếng, và cái cớ khá nhất bà có thể bịa ra là: “Dạy con gái út... cách cưỡi ngựa!” Chỉ sau đó Winnie mới nghĩ ra mình phải la lên, vẫy tay, hay làm một cái gì đó. Nhưng lúc bấy giờ gã đàn ông đã biến mất sau lưng rồi, và cô bé sợ phải buông yên ngựa ra, sợ quay người lại sẽ bị ngã. Lại một lát nữa trôi qua, quá trễ rồi. Họ đã tăng tốc lên đồi rồi xuống đến mé sườn bên kia, cơ hội đã vụt đi mất.
Vài phút sau, con đường dẫn họ đến một nơi mé trái có con suối nông quanh co chảy gần kề, xung quanh là bóng liễu rủ và những bụi cây rậm rạp um tùm. “Dừng lại!” bà Mae la lên. “Mình dừng lại ở đây!” Miles và Jesse vội chộp lấy dây cương khi con ngựa đột ngột lồng lên suýt chút nữa là hất Winnie lộn nhào qua cổ nó. “Mang đứa trẻ tội nghiệp xuống đây,” bà Mae thở hổn hển, ngực bà phập phồng. “Mình lại chỗ con suối ngồi nghỉ lấy hơi và nói cho rõ mọi chuyện trước khi đi tiếp.”
Thế nhưng lời giải thích, khi họ loạng choạng tới bên bờ suối, không đến dễ dàng. Bà Mae có vẻ bối rối, còn Miles và Jesse thì bồn chồn không yên liếc nhìn mẹ. Chẳng ai biết phải bắt đầu thế nào. Về phần mình, giờ đây khi cuộc trốn chạy đã kết thúc, Winnie mới mường tượng được việc gì đang diễn ra, và việc hiểu ra điều này khiến cổ họng cô thít chặt còn miệng khô khốc. Đây không phải là giấc mơ. Đây là chuyện thật. Những người lạ mặt này đã bắt cóc cô; họ có thể làm bất cứ điều gì; có thể cô sẽ không bao giờ được nhìn thấy mẹ nữa. Nghĩ đến mẹ, cô thấy mình mới nhỏ bé, yếu ớt và vô dụng làm sao, thế là cô bé chợt òa lên khóc nức nở, nửa buồn bực nửa choáng váng đến tuyệt vọng.
Khuôn mặt tròn trịa của bà Mae Tuck nhăn nhó khổ sở. “Chúa ơi, xin con đừng khóc! Làm ơn xin đừng khóc mà cưng!” bà nài nỉ. “Chúng ta không phải là người xấu, chắc chắn không phải. Chúng ta buộc phải mang con đi - con sẽ hiểu tại sao ngay thôi mà - và chúng ta sẽ đưa con về ngay khi có thể. Ngày mai. Bác hứa đấy.”
Vừa nghe bà Mae nói, “Ngày mai,” Winnie càng thổn thức to hơn nữa. Ngày mai! Tiếng đó nghe như thể cô sẽ bị bắt đi mãi mãi vậy. Cô muốn về nhà, ngay bây giờ, muốn được lao trở vào khoảng an toàn bên trong cái hàng rào ấy và nghe giọng nói của mẹ vọng ra từ cửa sổ. Bà Mae dang tay về phía cô, nhưng cô quay ngoắt đi, hai tay che mặt, và cô lại nấc lên nức nở.
“Kinh khủng quá!” Jesse nói. “Mẹ không thể làm gì sao? Tội nghiệp con bé.”
“Đáng lẽ mình phải nghĩ ra cái cách nào khá hơn cách này rồi mới phải chứ,” Miles nói.
“Đúng vậy,” bà Mae nói trong vô vọng. “Chúa biết rằng chúng ta có quá đủ thời gian nghĩ ra cách giải quyết vì chuyện này chẳng chóng thì chầy cũng xảy ra. Trước giờ chưa có là phúc đức lắm rồi. Nhưng mẹ chưa từng nghĩ đó là một đứa trẻ.” Nói rồi bà lơ đãng thò tay vào túi váy lấy ra chiếc hộp nhạc, rồi không cần suy nghĩ bà vặn dây cót bằng mấy ngón tay run rẩy.
Khi cái giai điệu ấy lanh canh nhẹ nhàng ấy vang lên, tiếng nức nở của Winnie chợt dịu đi. Cô bé đứng bên con suối, mặt vẫn úp vào hai bàn tay, và lắng nghe. Đúng rồi, đó chính là bản nhạc mà cô nghe thấy tối hôm trước. Bằng cách nào đó nó khiến cô bình tĩnh trở lại. Nó giống như một dải băng vô hình ràng buộc cô với những thứ thân thương. Cô nghĩ, “Về nhà mình sẽ kể cho bà biết đó chẳng phải là nhạc yêu tinh gì cả.” Rồi cô lấy hai bàn tay ướt mèm chùi mặt cho thật sạch và quay về phía bà Mae. “Đó là điệu nhạc con nghe tối qua,” cô cố nói nên lời giữa những tiếng sụt sịt trước khi nín khóc hẳn. “Lúc con ở trong vườn. Bà nội nói đó là yêu tinh.”
“Cưng à, không phải đâu,” bà Mae nói, chăm chú nhìn cô bé đầy hy vọng. “Chỉ là cái hộp nhạc của bác ấy mà. Bác không biết là có người lại nghe thấy.” Rồi bà đưa nó cho Winnie. “Con muốn xem thử không?”
“Đẹp quá,” Winnie nói, tay cầm lấy hộp nhạc và lật nó lên. Chìa khóa lên dây cót vẫn xoay tròn, nhưng càng lúc càng chậm lại. Giai điệu lụi tàn dần. Vài nốt nhạc nữa vang lên cách quãng rất xa, rồi tắt.
“Con thích thì cứ vặn nó lên,” bà Mae nói. “Theo chiều kim đồng hồ.”
Winnie vặn chìa khóa. Nó khẽ kêu lách cách. Và rồi, sau vài lần vặn như thế nữa, nhạc lại cất lên, rộn rã vì mới được lên dây cót, và tươi vui. Chẳng ai sở hữu một vật như thế này lại đáng ghét cả. Winnie vừa nghĩ vừa ngắm nghía hình vẽ hoa hồng và hoa lan chuông, rồi bất giác mỉm cười. “Nó đẹp quá,” cô lặp lại, trả nó cho bà Mae.
Chiếc hộp nhạc ấy đã khiến tất cả mọi người nhẹ nhõm. Miles lấy từ túi sau ra chiếc khăn tay lau mặt, còn ba Mae thì nặng nhọc ngồi phịch xuống một tảng đá, giật chiếc mũ rơm xanh trên đầu xuống làm quạt mát.
“Nhìn đây, Winnie Foster,” Jesse lên tiếng. “Chúng ta là bạn, thật sự là như vậy. Nhưng em phải giúp bọn anh. Lại đây ngồi xuống đi, và bọn anh sẽ giải thích cho em hiểu tại sao.”
Chương 7
Đó là câu chuyện lạ kỳ nhất mà Winnie từng nghe. Cô nhanh chóng ngờ rằng họ chưa kể chuyện này cho ai nghe ngoại trừ trò chuyện với nhau - có nghĩa cô chính là vị thính giả thật sự đầu tiên của họ; vì họ quây quần quanh cô như trẻ con bu quanh gối mẹ, người nào cũng cố làm cô chú ý, đôi khi cả ba còn nói cùng một lúc, cướp lời nhau một cách hào hứng.
Tám mươi bảy năm về trước, gia đình nhà Tuck đã đi một quãng đường dài tới miền Đông để tìm nơi định cư. Ngày ấy khu rừng không như bây giờ, nó là một cánh rừng rộng lớn như lời bà nội kể vậy: trải dài xa tít mù tắp. Họ tính sẽ dựng một nông trại ngay khi đến chỗ cánh rừng kết thúc. Nhưng cây cối chẳng có vẻ gì là sẽ hết cả. Lúc đến được chỗ khu rừng ngày nay và rời khỏi đường mòn đi tìm nơi cắm trại, họ vô tình đứng trên dòng suối ngầm ấy.
“Nơi đó đẹp lắm,” Jesse nói cùng tiếng thở dài, “Trông giống hệt như bây giờ. Một khoảng rừng trống, ngập tràn ánh nắng, với cái cây to có những đốt rễ sần sùi ấy. Cả nhà dừng lại đó và mọi người cùng uống nước suối, cả con ngựa nữa.”
“Không hẳn,” bà Mae lên tiếng. “Con mèo không uống nước. Chuyện này quan trong lắm đấy.”
“Đúng vậy,” Miles nói, “đừng bỏ đi chi tiết đó. Tất cả chúng ta đều uống, trừ con mèo.”
“Được rồi, dù sao đi nữa,” Jesse tiếp tục, “nước đó có vị hơi lạ. Nhưng bọn anh vẫn cắm trại qua đêm ở đó. Rồi ba anh khắc một chữ T lên thân cây để đánh dấu chỗ đã đến. Rồi cả nhà anh tiếp tục lên đường.”
Sau cùng họ cũng ra được khỏi cánh rừng và cách đó hàng dặm về phía Tây, họ tìm thấy một thung lũng vắng người và bắt tay vào dựng nông trại. “Bọn anh dựng một căn nhà cho ba mẹ,” Miles kể, “và một căn lều gỗ cho Jesse và anh. Tụi anh đã nghĩ đến chuyện sớm lập gia đình nên cần phải có nhà riêng.”
“Lần đầu tiên mọi người nhận ra có điều gì đó bất thường,” bà Mae nói, “ là lúc Jesse bị té khi trèo cây…”
“Anh đang trèo lên đến khoảng giữa,” Jesse xen vào, “cố gắng cưa đứt mấy cành cây lớn trước khi chặt cả cây thì bị mất thăng bằng và anh té…”
“Nó rớt xuống u một cục trên đầu,” bà Mae vừa nói vừa rùng mình. “Chúng ta chắc là nó gãy cổ rồi. Nhưng lại xem mới thấy là nó chẳng bị sây sát tẹo nào.”
“Không lâu sau đó,” Miles tiếp tục, “có mấy người thợ săn đi ngang qua nhà lúc sẩm tối. Con ngựa này đang gặm cỏ dưới mấy gốc cây thì họ bắn nó. Nhầm nó là nai, họ nói vậy. Em tin nổi không chứ? Nhưng vấn đề là họ không giết được nó. Viên đạn xuyên qua mình nó mà không để lại một vết xước.”
“Rồi ba bị rắn cắn…”
“Và Jesse ăn phải nấm độc…”
“Rồi mẹ bị đứt tay nữa chứ,” bà Mae nói “Nhớ không? Lúc cắt bánh mì ấy.”
Nhưng thời gian trôi qua mới chính là yếu tố khiến gia đình Tuck lo lắng hơn cả. Họ đã dựng nên nông trại, định cư ở đó và kết bạn với mọi người xung quanh. Nhưng mười năm, rồi hai mươi năm, họ buộc phải đối diện với sự thật rằng đã có điều gì đó cực kỳ không ổn đã xảy ra. Chẳng ai trong gia đình họ già đi cả.
“Lúc đó anh đáng lẽ ngoài bốn mươi rồi,” Miles buồn rầu nói, “Anh đã lấy vợ, có hai con. Nhưng bề ngoài thì trông vẫn như hai mươi hai. Vợ anh cuối cùng cũng cho rằng anh đã bán linh hồn cho quỷ. Cô ấy bỏ anh đi. Cô ấy bỏ đi mang theo cả hai con.”
“Anh mừng là mình chưa từng lấy vợ,” Jesse chêm vào.
“Bạn bè nhà bác cũng vậy,” bà Mae tiếp lời. “Họ xa lánh gia đình bác .Có tin đồn về trò phù thủy. Phép thuật hắc ám. Thật ra cũng không trách họ được, nhưng cuối cùng rồi thì nhà bác cũng phải rời bỏ nông trại. Cả nhà không biết phải đi đâu về đâu nên đành trở lại con đường đã đến, chỉ đi lang thang vô định thế thôi. Giống như là dân Digan vậy đó. Lúc đến được tận đây thì mọi thứ dã thay đổi, dĩ nhiên. Cây cối bị chặt gần hết. Có người dọn đến ở và cả một ngôi làng mới xuất hiện - đó là Treegap. Con đường vẫn còn đây nhưng ngày trước nó chỉ là lối mòn do bò tạo ra mà thôi. Cả nhà đi vào khu rừng nhỏ còn sót lại để cắm trại, rồi khi đến chỗ khoảng rừng trống có cái cây và con suối đó, gia đình bác nhớ lại hết mọi chuyện.”
“Nó chẳng thay đổi gì cả. cũng giống như bọn anh vậy,” Miles nói. “Và cũng nhờ đó mà bọn anh khám phá ra mọi chuyện. Ba anh đã khắc một chữ T lên thân cây, nhớ chứ, hai mươi năm về trước, nhưng chữ T đó vẫn nằm ngay vị trí mà ba anh đã khắc. Cái cây đó chẳng cao thêm được chút xíu nào trong suốt quãng thời gian dài. Trông nó vẫn y hệt như vậy. Còn chữ T thì mới nguyên như thể chỉ vừa mới được khắc lên đó .”
Rồi họ nhớ lại chuyện đã uống nước. Cả nhà họ - và con ngựa. Còn con mèo thi không. Con mèo sống thật lâu và hạnh phúc ở nông trại, nhưng đã chết khoảng mười năm trước rồi.Thế là sau cùng họ nhất trí rằng con suối chính là nguồn gốc mọi sự trẻ mãi không già của họ.
“Khi chúng ta rút ra kết luận này,” bà Mae tiếp tục. “Ông Tuck - chồng bác, Angus Tuck - nói ổng muốn biết chắc một lần cho dứt khoát. Ổng lấy ra khẩu súng ngắn và nhằm thẳng vào mình, và trước khi mọi nhười kịp can ngăn, ổng bóp cò.” Bà Mae dừng lại một lúc lâu, mấy ngón tay đặt trên lòng đan vào nhau, xoắn chặt cùng sự tập trung căng thẳng vì cố nhớ. Sau cùng bà lên tiếng, “Phát đạn vật ổng ngã xuống. Xuyên qua tim. Nhất định phải thế vì ổng cố tình nhắm như vậy mà. Rồi viên đạn bay xuyên qua người ổng. Nó thậm chí chẳng để lại một vết xước. Giống như là - con biết đấy - như viên đạn vô nước. Và trông ổng không hề suy suyển, như thể ổng chưa từng bắn mình vậy .”
“Sau chuyện đó nhà anh giống như phát điên lên vậy,” Jesse vừa nói vừa cười toe toét nhớ lại. “Quỷ quái thiệt, chúng ta sẽ sống bất tử. Em có hình dung ra nổi bọn anh cảm thấy như thế nào khi khám phá ra chuyện đó không?”
“Nhưng rồi tụi anh lai ngồi xuống và bàn bạc…” Jesse lại chêm vào.
“Và chúng ta nhận ra mọi chuyện rồi sẽ tệ hại vô cùng nếu mọi người biết về con suối đó,” bà Mae nói “Chúng ta bắt đầu thấy trước thế nghĩa là sao.” Bà nhìn Winnie dò hỏi “Con hiểu không cưng? Thứ nước đó - nó làm cho con ngưng lại ngay tại chỗ. Nếu con mà uống nó ngày hôm nay thì con sẽ mãi mãi là một cô bé gái. Con sẽ không bao giờ lớn lên được, không bao giờ.”
“Bọn anh không hiểu nổi nó hoạt động như thế nào, hay thậm chí tại sao lại như vậy,” Miles tiếp.
“Ba anh nghĩ đó là thứ còn sót lại - ừm, từ một kế hoạch khác về cách thế giới này nên trở thành,” Jesse nói “Một kế hoạch đem lại kết quả không mấy tốt đẹp. Và thế là mọi thứ đều bị thay đổi. Chỉ có điều con suối đó đã bị bỏ quên. Có lẽ là ông đúng. Anh cũng không biết nữa nhưng mà em thấy đó, Winnie Foster, lúc mà anh nói với em anh một trăm lẻ bốn tuổi là nói thật đó. Nhưng nhìn anh thật sự chỉ mới mười bảy và theo chỗ anh biết thì chắc anh sẽ mười bảy tuổi cho đến ngày tận thế.”