Chương 6
Tác giả: Nevil Shute
Viên phi công đứng trầm ngâm một lúc bên lò sưởi. Rồi anh ta nói:
- Đi đường nào nhỉ?
Cái đó thì anh biết rõ hơn chúng tôi chứ, Nigger
Vị không đoàn trưởng nói
- Đường nào anh chọn đây ?
Macmahon hỏi:
- Đâu là điểm xuất phát ?
David quay về phía ông ta:
- Trên thực tế, tôi nghĩ là đi về đông hay về tây cũng bằng nhau, từ đây đến Canberra. Không, đợi cho một chút, bảy mươi lăm tây và một trăm năm mươi hai đông. Trầm ngâm một lúc , anh ta nói:
- Không, đường băng qua Thái Bình Dương ngắn hơn nhiều.Quan trọng là có đủ xăng để tiếp tế trên đảo Christmas.
Anh ta nhìn không đoàn trưởng:
- Chắc đại tá không muốn đáp xuống những vùng không thuộc Liên Hiệp Anh ? Đến Honolulu là có xăng ngay Đảo Christmas thì tốt hơn. Anh có thể bay thẳng một lèo từ đây đến Christmas không ?
Không chắc
Sĩ quan hoa tiêu nói
- Tôi phải xuống từ từ trên đảo theo bản đồ. Nếu không thể hạ cánh , chúng ta có thể tiếp tế xăng ở Vancouver. Đi từ đảo Christmas đến Canberra tốt thôi , miễn là có xăng ở đấy để tiếp tế.
Bốn ngàn galông xăng , một trăm năm mươi galông nhớt ?
Vị sĩ quan hoa tiêu gật đầu
- Tôi sẽ báo hiệu ngay.
Sĩ quan hoa tiêu lại nói:
- Nếu không có nhiên liệu ở đấy , tốt hơn ta nên tìm cách khác. Trong trường hợp ấy , ta nên bay trở về WhiteWaltham và rồi tiếp tục bay đến Colombo thì nghỉ.
Không phải nước Anh ông Macmahon hỏi.
David nhìn lên:
- Ồ, Malta. Tất cả nhiên liệu chúng ta cần đều ở Malta. Vị bí thư nói:
- Tôi nghĩ con đường Thái Bình Dương tốt hơn. Có thể trở lui được không nếu không có nhiên liệu ở đảo Christmas?
Sĩ quan phi công cắn môi:
- Đảo Fiji, nếu bay từ Vancouver
Anh ta nói
- Chỉ có nơi đó là ở trong Liên Hiệp Anh thôi. Tôi không chắc là có quá xa đối với chúng ta hay không ? Ông phải để cho tôi đi chếch lại đã.
Quay về phía ông Cox, David hỏi:
- Nữ hoàng muốn khởi hành lúc mấy giờ?
Càng sớm càng tốt.
David nói:
- Hướng tây. Nếu là đảo Christmas, chúng ta sẽ cố gắng đến đấy vào ban ngày. Cất cánh lúc chín giờ ba mươi, sau khi ăn sáng.
Tôi nghĩ là được thôi. Thế anh đã đến Chrismas chưa ?
David gật đầu:
- Tôi đã đến đấy ba lần. Đó chỉ là một trạm tiếp liên, trên đảo có đồn điền dừa. Tôi không được rõ, từ khi chiến tranh nơi ấy đã được sử dụng nhiều. Không lực Hoàng gia Úc có một đơn vị biệt phái ở đấy
Sau khi suy nghĩ , anh ta lại nói tiếp
- Thực phẩm. Chúng ta tốt hơn nên dự trữ ở đây cho toàn chuyến đi Canberra. Đến Christmas, chúng ta không mua được nhiều đâu. Chúng ta chỉ có mặt ở đấy khoảng một giờ để tiếp tế xăng nhớt. Có bao nhiêu người cùng đi ?
Cả đoàn tùy tùng
- Ông Macmahon nói
- Gồm tám người và đại tá không đoàn trưởng.
Từ phía sau , Rosemary trầm tĩnh nói:
- Thưa thiếu tá , em có được đi không ?
Sao không. Không có cô làm gì được !
Viên phi công nói:
- Tốt hơn tôi nên đi ngay để nắm tình hình.
Quay về phía ông Cox, anh ta nói:
- Nhờ Đại tá gọi điện báo cho Ryder là tôi đang trên đường ra sân bay. Rồi nhờ Đại tá kiểm tra vấn đề xăng thử có ở Christmas không, tôi sẽ gọi lại cho ông vào lúc nữa đêm và lúc ấy chúng ta sẽ có quyết định dứt khoát. Ông còn ở đây chứ?
Vâng , tôi vẫn ở đây.
David quay về phía Rosemary:
- Cám ơn Cô Long về bữa tối này. Sáng mai gặp cô nhé!
Anh ta mặc áo choàng vào và đi ra ngoài. Một phóng viên chận anh ta lại trong lúc anh ta đợi taxi và bị anh ta cự tuyệt thẳng thừng. Xe chạy đến phi trường và anh ta đã làm việc với Ryder hơn nửa giờ ở bàn của chuyên viên bản đồ trongchiếc Ceres, vì bản đồ đang để ở đấy. Họ đi băng qua đường băng lạnh giá dưới vầng trăng sáng để trở về phòng ăn sĩ quan , sau đó nói chuyện qua điện thoại với Đại tá Cox ở khách sạn. Đảo Christmas có nhiên liệu, họ xác định giờ cất cánh là chín giờ ba mươi và cúp điện thoại. Ông Cox phải gọi điện cho Quận công ở Gatineauvà David bắt đầu thương thuyết để xin đường bay qua vùng trời Hoa Kỳ. Đường bay đi qua bờ biển Thái Bình Dương trong lãnh vực của miền Los Angeles.
Sau đó David ngủ được vài tiếng và bước ra sân bay lúc bảy giờ cùng phi hành đoàn đã sẵn sàng , bên cạnh chiếc máy bay chuẩn bị cất cánh, anh ta cùng Ryder kiểm tra hướng đi và sơ đồ bay , Đến tám giờ rưỡi David ra lệnh cho phi hành đoàn đi ăn sáng và chín giờ mười lăm xe máy kéo máy bay ra đường băng.
Tin Nữ hoàng khởi hành lan nhanh và hằng ngàn nười tụ tập trên sân bay để đưa tiễn. Toán cảnh sát kỵ binh biệt phái có mặt ở đấy để không cho ai vào đường băng và kiểm soát các phóng viên chụp ảnh báo chí và truyền hình.
Đó là một buổi sáng nắng ráo với cơn gió lạnh buốt. Chiếc xe hơi đầu tiên đến đó là của vị toàn quyền mà binh sĩ và lính không quân khắp Liên Hiệp Anh đều biết đó là ngài Tom Forrest. Ông bước ra khỏi xe và ân cần chào hỏi Frank Cox và đi bộ đến gần máy bay , đó là một người đàn ông dễ mến , nét mặt tươi tỉnh , đầy sinh lực. Ông ta được người ta đem David đến giới thiệu và hai người bắt tay nhau.Sau đấy ông ta làm một cuộc kiểm tra chớp nhoáng chiếc máy bay trước khi nữ hoàng đến. Rồi hai người cùng ra tháp tùng với ông Delamain và các thành viên trong nội các sắp hàng trên đường băng.
Chiếc xe hơi Hoàng gia đến, các máy quay phim hoạt động, đèn máy ảnh chớp lia lịa khi Nữ hoàng bước ra, theo sau có Quận công. Trước đây David chỉ thấy Nữ hoàng có một lần khi ngài kiểm tra chiếc máy bay mới ở phi trường White Waltham. Nếu so sánh diện mạo của ngài chiều hôm vui vẻ đó, giờ đây ngài có vẻ mệt mỏi và hao gầy. Có một thời gian ngắn để bắt tay và chia tay trên đường băng và rồi ngài vội vã vào máy bay với nụ cười ngắn ngủi hướng về phía dân chúng.
Người sau cùng của đoàn tùy tùng cũng đã lên máy bay. Frank Cox và David đi theo sau Nữ hoàng và Quận công, khi đã vào trong, cửa đóng lại sau lưng họ. David chờ cho lối đi không có người và Nữ hoàng đã vào phòng dành riêng , anh ta mới bước tới và vào ghế bay có Ryder bên cạnh. Chiếc cửa nhỏ trên đầu họ được mở ra và ngọn cờ hoàng gia đang uể oải phơ phất trong gió sớm.
Frank Cox bước vào buồng lái, đứng sau lưng họ. David nhìn ông ta qua vai. Không đoàn trưởng nói:
- Lên đường thôi. Cất cánh theo giờ riêng của anh, chỉ huy trưởng
- David gật đầu quay về với công việc.
Một giờ sau , họ đang bay ở độ cao phi hành trong nắng mai, ở dưới xa là tầng mây trắng kết thành cụm như bông. David nhường tay lái cho Ryder và đi dài xuống phía dưới. Chàng dừng lại nói chuyện, với Thiếu tá Macmohon và cô Turnbull tuổi trung niên, và cuối cùng mới đến Rosemary. Chàng hỏi:
- Em có khoẻ không ?
Dạ khoe?
Nàng trả lời
- Chúng ta đến đâu rồi anh nhỉ ?
Có lẽ gần qua khỏi hồ Michigan. Chúng ta đang đi quá lên phía bắc của thành phố Chicago một chút.
Anh bảo là không thấy gì cơ mà !
Chàng lắc đầu:
- Em có thể thấy dãy Thạch sơn trong suốt hai tiếng đồng ho.
Chàng nói tiếp
- Tuy ở Denver, thành phần là hai phần mười mây , nhưng trông cũng chả đẹp chút nào !
Thế đảo Christmas ở đâu , anh Nigger?
Hai mươi độ nam Hạ uy di
- David trả lời
- Từ Ottawa đến đó cũng phải mất mười tiếng, bảy giờ rưỡi theo đồng hồ của em, có thể hơn hay kém một chút. Nhưng chín giờ cách biệt và chúng ta đi theo hướng mặt trời, nên khi đến đây, cũng đang còn giữa buổi sáng.
Trời! Thế chúng ta ở lại đảo Christmas bao lâu ?
Một tiếng thôi em ạ, đủ để cho mình tiếp tế nhiên liệu. Rồi chúng ta tiếp tục bay bảy tiếng rưỡi nữa mới đến Canberra. Chúng ta sẽ có mặt ở đấy vào lúc bốn giờ sáng, theo đồng hồ của em.
Nàng nhìn chàng cười:
- Thật là một ngày dài ghê, anh nhỉ ?
Chàng nói
- Anh biết. Hai tiếng nữa chúng ta sẽ ăn trưa. Nếu anh là em, anh sẽ cố ngủ một chút Chàng thử lại ghế để cho nàng biết cách điều chỉnh khi muốn nằm duỗi ra. Chàng nói:
- Aên trưa xong, anh sẽ đến, nếu mọi việc êm thấm, em có thể lên phía trước ngồi một chút. Thay đổi không khí mà em, luôn dịp anh chỉ trên bản đồ là chúng ta tới đâu. Ngồi trong buồng lái nhìn thấy cảnh tuyệt vời lắm anh nhỉ ?
Nàng hỏi.
Đúng vậy
Chàng trả lời
- Hàng ngàn dặm chẳng có gì đổi khác. Nàng cười:
- Thế anh không thấy mặt đất sao ?
Không thấy được lúc đúng ngo.
Chàng nói
- Không rõ lắm đâu. Lúc hoàng hôn hay lúc rạng đông thì thấy được nhiều hơn, nhưng ở độ cao như thế này, mặt trời thì quá sáng, bầu trời thì tối quá, thì còn để ý đến mặt đất làm gì nữa!
Nàng lại hỏi:
- Chúng ta ở độ cao bao nhiêu ?
Khoảng bốn mươi tám ngàn
Chàng trả lời
- Chúng ta thay đổi dộ cao từ từ trong lúc bay thì máy bay sẽ nhẹ hơn.
Chàng đi ra sau và nói chuyện một lúc với nam nữ tiếp viên về bữa ăn. Rồi chàng hỏi:
- Nữ hoàng đang làm gì ?
Nữ hoàng đang nghỉ , thưa ông.Tôi đã làm xong nệm giường cho ngài.
Nữ hoàng khỏe chứ? Có bệnh hoạn gì chăng ?
Nữ tiếp viên lắc đầu:
- Tôi nghĩ, ngài đang còn mệt lắm, thưa ông. Ngài nói ngài ngủ không yên giấc.
Bác sĩ là nhân vật thứ tám của đoàn tùy tùng hoàng gia, một y sĩ của phố Harley, bác sĩ Mitchison. David dừng lại bên ghế ông ta , trên đường trở về buồng lái và nói với ông ta về sức khỏe của Nữ hoàng và được ông ta bảo đảm. Chàng tiếp tục đi, khi qua buồng của Quận công cửa còn mở, Quận công đang đứng ở trong nói vọng ra:
- Tôi xin phép lên buồng lái được không cơ trưởng ?
Xin mời ngài
- David nói.
Trong mười lăm phút ông ta đã thảo luận về việc hải hành với sĩ quan hải quân, có lúc hai người đã sử dụng kính lục phân dùng cho tàu biển để định vị trí. Chiếc máy bay bay lơ lửng trên bầu trời, tưởng chừng như bất động, cần khảo sát tầng mây phía dưới để theo dõi bất cứ một động tác nào về phía trước. Giờ này máy bay đang từ từ bay qua Iowa và Nebraska. Quận công ở lại với David được một giờ, ngồi trong ghế của phi công, học về chức năng của nhiều loại thiết bị và kiểm tra tay lái.
Tôi muốn đưa Nữ hoàng đến đây khi Nữ hoàng thức dậy
Ông ta nói
- Nhưng giờ này thì bà ấy còn hơi mệt.
Thưa ngài được.
Quận công đi trở về buồng của ông ta và David ngồi vào tay lái trong lúc Ryder nằm trong một giường ngủ ở đàng sau buồng lái. Người nữ tiếp viên mang đến cho David một khay ăn trưa, anh ta vừa lái vừa ăn, vừa lúc máy bay qua bang Arizonavới những dãy núi xám đỏ hiện ra ở phía dưới xa. Frank Cox tiến đến cầm tay lái thế cho David, chàng đi về phía Rosemary và nói:
- Chúng ta sắp sửa vượt bờ biển. Em có muốn đến chỗ anh một chút không? Qua chỗ này rồi em sẽ không còn thấy gì nữa trong một khoảng thời gian dài.
Nàng trả lời:
- Em thích lắm.
Chàng đem nàng lên buồng lái, ngồi vào chổ của phi công phụ. Frank Cox bảo là muốn đi ngủ, rút lui ra đàng sau. David ngồi với Rosemary cả tiếng đồng hồ ở tay lái. Chàng chỉ cho nàng đủ thứ nhưng đó chỉ là lối hướng dẫn trừu tượng, bởi vì máy bay đang bay theo một đường bay đều và thẳng hướng do sự kiểm soát của tay lái tự động. David nói:
- Anh muốn để cho em lái một chút nhưng sợ động đến giấc ngủ của Nữ hoàng, theo lời của cô tiếp viên. Chúng ta không nên đánh thức Ngài dậy vì chao đảo máy bay.
Cô gái nói:
- Đừng làm thế anh ạ! Nữ hoàng đã quá mệt trong hai ngày qua. Em không tin Ngài có thể ngủ yên.
Nữ hoàng đang ngủ, cô Gillian đã bảo mà !
Em hiểu rồi đừng làm gì để ngài bị đánh thức.
Thế chuyện gì vậy em ?
Chuyện Hoàng tử đấy, anh ạ!
Thế ông ta đến đây làm gì ?
Nàng yên lặng, rồi như có linh tính chàng hỏi ngay
- Chắc là ông ta không ưa công việc ấy ?
Có lẽ như thế. Em không rõ
Nàng trả lời
- Có điều gì đó rất hệ trọng, chưa biết là điều gì. Chúng ta đừng nên đề cập tới nữa , anh David nhé!
Chàng cười nói với nàng:
- Con cái tai hại thật! Anh không hiểu tại sao có người giờ này chưa có con!
Cô gái ngồi trầm ngâm một lúc rồi mới thổ lộ:
- Thật tệ hại, anh David ạ, bởi vì bản thân Nữ hoàng là một người hết sức dễ chịu, hiền hòa. Nếu như Ngài kiêu căng, ngạo mạn, thì cũng dễ thôi bởi vì lúc ấy chẳng có ai cảm thấy thương xót cho ngài cả. Nhưng đối với một người đàn bà nhỏ bé, giản đơn và đoan trang như thế lại phải chịu những trách nhiệm và khó khăn quá lớn và tất cả những hệ lụy của gia đình làm xáo trộn tất cả… thật độc ác.
Ngài được sinh ra và lớn lên là để đảm trách công việc
Chàng phát biểu
- Sự không may của Ngài không như sự không may của anh hay của em.
Em không tin là có sự khác biệt nào ca?
Nàng nói :
- Anh không thể giáo huấn con người mà không bị thương tổn bởi những điều ấy.
Giờ này Ryder xuất hiện và nắm tay lái nên Rosemary trở về ghế ngồi của nàng. David nằm xuống giường và ngủ được một tiếng đồng hồ. Khi chàng thức dậy, đã bốn giờ chiều, giờ uống trà. Chàng rửa mặt, uống trà xong, chàng đi đến bàn bản đồ để tính vị trí. Tính xong toa. độ chàng khoanh một vòng tròn trên bản đồ. Xong xuôi chàng quay về phía nhân viên điện đài và nói:
- Anh sắp sửa liên lạc với Christmas rồi đấy.
Bắt được đài rồi nhưng hướng chưa chính xác nên chưa rõ lắm. Có lẽ cũng mười lăm phút nữa, chỉ huy trưởng ạ!
Khi tiếp sóng được, nhớ cho biết là gì nhé!
Lúc sáu giờ mười lăm, giờ Ottawa, trên máy bay trở nên sinh động. David và Ryder ngồi vào ghế bay, sĩ quan cơ khí ngồi vào bàn kiểm tra ngay. Máy bay bắt đầu giảm tốc độ khi còn cách đảo Christmas sáu trăm dặm. Trời trong và nắng chói trên đầu, vì gần mười hai giờ trưa ở xích đạo. Dưới họ là biển xanh mù mịt hòa với sương mù xám ngoét chạy dài tới chân trời. Có tiếng động sau ghế, David nhìn quanh và Nữ hoàng đang đứng bên cạnh anh, sau lưng ngài là Quận công. David toan đứng dậy nhưng Nữ hoàng nói:
- Cả hai anh cứ ngồi yên. Đứng đây tôi có thể thấy khá rõ.
David vâng lời ngồi dựa ra ghế bay, khi bay lên hay hạ xuống chiếc Ceres tỏ ra ít vững vàng hơn là thích hợp với đường bay dài, nên David thích cầm tay lái mà có Ryder bên cạnh.
Nữ hoàng nói:
- Từ đây nhìn cảnh vật cũng đẹp lắm cơ trưởng nhỉ? Trong máy bay nơi này là tốt nhất.
David nói:
- Thưa ngài, giờ này chẳng có gì hay để nhìn cả.
Tôi biết
- Nữ hoàng nói
- Trong lúc bay làm sao mà thấy được! Thế đảo Christmas có gì hay chăng? Trước đây anh đã đến đó hay chưa, cơ trưởng?.
David trả lời:
- Thưa ngài, đó là một đảo san hô, nhưng khá lớn. Tôi đã đến đó nhiều lần. Quanh các đầm phá người ta có trồng dừa. Đảo lớn dài mười lăm dặm, rộng mười dặm. Sân bay nằm ở bờ biển phía bắc.
Nữ hoàng lại hỏi:
- Ở đấy dân chúng có đông không?
Dạ không nhiều, thưa Ngài. Lần cuối khi tôi đến đó, có chừng năm mươi thổ dân trồng dừa và một vị quản lý người Úc. Có một ông quận trưởng nhưng ông ta ở đảo Fanning cách đấy một trăm tám mươi dặm thỉnh thoảng ông ta có đến. Thường trực thì có hai sĩ quan và mười lăm binh sĩ thuộc không quân Hoàng gia Úc giữ phi đạo.
Tôi cũng muốn thăm cho biết.
Nữ hoàng hỏi thêm vài câu hỏi nữa về thiết bị, nhưng tuy nghe Daviad trình bày nhưng bà chẳng hiểu gì mấy. Sau đó Nữ hoàng cám ơn cơ trưởng và trở về buồng riêng của bà. Trước khi quay về, David còn hỏi:
- Thưa Nữ hoàng, Ngài có muốn tôi lượn một vòng quanh đảo trước khi hạ cánh không ạ? Khi gần đến, tôi sẽ thông báo và Ngài có thể đến đây xem tận mắt cũng được. Hay nếu Ngài muốn, tôi có thể bay, Ngài chỉ việc nhìn qua cửa sổ buồng là thấy đảo.
Nữ hoàng trả lời:
- Cám ơn cơ trưởng. Tôi sẽ trở lui đây.
Bốn mươi lăm phút sau, ở bốn ngàn bộ, David nói với Frank Cox trình lại với Nữ hoàng là đảo Christmas đã hiện ra. Nữ hoàng trở lui buồng lái và đứng giữa hai phi công, nhìn hòn đảo sáng lên trong ánh mặt trời, màu xanh bích ngọc và da trời phản chiếu trong đầm, cát san hô trắng xoá. David cho Ceres bay một vòng rộng và bay qua phi đạo cách một ngàn bộ. Nữ hoàng nói:
- Tuy nhỏ nhưng rất dễ thương! Ai sống trong căn nhà trắng bên cạnh đầm, căn nhà có sân quần vợt?
David trả lời:
- Tư thất của ông Quận trưởng đấy ngài ạ! Không hiểu có ông ta ở trong nhà không. Chắc là không, vì nếu có cơ chi đã có chiếc thuyền lớn của ông trong đầm, nhưng tôi chẳng thấy gì cả.
Nữ hoàng đứng nhìn say mê hòn đảo và trong lúc bà đang chăm chú nhìn David đã tiếp tục lái đến vòng thứ hai, sau đó Nữ hoàng không nhìn nữa và nói:
- Nếu được ở đây vài ngày chắc cũng thú vị lắm nhỉ? Quay về phía David, nữ hoàng nói
- Cám ơn cơ trưởng. Anh xem xét rồi cho hạ cánh.
Nữ hoàng đi về buồng riêng và David bay về phía đông của hòn đảo, có Ryder đang nói vô tuyến với đài kiểm soát. David cho máy bay quay ra biển và bay trở lại với tốc độ sắp đáp là hai trăm gút và cho chiếc Ceres bay là đà trên các ngọn dừa và đáp xuống phi đạo, tính ra mười tiếng từ khi rời Ottawa. Có một căn nhà tranh và một ít tiện nghi ở ngoài. David cho máy bay đổ gần đấy trong lúc Ryder giương cao ngọn cờ vương triều qua chiếc cửa sổ. Mười một người lính không quân và một sĩ quan đứng nghiêm trước căn nhà như một đội quân danh dự. Động cơ ngừng hẳn, cửa máy bay mở ra, hai thổ dân Fijian đẩy một bậc cấp không cao lắm vào cửa máy bay do vị sĩ quan hướng dẫn. Nữ hoàng bước xuống nhận lời chào và duyệt hành quân. Đoàn tùy tùng theo sau Ngài bước xuống bậc cấp xuống đất. David đi lo tiếp tế nhiên liệu với đoàn phi hành. Anh thấy Nữ hoàng và Quận công nói chuyện với hai ông Macmahon và Frank Cox và vị sĩ quan địa phương. Sau đó tất cả bước vào nhà có một số tiện nghi tối thiểu với Nữ hoàng. Quận công và vị sĩ quan hướng dẫn, còn Frank Cox và Macmahon ở trong một phòng giống như phần sau của chiếc xe tải ở đàng sau nhà. Tiếp tế nhiên liệu là một sự phức tạp trên đảo Christmas. Tất cả thùng phuy bốn mươi galông đều chứa đầy nhiên liệu và gần một trăm thùng loại này phải được bơm vào máy bay bằng một máy bơm xách tay loại nhỏ. Công việc như thế cũng tốn rất nhiều thời giờ. David định gởi cho FrankCox một lời nhắn là phải ở lại hơi lâu thì không đoàn trưởng trở lui và đến gặp David, chàng đang cùng đoàn phi hành đang làm việc. Cox nói:
- Chúng ta sẽ ở lại một hai ngày , Nigger ạ!
Có trời giúp
- David buột miệng nói
- Tôi định nói với anh là chúng tôi không thể cất cánh trước tối nay, với chiếc bơm chết tiệt và những thùng phuy quỷ quái này!
Thôi thì cứ từ từ mà làm. Hôm nay thì không thể đi được nữa rồi! Nữ hoàng, Quận công và thiếu tá Macmahon đã dời nhà vào tư thất của ông Quận trưởng rồi. Tôi vừa mới sắp đặt chổ ở cho bốn người đàn bà trong một chòi trống. Anh, tôi Ryder và bác sĩ Mitchison vào nhà ăn thôi. Mấy người còn lại đến ở với các bạn trong Không lực Hoàng gia Úc.
Chàng phi công đứng yên lặng một lúc vì đang điều khiển biết bao công việc và việc nào cũng cần sự chính xác. Chiếc máy bay ở tình trạng tốt và mọi thứ đã được điều chỉnh xong. David nói:
- Chúng tôi phải chỉnh bao nhiêu là đồng hồ báo hiệu. Phải làm cho nhanh. Còn tám tiếng đồng hồ nữa là chúng tôi phải có mặt ở Canberra. Trời ơi, nếu để Nữ hoàng tới trễ, thế nào cũng có một chầu la mắng!
Tôi biết. Tôi đang lo về chuyện đó mà!
Khẩu phần ăn thì sao?
Cơ trưởng hỏi
- Có mười sáu, không phải, mười bảy anh em. Phải gấp đôi người da trắng lên. Như vậy có đủ đồ ăn không ? Vị sĩ quan phụ trách ở đây, trung úy phi hành Vary bảo rằng đủ. Họ có để dành đồ hộp nhiều. David gật đầu. Đảo Christmas cũng giống như một địa điểm tiếp liên xa vời ở đấy nhiều phi hành đoàn bị kẹt nhiều tuần với chiếc máy bay có vấn đề, hoặc đấy là nơi những hoạt động chiến lược thình lình mang đến những kíp bay. David nói:
- Theo tôi, chúng ta nên đem theo tất cả thực phẩm trên máy bay gởi đến nhà ông Quận trưởng. Những thứ ấy tốt hơn những đồ ăn khẩu phần của Không lực Hoàng gia Úc.
David nhìn ông không đoàn trưởng hỏi:
- Có chuyện gì vậy ? Tại sao chúng ta lại dừng ở đây?
Tôi cũng không rõ
- Frank Cox lưỡng lự một chút rồi mới nói Trong lúc này Nữ hoàng đang chịu đựng một số phận oái ăm khó vượt qua. Tôi nghĩ, Ngài cần thời gian nghỉ ngơi và suy nghĩ ở đâu Ngài không cần gặp người ta và ở đâu Ngài phải luôn luôn có thái độ. Ngay khi Ngài đến đây là ngài muốn ở lại liền.
Trong vòng một khắc, tất cả mọi người trong đám tùy tùng đều biết chương trình thay đổi. Hầu hết bọn họ rất mừng được thư giãn trong hai ngày tắm biển và phơi nắng trên một hòn đảo của biển Thái bình. Những người vui nhất có lẽ là toán không lực biệt phái ở trên đảo Christmas, những người mà suốt chín tháng trời phải ở trên đảo Christmas thường xuyên, đã năm tháng rồi chưa có một bóng máy bay đến trừ chiếc oanh tạc cơ huấn luyện đã ở lại một đêm trên đường băng. Họ đã chán cả tắm biển, chán cả đá bóng, chán cả chơi lôtô. Giờ đây họ bu quanh chiếc Ceres, xem xét, sờ mó, ngửi. Họ không biết cách nào làm cho vừa lòng khách, những khuông mặt mới, những giọng nói mới.
David cũng mới quen trung úy phi công Vary, một bộ mặt trẻ, tươi tắn, quanh quẩn đời mình trên đảo, chỉ mong sao có ngày trở lại bay. Anh ta sắp xếp cho phi hành đoàn của mình có chổ ở, ra lệnh cho bốn người đàn bà phụ trách cơm nước cho sĩ quan trong một nhà ăn nhỏ, làm cho sĩ quan thì sướng mà binh sĩ lại rất bất mãn rõ rệt. Hai bên gặp nhau lần đầu trong giờ ăn trưa, hai giờ sau khi đáp xuống, những người khách chỉ muốn đi ngủ thôi và sau khi ăn là rút lui vào giường êm thấm để ngủ một giấc và tránh được cái nóng ban ngày.
Một giờ sau, trước khi mặt trời lặn, cơ trưởng mới thức dậy và trở lại đời sống bình thường, mặc vào một bộ đồ mỏng sạch sẽ, và bước vào phòng ăn nhỏ. Anh ta gặp ngay trung úy Vary đang hỏi ý kiến anh chàng nấu bếp Filipino, để chế biến làm sao cho bữa ăn tối thật ngon cho đoàn tùy tùng hoàng gia. Đó là một bài tập có thể làm nản lòng một tay nấu ăn giỏi hơn Vary, nhưng anh ta vẫn cố gắng miệt mài với cả nhiệt tình:
- Tôi nghĩ là chúng ta bắt đầu món tôm luộc với xốt chua ngọt.
Vary nói:
- Chúng ta có món tôm đóng hộp, cà chua hộp và ít rau diếp tươi. Chúng ta làm thịt hai con gà làm món ăn chính, có đậu hộp và khoai lang. Sau đó Aguinaldo rất sở trường về món kem tráng miệng với dừa non và dầu bạc hà.
Cơ trưởng nói:
- Đừng quá lo lắng và tốn kém vì chúng tôi. Các bạn thường ngày ăn gì thì chúng tôi ăn nấy.
Anh chàng có hơi thất vọng:
- Có nhiêu khê gì đâu! Tôi cũng cố thử sức một lần xem sao! Không phải lúc nàp cũng thấy được một cô gái như Gillian Foster trong phòng ăn đâu nhé! Các bạn có biết cô ta đến từ Shepparton nơi có nhà ga, còn tôi thì từ đồi Thiên nga, chỉ cách đó một trăm hai mươi dặm, chính nơi nàng cư ngụ. Thế có phải là một sự trùng hợp, chứ còn gì nữa!
Rõ ràng là anh ta vui quá nên cố làm một buổi ăn tối thật ngon, nên David chẳng nói gì sợ làm cản trở dự định của anh ta, mà chỉ khen mà thôi.
Họ có rất nhiều đèn lồng Trung quốc để trong kho và chỉ mang ra vào dịp Giáng sinh.Vary nói:
- Giáng sinh năm ngoái tôi không có mặt ở đây, nhưng tôi đã được xem rồi! Các bạn có thích xem không?
Rosemary đi vào nhà ăn cùng với Gillian Foster và hai người đang nói chuyện về những chiếc đèn lồng ấy và quyết định lấy một cái để che cái bóng đèn ở cuối đoạn dây điện đang lắc lư trên chiếc bàn. Người nữ tiếp viên bỏ đến nhà ông Quận trưởng xem thử có việc gì để làm. Lúc ấy mặt trời đã chìm xuống chân trời, David và Rosemary mới thả bộ dọc theo bờ biển đến đầu bãi tắm. Hai người cười với nhau về ông Vary.
Nàng nói:
- Anh ấy xem bữa ăn tối này quan trọng quá nhỉ! Chúng ta phải tỏ ra là rất vừa ý về bữa ăn đó. Sao anh ấy cứ băn khoăn mãi thế nhỉ?
David trả lời:
- Anh ta đang cảm thấy hạnh phúc lắm! Anh biết tâm trạng ấy rồi! Có một lần anh đã ở sáu tháng trên đảo dừa Keeling, nhưng ở đấy tệ hơn. Anh không bao giờ muốn có một công việc như thế này nữa đâu.
Hai người thả bộ chầm chậm qua các rặng cây đuôi ngựa, cành cây đang quét trên mặt cát của bờ đầm. Đầm có hình vuông, san hô từ đất liền chạy ra về hướng Bắc và hướng Nam, bị vùi trong cát và những rặng dừa, làm thành lối vào đầm quay về hướng Tây ở khoảng trống chỗ vào có một hòn đảo san hô nhỏ.
David nói:
- Đó là đảo Cook. Thuyền trưởng Cook khám phá ra nơi này vào buổi tối Giáng sinh, do đó người ta mới gọi là đảo Christmas. Em cứ nhìn vào vùng đất ở mỗi bên của lối vào. Phần phía Bắc gọi là Luân Đôn và phần phía Nam gọi là Paris.
Ai đã gọi như thế, anh Nigger?
Anh cũng không rõ, họ luôn gọi Luân đôn và Paris. Có người nào đó đã ở đây lâu đời rồi!
Nàng nói:
- Aét hẳn ông ấy rất cô đơn Dĩ nhiên rồi! Dầu sao bây giờ cũng đã có đường băng. Trước đây, ở đây làm gì có người!
Hai người tiếp tục đi và giờ này đã thấy căn nhà của Quận trưởng. Đi ngược với họ có hai người khác, dắt tay nhau. Người đàn ông cao, dáng thon thả, tóc hoa râm. Người đàn bà hơi thấp, người hơi đẫy, tuổi trung niên; cả hai người mặc đồ trắng mỏng.
David nói:
- Em nhìn kìa, chúng ta có nên rút lui chăng?
Rosemary nói:
- Không nên. Cứ đi qua tự nhiên, anh Nigger ạ!
Nữ hoàng dừng lại khi hai người tiến đến và nói:
- Chào cơ trưởng. Chào em Long. Đây cũng đẹp chứ nhỉ?
Thưa Ngài, dễ thương thôi! :
Cô gái trả lời Chàng phi công cười:
- Tôi vừa mới giải thích cho Rosemary về Luân Đôn và Paris, thưa Ngài! :
Chàng nói Luân Đôn và Paris?
Anh ta giải thích hai từ ấy và Nữ hoàng cười:
- Thật vô lý!
Sau đó Nữ hoàng hỏi về nơi ăn chốn ở Tôi mong mọi người được thoải mái
- Nữ hoàng nói tiếp :
- Tôi nghĩ là chẳng mấy thuận tiện về chỗ ở. Dĩ nhiên, chúng tôi thì không. Chúng ta có được một căn nhà nhỏ rất dễ thương Rosemary nói:
- Thưa Ngài, con nghĩ mọi người đều rất vui. Bất cứ người nào con nói chuyện đều rất thích thú.
David nói:
- Không lực Hoàng gia Úc cũng hết sức mãn nguyện.
Tôi cũng rất vui. Giá mà chúng tôi được xem thêm nhiều thứ trên đảo nhỏ này. Tôi không nghĩ rằng có ai trong gia đình tôi đã đến đây bao giờ, ngay cả khi nó thuộc về Anh quốc.
Rosemary hỏi:
- Thế nó thuộc nước Úc lúc nào vậy? Con vẫn cứ đinh ninh ngày hôm qua nó vẫn thuộc nước Anh.
Nữ hoàng nói:
- Năm 1961, chín năm sau khi ta lên ngôi. Chúng ta đã chuyển giao quần đảo Line cho Úc năm 1961. đấy là một sự sắp xếp hết sức tế nhị :
- Dừng một chút, Nữ hoàng hỏi :
- Hai bạn có ai chơi được quần vợt?
Rosemary ngần ngại trả lời:
- Con chơi được nhưng dở lắm!
Chàng phi công lại nói:
- Dạ, tôi chỉ chơi cho vui thôi!
Nữ hoàng trả lời:
- Ta hy vọng hai bạn chơi hay hơn hai chúng ta. Ta tìm được bốn cái vợt này trong căn nhà ấy. Có hai cái bị đứt dây chúng không được căng lắm. Có lẽ vì khí hậu. Chiều nay hai bạn nhớ đến thử một hai ván chơi nhé!
Thưa Ngài, vâng :
- Rosemary trả lời Oà thế thì còn gì bằng. Nhớ bốn giờ rưởi nhé! Như thế chúng ta sẽ chơi được một tiếng rưởi trước khi mặt trời lặn. Ta cũng nhớ mỗi người phải lo tập thể dục hàng ngày, khi ở vùng nhiệt đới. Nhưng khó mà làm được điều đó.
Họ chia tay nhau, Nữ hoàng và Quận công đi về hướng khác. David và Rosemary lại sóng bước trong im lặng. Cuối cùng Rosemary nói:
- Nữ hoàng là một phụ nữ tuy nhỏ người, nhưng đầy lòng nhân đạo. Thật không may khi ngài lại nhận một trách vụ như thế!
Trời vừa tối, hai người đã trở về nhà ăn. Bữa ăn tối đã chuẩn bị lúc bảy giờ để cô Gillian Foster có thể qua giúp dọn ăn ở nhà Quận trưởng vào lúc tám giờ. Bữa ăn trong nhà ăn thật vui vẻ, nào là rượu xê
Ri Uùc, rượu chát của Uùc. Dưới ánh trăng sáng của đèn lồng Trung Quốc, những đĩa dày và dao muỗng nĩa trông rất thanh nhã, và món tôm thú ăn với sốt chua ngọt do đầu bếp Filipino làm rất ngon, có lẽ bỏ nhiều gia vị quá để át mùi đồ hộp. Rosemary không mấy thích tôm sú, nên chẳng ăn con nào. Họ đã nâng ly để chúc sức khoẻ Nữ hoàng, có lẽ vì lòng thương mến hơn là xã giao như trong các nhà ăn. Sau đó Frank Cox cũng chúc sức khoẻ ông bếp trưởng vì đã cho một bữa ăn tối ngon miệng. Sau khi ăn xong, chẳng có việc gì phải làm trừ ra ngồi ngoài hiên nói chuyện, nhìn mông ra ngoài đầm dưới ánh trăng sáng. Ai cũng đã mệt nhoài sau một ngày dài bay từ Ottawa, lần lượt từng người một xin lỗi và chuồn êm. Đến chín giờ rưỡi David mới đi ngủ.
Vào khoảng nửa đêm, cơ trưởng đã trải qua một giấc mơ hãi hùng. Anh ta thấy mính sắp chết, hình như anh ta đang nằm trên một chiếc giường trong một căn phòng tối, anh ta rất lạnh và đồng thời toát mồ hôi. Anh ta đau như cắt ở phần bụng, đôi chân hình như bị tê liệt và mọi thứ quanh anh đều hôi thối, cơ thể hôi thối vì mồ hôi hôi thối, giường nằm hôi thối vì vải trải giường bẩn thỉu, và trong miệng và mũi có mùi gì kì quặc và ghê tởm. Anh ta biết rằng dầu sao cái mùi kinh tởm ấy cũng làm nhẹ cơn đau và anh ta vùng vẫy một cách yếu ớt để cử động đôi tay để cho mùi ấy tái tục nhưng các cơ bắp không nhúc nhích được nữa. Anh ta hiểu rằng chất cay của rượu huýt ki đốt cháy cổ họng cũng làm giảm cơn đau và dịu đi mùi hôi thối quá mức đang bủa vây chỗ anh ta nằm và anh ta cố vùng vẫy để xin cho được huýt ki nhưng tứ bề yên lặng vì thực tế anh ta đã chết.
Có một người đàn ông ngồi cạnh giường, đang nắm bàn tay anh ta và người đàn ông này mất trí nhớ. Bàn tay ông ấy nóng ran như cái lạnh lẽo của David, và cả hai người đang đổ mồ hôi như tắm khiến người ta liên tưởng hai người đang dầm tay dưới nước. Người đàn ông này cũng bệnh hoạn, trí óc đang phiêu du đâu đó, ông ta là một mục sư, một người bạn thân thiết đã kiếm được giường cho người bạn đau tai nằm, nhưng ông ta không còn nhớ gì nữa và đang lang thang trong thế giới đầy thiên thần của thiên đàng.
Ơû đấy cũng có một người đàn bà, một Xơ của bệnh viện nhưng không thể làm gì để làm giảm cơn đau của ông ta vì cá sấu đã nuốt chửng cái xách cứu thương của cô y tá và do đó cô ta phải đi ngủ. Cô ta ngồi ở bàn, đầu tựa trên cánh tay mà ngủ và người bệnh được bỏ lại cho một mục sư bệnh hoạn trong đêm tối. Nơi mà ông ta ở là một căn nhà xiêu vẹo, hay một chòi tranh thì đúng hơn, nằm trên nổng đất bao quanh là nước lũ và các loài thú vật đã tập trung về đây, con thì nhảy, con thì bò, con thì chạy về mảnh đất nhỏ bé ấy trong đêm tối giữa cảnh lụt lội này. Chúng đã đến vì sự chết chóc là một điều hết sức bí mật và những con vật cũng tò mò về cái chết của ông ta. Chúng đã tập họp ở đấy, thành một vòng tròn quanh nhà trong ánh trăng có khi bị gián đoạn vì bị mây che, và càng lúc chúng càng tiến sát vào vì chẳng có ai ngoài vị mục sư nửa tỉnh nửa mê trong căn nhà ấy và chúng cũng chẳng sợ gì ông ta. Hiện tại, nếu ông ta đã chết, chúng sẽ vào phòng xem ông ta chết, ông ta phải biết cái giây phút chúng vào phòng và phải biết mỗi lúc bầy súc vật càng tiến gần hơn. Cơn đau đang vò xé ông ta.
Thú vật cũng đúng thôi. Bạn bè thân thiết đôi khi cũng đúng thôi. Họ không bao giờ làm bạn tổn thương, trừ phi bạn tấn công họ. Hai trăm ba mươi con ngựa ở trại Wonamboola mà bạn làm chủ, những con vật câm ấy không bao giờ gọi bạn là thằng say xỉn, trừ khi chúng quá sợ, trở nên điên khùng đối với bạn, làm bạn chấn thương mà chẳng cần biết tại sao. Anh ta cũng chẳng ngại thú vật, vẫn để cho chúng vào phòng để nhìn anh ta chết nếu chúng muốn. Càng sớm càng tốt. Một lần nữa cơ thể của anh lại oằn đi vì cơn đau thắt ruột.
Trong đêm tối, chỉ còn một đốm sáng, như một gã nào đó đang cầm cái đĩa có đoạn nhỏ đèn cầy còn lại trên đó, miệng đĩa cao che khuất đèn cầy và ngọn lửa,chỉ còn thấy ánh sáng hồng le lói tỏa ra. Và trong ánh sáng hồng ấy có một bộ mặt, vàng bệch, nhăn nheo, bộ mặt của một ông già tàu trôi nổi trong không khí trước mắt ông ta. Bộ mặt ấy đã từng trôi nổi trước mắt ông ta trong đêm đen, đôi môi lay động và lời nói phát ra:
- Anh hút một điếu nhé, anh Stevie?.
Lời nói dẫu sao vẫn làm ông nhẹ nhõm. Ông ta cố đáp to nhưng không có âm thanh. Ông lại nhìn đôi mắt khẩn khoản và khuôn mặt ấy nói:
- Được thôi, mình sẽ cho bạn hút.
Sau đấy là một khoảng lặng, rồi những động tác quen thuộc xảy ra rất gần với ông ta hứa hẹn cơn đau sẽ nhẹ đi, một lần nữa, cả trong miệng ông và trên sóng mũi. Giờ này thì ông có thể thư giản, không còn thấy đau đớn, có thể trở về với cơn mơ, với nước Anh, với Ratmalana, với phi trường Fairbairn ở Canberra, đi qua tất cả thế giới, tới lui như con thoi, có chở theo cả Nữ hoàng. Đảo Chistmas ở giữa biển Thái bình và đang yêu.
Đảo Christmas. Cơn đau nhói mạnh như một cú đấm làm anh ta mở bừng mắt, rên rỉ, kêu la trong cơn đau. Anh ta đang ở trong một căn phòng lạ mà anh ta chưa nhận ra, nhưng khác với chòi tranh ở nơi lụt lội, lại có ánh sáng trăng trong phòng và ánh sáng của ngọn đèn điện dưới cửa. Qua bức vách mỏng, anh ta nghe giọng ai nói Có một người nữa đang bị đau đây này. Ai ngủ ở đây nhỉ?
Có tiếng của Rosemary trả lời
Chỉ huy trưởng Anderson đấy!
Cửa mở và người ta bật đèn lên. Chàng ta ngồi dậy trên giường, bụng vẫn còn quặn đau. Bác sĩ Mitchison trong bộ đồ ngủ đứng ở cửa, có Rosemary mặc áo khoát ngoài đứng ở đằng sau. Bác sĩ nói:
- Anh thấy đã khỏe chưa?
Cơ trưởng trả lời:
- Còn đau nhiều lắm Rán ở đó vài phút, tôi sẽ kiếm cho anh một ít thuốc.
Bác sĩ biến mất sau hành lang, còn lại Rosemary đứng trên lối đi nhìn chàng, nàng đang cười. Ngay cả khi đau đớn, chàng vẫn nghĩ là nàng thật quyến rũ trong bộ áo khoác. Chàng hỏi:
- Có chuyện gì thế?
Nàng nói:
- Do món tôm đấy, anh Nigger ạ! Ai cũng bị đau trừ em, vì em không ăn con nào. Aét hẳn là do hộp thiếc mà ra!
Chàng liếm môi để làm sạch mùi hôi còn trên miệng. Chàng thì thầm:
- Anh đã mơ một giấc mơ kinh khủng Về cái gì?
Anh cũng không rõ, anh nằm hấp hối trong một lều tranh với một mục sư bệnh hoạn và cá sấu đã ăn hết các loại thuốc chữa bệnh.
Vị bác sĩ đã trở lui mang theo nửa bình nước với chất bột trăng trắng trong ấy. Ông ta khuấy lên với cái tay cầm của bàn chải đánh răng. Bác sĩ nói:
- Uống đi. Nếu còn đau, đến tôi ngay tôi sẽ cho uống thêm một ít nữa.
Viên phi công cầm lấy hỏi:
- Thứ gì thế này?
Diazentothene. Nếu anh uống nhiều vào, anh sẽ khỏe thôi.
Chàng uống xong đưa lại cho bác sĩ. Ông ta vội vã đi thăm người bệnh khác. David nói với Rosemary:
- Em nói ai cũng bị như anh phải không?
Người nào có ăn tôm. Đó là chất độc do vi khuẩn tạo ra trong thịt thối. Ông Vary và cô Turnbull bị nặng nhất, anh Nigger ạ!
Cơn ói chợt đến và Nigger chạy ra khỏi giường. Anh ta nói:
- Anh cũng bị nữa đây. Xin lỗi, anh phải chạy cho kịp.
Đêm ấy không có ai trong cư xá sĩ quan được yên giấc, trừ Rosemary, khi mọi việc đã kiểm tra xong, một hai giờ sau là cô đi ngủ. Một số người da trắng, bị cơn bệnh vật vã, từng người bò ra ngoài hàng hiên sớm hôm sau khi những phòng ngủ quá nóng không thể ngủ được nữa. Họ ngồi trong ghế bố xếp trong bóng tối để hóng gió với bộ áo quần mỏng manh nhất và bắt đầu cảm thấy khoẻ trở lại. Rosemary cũng báo những chuyện không may ấy cho Thiếu tá Macmahon ở tư thất ông Quận trưởng, Thiếu tá cũng đã thân hành xuống xem sự thể. Chuyện đã xảy ra rồi, còn làm được gì ngoài việc uống thuốc, để xem công hiệu đến mức nào. Hầu hết đoàn tùy tùng uống thuốc nước Diazentothene và rượu mạnh trong lúc ăn trưa, có người khoẻ hơn lại còn ăn bánh ngọt pha sữa.
Rosemary chấm dứt bữa ăn trưa bằng món gà ướp lạnh. Sau khi ăn trưa, David đã thấy đỡ nhiều. Anh ta mặc một bộ đồng phục mỏng mới giặt ủi và đi bằng chiếc xe thùng ra đường băng để kiểm tra chiếc máy bay xem thử mọi việc đã xong chưa? Anh ta trở về phòng ăn lúc bốn giờ và thấy Rosemary đang ngồi một mình ở hành lang. Cô ta nói:
- Em đã đi lên tư thất của ông Quận trưởng và đã gặp Quận công Philip. Em định xin lỗi vì buổi đấu quần vợt nhưng ngài nói ngày mai chúng ta sẽ đánh cặp. Em cũng đang lo là anh đã thật sự khoẻ chưa để chúng mình có thể đi tắm biển.
Chàng trả lời:
- Giờ thì anh đã khoẻ nhiều. Anh muốn đi tắm với em.
Hai người thay xong áo quần tắm là xuống biển liền và cùng ngâm mình trong nước ấm trên cát trắng. Có tin đồn là thỉnh thoảng cũng có cá mập, nên hai người không dám lội xa bờ Ơû đầu bãi tắm về hướng Bắc cách hai người một phần tư dặm có ba bốn người trong không lực hoàng gia Uùc biệt phái đang tắm ở chỗ cạn. Cũng khoảng cách chừng đó nhưng về hướng Nam, trước tư thất của ông Quận trưởng, có một ít bóng râm trên bãi nhờ người ta buộc một cái lều ở giữa những hàng cây đuôi ngựa. Trong bóng mát ấy có một người đàn bà trung niên đang cùng chồng ngồi trên ghế bố xếp, cả hai đang mặc đồ tắm. Rõ ràng là họ mới vừa tắm xong, vì khăn tắm đang phơi ở dây buộc lều. Giờ thì họ ngồi với nhau nhìn ra đầm David lộn một vòng dưới nước, nhìn về phía hai người, chàng nói:
- Anh không hiểu hai ông bà đang nói gì?
Nước Anh :
- Rosemary trả lời :
- Em tự hỏi đây có phải là nơi thuận lợi để họ trở về nước Anh không?
Thì đã có gì sai trái đâu!
Nàng quay về phía chàng nói:
- Ý em muốn nói, chỉ nhìn thôi, cũng tình tứ lắm nhỉ?
Nàng nhìn quanh, toàn một màu biển xanh nhấp nhánh, cát trắng và từng hàng dừa màu lục đậm vây bọc. Nàng nói tiếp:
- Nơi đây cũng giống như một sân khấu trình diễn. Nước Anh với những đô thị công nghiệp, nào Leeds, Bradford, Newcastle và Birmingham và mỗi nơi đều có sắc thái riêng của nó. Anh có nghĩ rằng, trên hòn đảo Christmas như thế này, họ có thể có những quyết định sáng suốt cho số phận tốt đẹp nhất của mỗi thành phố như Manchester chẳng hạn?
Chàng liếc nhìn nàng, và cái liếc nhìn bị lạc vào màu da trắng nỏn và đường cong mềm mại của cơ thể nàng. Chàng tự nhủ phải trở lại đề tài đang thảo luận:
- Không phải Nữ hoàng quyết định cái gì tốt đẹp nhất cho Manchester, mà Ngài đang quyết định cho Liên hiệp Anh. Vấn đề lớn là Liên hiệp Anh, nước Anh chỉ là phần nhỏ :
Chàng dừng một chút rồi nói tiếp :
- Dầu sao Ngài cũng không thể ngồi yên lặng suy tư bất cứ nơi nào khác mà không bị quấy rầy suốt ngày.
Nàng nói:
- Em biết. Sáng nay em đã đến đấy và hỏi Thiếu tá có việc gì cần làm, như giặt giũ, là quần áo, hay một việc nào khác, trong lúc cô Gillian Foster và người phụ việc bị bệnh. Ông ta trả lời là thấy Nữ hoàng chưa cần hoặc không muốn làm phiền ai. Ngài đã ngồi như thế ngoài bãi biển với phu quân suốt cả buổi sáng và có lẽ Ngài cũng ngồi như vậy trong suốt cả buổi chiều nữa.
Chàng nói:
- Một ngày nào đó chúng ta sẽ biết chuyện gì sẽ xảy ra. Giờ này thì hãy quên đi.
Chàng lại nhìn làn da quyến rũ của nàng, giờ này có hồng lên đôi chút:
- Coi chừng bị sạm nắng, nếu em cứ ở mãi ngoài trời như vậy. Ta tìm bóng mát mà tránh nhé!
Nàng nhìn xuống chân tay và nói:
- Chắc em phải bị ăn nắng thôi! Em không quen anh ạ :
Rồi nàng nhìn chàng nói :
- Anh còn đen hơn em nhiều Chàng bình thản trả lời:
- Đúng đấy!
Không phải em muốn nói thế đâu, anh Nigger. Anh cũng bị rám nắng phải không anh?
Chàng nhìn thân thể mình nói:
- Không phải vậy đâu. Có lẽ chỉ hơi tái đi một chút. Xa Uùc đã gần một năm rồi, còn gì! Vào mùa hè bên ấy nếu tắm nhiều, sưởi nắng nhiều, da anh đen sậm cơ!
Nàng cười:
- Muốn hay không, anh cũng đã đổi khác rồi đấy! Anh giống như một người Anh mới đi tắm biển hè miền Nam nước Pháp về Chàng trả lời:
- Anh bảo đảm, đây là kiểu rám nắng thường xuyên. Không tróc đi được :
Chàng liếc nhìn nàng nói tiếp :
Giống như mở nắp hộp sô cô la vậy!
Nàng cười:
- Dầu so, người ta cũng không nghĩ ra cái cảnh anh đau đớn quằn quại cách đây mười hai tiếng Chàng nói:
- Thôi mà! Anh chỉ bịp thôi! Anh mà mơ cái gì!
Hai người ngồi xuống trong bóng mát của những thân cây. Nàng nói:
- Anh hãy kể cho em nghe về giấc mơ hôm qua. Chuyện anh sắp chết với một mục sư bệnh hoạn bên cạnh.
Chao ôi! Đó là một giấc mơ kinh khủng :
Chàng nói Có phải anh nằm mơ bình thường của một người đang ngủ không?
Chàng lắc đầu. Nàng lại nói tiếp:
- Hãy kể cho em nghe về vị mục sư bệnh hoạn ấy.
Chàng ngồi yên lặng một lúc, đưa mắt nhìn ra đầm. Cuối cùng chàng nói:
- Nếu nói ra thì có vẻ quê quá nhưng vì anh quá sợ. Anh không biết có nên nói ra nỗi sợ hãi ấy không? Đó là một loại trạng thái khủng khiếp mà anh đã trải qua.
Nàng tò mò nhìn chàng , xúc động bởi lối nói quá trịnh trọng của chàng:
- Có thật dễ sợ như vậy chăng, anh David? :
Chàng gật đầu :
- Thế thì kể cho em nghe đi!
Và chàng kể cho nàng nghe. Cuối cùng nàng nói:
- Giấc mơ đến từ kí ức, phải không anh? Những sự việc xảy đến cho anh và thực tế anh đã quên đi. Và rồi chúng ập đến trong giấc mơ, tất cả đều lộn xộn vô trật tự Chàng nói:
- Anh hiểu đấy chỉ là lời giải thích, nhưng những điều như thế đã bao giờ xảy đến cho anh đâu!
Anh không thể nhớ hết mọi điều có thể là nguồn gốc của giấc mơ của anh. Một phần thôi cũng không nhớ.
Chàng lắc đầu:
- Nhớ gì đâu!
Nàng cười:
- Thế thì em cũng quên luôn giấc mơ ấy luôn Phía bên kia cửa vào đầm, người ta thường gọi là Luân đôn, có một chiếc tàu chạy bằng điêden, dài chừng ba mươi mét xuất hiện. Tàu chạy vào giữa khoảng đất liền và đảo Cook và chạy thẳng vào đầm, chứng tỏ tàu đi biển nhiều, tuy sơn trắng nhưng nước sơn đã cũ, cần sơn lại. Sau đuôi tàu có treo cờ Uùc màu xanh.
Rosemary nói:
- Anh nhìn kìa, cái gì đang tiến vào?
David cười:
- Anh cho em đoán ba lần tàu của ai?
Nàng đáp:
- Ông Quận trưởng từ đảo Fanning Chàng gật đầu:
- Có lẽ đúng. Chuyện này chưa bao giờ xảy ra trong khu vực của ông ta kiểm soát và cũng chẳng muốn có lần thứ hai Aét hẳn ông ta cũng giật mình khi nghe Nữ hoàng và Quận công đến ở nhà ông ta trên đảo Christmas, cách xa cả một trăm tám mươi dặm mà ông ta không có mặt ở đó để nghênh đón và bệ kiến.
Có lẽ là ông ta nghĩ rằng đó chẳng qua là một âm mưu thâm hiểm làm cho ông ta bị hố đối với một vị tước hầu.
Chiếc tàu khi vào đầm, chạy chậm lại, các thuỷ thủ mặc đồ nâu xuất hiện trên bong, bắt đầu thả neo. Rosemary nhìn rồi nói:
- Anh David nhìn kìa!
Nàng cầm tay chàng, cái cầm tay làm chàng xúc động. Chàng nhìn xuống cánh tay nàng và nhìn ngược trở lên xem thử điều gì đã làm cho nàng vui như thế. Ba người đàn ông da trắng mặc vét mỏng loại thích hợp cho khí hậu nhiệt đới xuất hiện trên bong và hai người đàn bà da trắng cũng mặc trịnh trọng như vậy, đội nón Ascot rộng vành, mang găng tay, sẵn sàng lên bờ xin bệ kiến Nữ hoàng.
Nàng nói:
- Ông ta đem theo vợ và các người phụ tá :
Trong lời nói có vẻ bực mình :
- Anh David này :
Cả một nơi như thế này, Ngài cũng không được sống giản dị, ngay chỉ trong một ngày.
Chàng trả lời:
- Họ sẽ không thể quấy rầy Ngài nhiều được đâu! Họ phải ở lại trên thuyền, phải không?
Anh xem kìa, họ đang thả xuồng xuống :
Nàng buồn bã nói :
- Tất cả bọn họ sẽ lên bờ. Ngài không thể ngồi trong ghế bố xếp, mặc áo quần tắm mà để cho họ vấn an sức khoẻ được Cả hai nhìn lên bãi nhưng ghế chẳng thấy ai ngồi, chắc là đã đi vào nhà. Nàng giận dữ nói:
- Sao lại có loại người điên đến thế! Không cho Ngài được rảnh rang.
Hai người ngồi yên lặng dưới bóng râm của hàng cây đuôi ngựa và nhìn thấy chiếc thuyền chèo cập sát bờ đến chiếc cầu tàu nhỏ phía trước nhà của Quận trưởng, trên thuyền có đàn ông lẫn đàn bà, các bà trang phục đầm rất đẹp. Thiếu tá Macmahon từ nhà đi xuống cầu tàu đón phái đoàn và đứng nói chuyện với họ, trong lúc Rosemary như sực tỉnh, nhớ ra nhiệm vụ của nàng nói:
- Ôi trời! Em phải có mặt ở đấy để ngăn những người đàn bà kia khỏi gặp mặt Nữ hoàng.
Nàng cầm khăn tắm chạy biến vào phòng ăn của không lực Hoàng gia Uùc. David ngồi ở bãi biển được vài phút, nhìn đoàn người rời cầu tàu đến nhà ông Quận trưởng. Sau đấy, chàng cũng từ từ đi về phía trại. Chàng đi qua mặt Rosemary, thấy nàng ăn mặc lịch sự và đang vội vã đi làm phận sự.
Chiều hôm ấy, trước giờ ăn tối, lúc David đang còn ngồi ở hàng hiên nhắm nháp ly cà chua trong lúc người khác uống rượu Gin, thì Frank Cox đi vào phòng ăn và gọi tên anh ta:
- Chúng ta sẽ tiếp tục bay vào ngày mai, Nigger. Nhớ cất cánh vào lúc chín giờ nhé!
Đi Canberra?
Đúng. Mọi người sẵn sàng bay vào ngày mai chứ?
Vâng ạ! Tôi đoán Nữ hoàng muốn bay thẳng đến Tharwa?
Đúng vậy. Ơû đây cũng hơi khó khăn, giờ này họ mới cảm thấy như vậy. Thật ra chẳng đủ chỗ ở cho tất cả chúng ta.
Thế họ không ngủ được trên con thuyền chết tiệt của họ hay sao?
Ưø, thì cũng được đấy, nhưng tôi thấy có vẻ thô sơ quá. Dầu sao, Nữ hoàng muốn đi tiếp. Ngài muốn giam mình ở Tharwa và chẳng tiếp một ai. Ơû đây chẳng có một sự sắp xếp hay bố trí nào bảo đảm cho sự biệt lập của Ngài Viên phi công gật đầu:
- Thế Rosemary đang làm gì?
Cô ta đang hướng dẫn những người đàn bà quanh quanh đâu đấy, chốc nữa sẽ đi theo họ và ông Macmahon xuống thuyền. Họ sẽ ăn tối trên thuyền Họ lên bờ mà không ai ý kiến gì sao?
Thì họ được phép đến chín giờ.
David gật đầu:
- Tôi sẽ đi tìm cô ấy. Giờ đó mà trở về thì hơi tối nhất là đi qua rặng cây một mình Sau khi ăn tối, chàng thả bộ xuống cầu tàu và ngồi trên cọc buộc thuyền trong bóng tối. Vầng trăng mới mọc làm cho bầu trời sáng lên. Đèn trên thuyền chiếu sáng mặt đầm và trên mặt nước yên lặng, chàng còn nghe được tiếng nói cười vọng lại. Đàng sau lưng chàng, trong tư thất của ông Quận trưởng giờ này chẳng còn đèn đóm gì cả, trừ một ngọn trong nhà bếp nằm ở sau. Chàng khôngthấy được những ghế bố xếp trong bóng tối nhưng chàng cũng đoán là đã có người ngồi.
Ngay lúc ấy, trong lúc chàng chờ đợi, có tiếng bước chân trên cầu tàu sau lưng chàng và chàng đứng ngay dậy. Trăng chưa lên hẳn, nhưng trong ánh sáng mờ nhạt, chàng thấy Quận công và Nữ hoàng. Nữ hoàng hỏi:
- Chỉ huy trưởng Anderson đấy à?
Thưa Ngài, vâng. Tôi đang đợi cô Long để đưa cô ấy về nhà.
Anh chu đáo quá! Rất tiếc về chuyện bữa tối. Anh nay đã khoẻ hẳn chưa?
Chàng cười:
- Dạ khoẻ. Cũng nhờ bác sĩ Mitchison. Ngay cả ông ấy cũng bị.
Nữ hoàng nói:
- Nghe như thế ta cũng lo lắm, vì đồ hộp là do em chở tới bằng máy bay. Biết đâu trong đồ ăn của ta cũng có món tôm.
Anh ta lúng túng trả lời:
- Không can gì đâu, thưa Ngài.
Cả ba người đứng nhìn ra phía đầm khi trăng đã lên cao. Nữ hoàng nói:
- Đây cũng là nơi đáng yêu. Được đến đây như thế này ta cũng thấy vui lòng. Mong sao có một ngày nào đó lại đến nữa Viên phi công nói:
- Đây là nơi tiếp tế nhiên liệu tốt nhất giữa Canada và Uùc Nữ hoàng quay về phía phu quân:
- Có lẽ chúng ta cũng nên xây một căn nhà nhỏ của riêng mình, nếu chúng ta đến đây thường xuyên một căn phòng nhỏ với hai phòng ngủ nơi chẳng ồn ào náo nhiệt Quận công nói:
- Anh nghĩ chắc cũng không khó, em nhỉ?
Trên thuyền có tiếng nói lao xao và rồi ánh đèn dọi xuống thang phía dưới có chiếc thuyền nhỏ đậu sẵn. Thiếu tá Macmahon và Rosemary bước xuống thuyền nhỏ và chốc sau có tiếng mái chèo rập ràng khua nước.
Họ đến rồi kìa!
- Nữ hoàng nói, quay về phía David :
- Ta rất tiếc đã không thể thực hiện được cuộc chơi quần vợt với hai bạn. Ta vẫn mong có một chiều nào đó ở Tharwa, em đem cô Long đến dùng tối với ta và ngài Quận công, có được chăng?
Xin cám ơn Ngài :
- David nói :
- Chắc cô ấy cũng không phụ lời mời của Ngài đâu!
Nữ hoàng lại nói:
- Hôm nay cô ấy đã giúp ta nhiều lắm đấy! Đến Tharwa rồi ta sẽ cho biết chiều nào nhé. Chúc ngủ ngon, cơ trưởng.
Chúc Ngài ngủ ngon.
Hai người đi khuất vào bóng tối của hàng cây đuôi ngựa, David đứng lại chờ thuyền. Giờ này chàng đang đi bộ dọc theo bãi biển cùng Rosemary, chàng hỏi:
- Bữa tiệc trên tàu thế nào em?
Cũng được anh ạ! :
Nàng trả lời :
- Họ cũng dễ thương nhưng dĩ nhiên là họ không thể hiểu được rằng đôi lúc Nữ hoàng cũng cần phải thư giãn và làm những việc không cần thiết như người thường vậy, cũng như Ngài thích gì làm nấy. Dĩ nhiên, Ngài hết sức nhân từ đối với họ, mà tính Ngài luôn luôn vậy. Và họ cũng rất xúc động khi gặp được Ngài :
Nghỉ một lúc nàng lại nói tiếp :
- Con người ta ở đời không thể giữ mãi thói hư tật xấu. Đó chẳng qua chỉ vì hoàn cảnh mà thôi.
Chàng nhìn nàng khi hai người sánh bước bên nhau dưới ánh trăng Anh không tin lúc nào em cũng xấu nết tất :
Chàng ta nói Nàng trả lời:
- Anh sai rồi đấy. Khi còn bé, tính nết em đáng ghét lắm, cho mãi đến bây giờ vẫn còn.
Hai người yên lặng đi bên nhau men theo bãi biển. Một lúc sau chàng nói:
- Nữ hoàng muốn mời chúng ta chơi quần vợt vào chiều nào đó khi đến Tharwa.
Nữ hoàng mời? Anh gặp Ngài lúc nào?
Mới đây thôi, trong lúc anh đang chờ em lên bờ. Ngài đi với Quận công ra cầu tàu.
Ngài muốn nói cả hai chúng ta cùng đi sao?
Đúng vậy. Quần vợt và ăn tối.
Cô gái ngạc nhiên nói:
- Nhưng Ngài chưa biết tên em. Ơû đây, thì được thôi, nhưng ở Tharwa, lại khác, giống như ở hoàng cung.
Chàng lại nói:
- Ngài bảo là em đã giúp Ngài nhiều hôm nay, nên cứ để cho Ngài mời để có dịp trả ơn.
Em hiểu. Đấy chỉ là công việc em làm quen thường ngày. Không bao giờ em cho đó là công việc xứng đáng ở Luân đôn.
Chàng cười:
- Thì anh cũng nghĩ thế. Anh không biết là dì Phoebe ở Chillagoe sẽ nói gì khi dì biết rằng anh đã ăn tối với Nữ hoàng. Có lẽ dì cũng hy vọng được đề bạt lên làm ở quầy rượu hoàng gia.
Nàng dừng lại để tay lên tay chàng nói:
- Em không thích nghe anh nói như thế, anh David ạ! Dì ấy là em mẹ anh, tuy dì ấy cũng đã già rồi, đen trắng hay lai không đáng kể. Nhưng dầu sao dì ấy cũng không phải là thước đo thành quả của anh. So với số đông, anh vào đời cũng chưa may mắn lắm, và anh cũng cố gắng vươn lên đến đỉnh cao, khi quê hương anh tạo cho anh cơ hội tốt nhất để được phục vụ Nữ hoàng. Nếu Nữ hoàng muốn mời anh ăn tối, là Ngài muốn tìm hiểu anh thêm, ngoài thành quả anh đã đạt được. Theo em, anh cũng đừng nên xem thường bữa ăn ấy Chàng quay lại đối diện với nàng, để nguyên đôi bàn tay nàng trong tay chàng và nói:
- Em này, đã đến lúc chúng ta nói với nhau khá nhiều điều.
Nàng ngước đôi mắt lên phía chàng hỏi:
- Những điều gì, anh David?
Anh muốn giải toa? những câu chuyện ẩn ức về câu chuyện màu da :
Chàng trả lời :
- Anh muốn biết em có bao giờ băn khoăn tự hỏi là một ngày nào đó sẽ kết hôn với anh không?