Chương IX
Tác giả: Người Thứ 8
DD ịch đứng cách chàng ngoài tầm cước. Bằng đuôi mắt, chàng ước định ưu thế của hắn : hắn có súng trong tay, chàng chưa kịp xoay mình hắn đã có thể lảy cò, và cái huy hiệu đoàn viên Sông Đen trên vai cho thấy hắn là cây súng đáng nể. Dẫu địch không phải thiện xạ, Văn Bình cũng chưa thể phản công. Là vì địch núp sau cái chậu sứ lớn, cao bằng đầu người, trồng hoa hồng.
Chàng đành tuân lệnh, xây mặt bước về phía địch.
Hắn lùi lại, xô cửa, khoát tay ra dấu bảo chàng vào. Hắn huơi súng, giọng đắc thắng :
- Anh đến tìm cô Bạch Hồng ?
Địch trạc 23, 24 tuồi, ở lứa tuổi này, trừ phi là thiên tài võ thuật và mưu trí mới leo tới địa vị thủ lãnh điệp báo. Nghĩa là địch còn thua chàng xa lơ, xa lắc. Địch chỉ là toán viên Sông Đen tầm thường. Bắn giỏi. Võ giỏi. Hàm răng tập luyện marakê sắc và cứng. Nhưng chưa hội đủ điều kiện để tranh đua ngang ngửa đồng cân đồng lạng với điệp viênz.28.
Chàng bèn sẵng tiếng :
- Tên anh là gì ? Anh chưa biết tôi là ai hả ? Mở rộng cặp mắt ra nhìn rồi hãy chĩa súng và phát ngôn lếu láo....
Gã toán viên Sông Đen quan sát chàng từ đầu xuống chân, sự băn khoăn pha lẫn ngạc nhiên hiện rõ trên mặt:
- Là ai... là ai ? Quái, ông là ai, tôi không biết.
Văn Bình quắc mắt:
- Phụ tá đặc biệt của đồng chí giám đốc. Tôi đến đây để ban thêm chỉ thị cho các anh.
Chàng thọc tay vào túi quần sau. Địch tưởng chàng rút bót-phơi. Hắn chỉ chú tâm đến cánh tay phải của chàng, cánh tay lấy ví để xuất trình giấy tờ.
Hắn quên bẵng tay trái. Trong một vi phân tích-tắc. Văn Bình giành lại quyền chủ động. Cánh tay trái của chàng hất ngược từ dưới lên trên. Khẩu súng bị đánh văng qua vai địch, rớt trúng một chậu hồng kê sát tường.
Phòng này chưa hẳn là phòng khách, vì lèo tèo có cái bàn tròn và mấy cái ghế mây thấp nhỏ, diện tích còn lại là giang sơn của hoa hồng. Hồng trồng trong phòng là hồng quý, những chậu hồng trước mắt Văn Bình có thể được coi là hình ảnh của trái đất thu hẹp với loại hồng phớt xanh do người Đức phát minh, hồng Pháp mầu tím lợt và hồng Mỹ mầu tía pha vàng.
Khẩu súng phá nát một khóm hồng mảnh dẻ, đóa hoa đen óng ả độc nhất của nó rả cánh bay lả tả trên nền gạch trắng. Thứ hồng đen này gây giống khó hơn cả việc sinh đẻ một đứa bé thông minh, vì vậy giá rất đắt. Văn Bình quý hồng đen chẳng phải vì nó đắt tiền, cũng chưa hẳn vì Quỳnh Loan yêu nó. Mà chính vì mầu đen của nó không buồn như mầu đen đám tang, không tối tăm như màu đen đêm khuya. Mầu đen của hồng đen là mầu đen mịn ướt của suối tóc dài tha thướt làm tăng mầu trắng hồng của cô gái đồng trinh. Nó còn là mầu đen ướt át của tròng mắt giai nhân. Đẹp như vậy mà khẩu sung của gã ác ôn Sông Đen dám vùi dập tan tành....
Nộ khí sung thiên, Văn Bình bồi tiếp một atêmi cùi trỏ. Nạn nhân bắn vào tường rồi nằm thẳng đơ.
Một thiếu phụ trọng tuổi phục sức xuềnh xoàng hiện ra ở khung cửa vào nhà trong. Văn Bình biết thiếu phụ là gia nhân của Bạch Hồng. Thiếu phụ chắp hai tay trước ngực, thân thể run lẩy bẩy, mặt tái mét.
Văn Bình hỏi:
- Cô chủ đâu ?
Thiếu phụ lập bập :
- Bầm... bẩm... cô cháu bị đau.
- Đang nằm trong phòng ?
- Bẩm... bẩm.... không ạ.
- Vậy cô Bạch Hồng nằm ở đâu ?
- Dạ.... bẩm... bệnh....
- Bệnh viện. Hiểu rồi. Bệnh viện nào ? Đường nào ? Phòng số mấy ?
Bàn tay gầy guộc nồi gân xanh của người tớ già tiếp tục run run như người bị động kinh. Giây lâu thiếu phụ mới luồn đựợc bàn tay vào túi, lấy ra mảnh giấy trắng có tiêu đề bằng chữ in là giấy nhập y viện của Bạch Hồng. Nàng đang nằm điều trị bệnh mất ngủ tại một nhà thương công cách vườn bách thú không xa.
Thiếu phụ ngó Văn Bình, dáng điệu thật tội nghiệp. Có lẽ linh tính của thiếu phụ cho biết Văn Bình sắp xuống tay dứt khoát. Thật ra chàng không có ý định giết thiếu phụ. Nhưng chàng cũng không thể nương nhẹ. Chàng vung đòn nhanh như chớp giựt, ngón trỏ chàng chạm nhẹ mê huyệt ở hông trái thiếu phụ. Chàng canh đòn khít khao, thiếu phụ oằn mình rồi lắc đầu lia lịa như người ngồi đồng trước khi sụm xuống.
Chàng bước vào phòng trong. Phòng ngủ. Phía sau cũng là phòng ngủ. Bên cạnh là xa-lông, phòng tắm và bếp. Và bên cạnh lại là phòng ngủ. cả thảy có 4 phòng ngủ. Một nữ chủ độc thân với những 4 phòng ngủ. Chỉ riêng con số phòng ngủ đủ tố cáo nếp sống không lấy gì làm đức hạnh của Bạch Hồng. Văn Bình ngắm hoài không chán. Chàng bỗng ước được nằm trên những chiếc giường khác kiểu, khác kích thước, khác mầu kê trong 4 phòng. Có nàng một bên thì tuyệt, vắng nàng cũng chẳng sao vì hương hoa hồng sực nức. Tâm thần Văn Bình lâng lâng như thể chàng đang lạc trong vườn hồng đại quý của nước Bảo-gia-lợi (1). Ngực chàng nhẹ hẳn : khi mất sức, mệt nhoài, được thở oxygen nguyên chất vị tất buồng phổi khỏe bằng lúc này....
Bỗng Văn Bình cứng người.
Hai mắt chàng vừa ríu lại (2). Hương thơm hoa hồng có một dược tính phi thường, nó làm cho mắt được thoải mái, nằm ngủ trong vườn hoa hồng nở đố ai dằn được giấc ngủ.
Vậy mà Bạch Hồng mất ngủ.
Vậy mà Bạch Hồng phải vào bệnh viện điều trị.
Một phần sự thật vừa hé lộ trước mắt Văn Bình. Chàng lục lọi các ô kéo, ngăn tủ. Chàng kéo tủ áo ra ngoài để kiểm soát mảng tường phía sau. Chàng còn tháo nắp máy điều hòa khí hậu, gỡ bỏ mặt sau của ti-vi, ăm-li và thùng loa. Chàng không có thời giờ trả những bộ phận bị tháo rời vào chỗ cũ. Vì thời giờ quá hạn hẹp. Chàng phải khám phá ra đầu mối trước khi trời sáng rõ.
Người tớ gái trung niên vẫn nằm thiêm thiếp, một chân gác lên lưng thi thể cong queo của gã toán viên Sông Đen. Văn Bình tắt hết đèn, đề phòng kẻ núp bên ngoài - nếu có - nhìn thấy chàng. Chàng không trở ra đường bằng lối cũ.
Sương mù buông tỏa kín mít.
Theo ước hẹn, Galli đậu xe dưới rặng cây khuynh-diệp. Mùi thơm của khuynh-diệp không thể bị lầm với mùi thơm nào khác. Văn Bình nhắm nghiền mắt, bước mò trong đêm cũng khó bị lạc đường.
Chàng đã về đến hàng rào dâm-bụt. Bên này là một tòa nhà cao, quét vôi trắng xóa, hàng rào dâm-bụt cật xén tươm tất chạy dài gần 15 mét nồi bật trên nền tường trắng xóa. Bên kia đường là rặng cây khuynh-diệp, một giống cây làm thuốc, thân cành to lớn, thường thấy trong vùng carib. Hồi nãy xe hơi của Galli tốp ngay dưới cây thứ 4.
Văn Bình vận nhỡn tuyến để kiểm soát cảnh vật. Mắt chàng vốn sáng như ống viễn kính hồng ngoại tuyến, chàng nhìn ban đêm vẩn rõ nét như nhìn ban ngày. Chiếc Zaz 966 của Galli tuy nhỏ nhưng cũng là khối sắt nặng trên một tấn, nó không thể tan biến như giọt sương khuya
Hởi ôi, Văn Bình không nhìn thấy nó đâu nữa. Nó đã tan biến. Không để lại vết tích.
Và thay chỗ nó là một chiếc díp cảnh sát. Đèn táp-lô bật xanh lè. Một cảnh sát viên đang bận rộn với máy điện thoại siêu tần số. Alô... alô.... một loạt tiếng alô nối đuôi nhau liên tiếp. Thì ra chiếc díp này thuộc đội tuần cảnh đặc nhiệm. Cả thảy 6 chiếc díp cảnh sát được tung ra trong thành phố, sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm để tìm bắt hoặc bắn chết một tên tội phạm gusanô cực kỳ nguy hiểm. Tiếp sau là những chi tiết về tướng mạo và cách phục sức của tên tội phạm.
Tên tội phạm bị truy lùng ráo riết này là chàng.
Giá là thành phố lớn, đông dân cư như Nữu-ước, Đông-kinh (và cả Sàigòn nữa) thì chàng lẫn trốn không mấy khó khăn vì ở đó đêm cũng như ngày đường xá nườm nượp xe cộ. Ha-van là thị trấn nhỏ, vắng, cảnh sát và tự vệ thành nhung nhúc như giòi bọ, hy vọng tự do của chàng thật mong manh. Chàng chỉ còn nước trông cậy vào vận hên, và kế hoạch hành động thần tốc và cương mãnh của chàng.
Theo kế hoạch, điệp vụ phải hoàn tất trước giờ mặt trời mọc. Nửa đêm đã qua từ lâu. Trong vòng mấy tiếng đồng hồ nữa sẽ là rạng đông. Công việc vẩn dậm chân tại chỗ....
Văn Bình khom lưng núp sau thân cây khuynh-diệp. Trên xe díp có 3 nhân viên công lực. Buộc lòng chàng sẽ phải thanh toán cả 3.
Chàng nghe có tiếng máy xe hơi. Qua màn sương, chàng thoáng thấy hình thù thấp dẹp một chiếc xe hơi đen sì chạy rà tà tới bên kia đường. Tài-xế áp vào lề, không vặn đèn, và không tắt máy. Văn Bình nhoẻn miệng cười khoan khoái. Đó là chiếc Zaz của Galli.
Chàng rạp mình phóc nhanh qua đường. Một tên cảnh sát trên xe díp kêu to :
- Ai đó ?
Pha bật sáng, nhân viên cảnh sát xoay tròn cây đèn để chiếu về phía chiếcc Zaz 966. Văn Bình thót qua cánh cửa mở sẵn, lăn tròn vào trong, và Galli - phải, chính nàng ngồi sau vô-lăng - tức thời giựt chiếc Zaz khỏi vỉa hè. Trong loáng mắt, nó nhòa biến vào đêm khuya mù mịt. Tiếng súng lốp bốp rượt theo. Tuy nhiên, Galli bỏ rơi chiếc díp và toán cảnh sát viên một cách quá dễ dàng.
Chàng hỏi nàng :
- Họ đến bắt anh ?
Nàng đáp :
- Em không rõ. Em đang ngồi chờ anh thì họ lái xe rừ rừ tới. Trên chặng đường này, đây là chỗ vắng nhất, em đinh ninh cảnh sát không tới. Về phần anh, công việc xong chưa ?
- Rồi. Anh làm phiền em quá nhiều. Anh lại còn lây họa cho em.
- Tính em vẫn thích sống động, vả lại, tự em theo anh, không ai ép buộc. Giờ anh cần đi đâu ?
Văn Bình rọi đèn bấm vào tờ giấy thiếu phụ gia nhân đưa cho chàng hồi nãy. Galli liếc qua rồi nói:
- Tưởng đâu, chứ nhà thương này thì gần lắm. Chỉ độ 4, 5 phút là đến.
Xe tạt qua một tiệm ăn. Người khách cuối cùng đã về, chủ hiệu đang hối hả dọn dẹp, Galli đập một bàn tay vào vô- lăng :
- Chết, em quên. Dường như từ chiều đến giờ anh chưa ăn gì....
Nàng nói đúng. Bao tử của chàng đã dẹp lép. Đã đói, chàng còn đói hơn vì trước cửa nhà hàng lủng lẳng một tấm bảng lớn, sơn trắng, vẽ những con cua và tôm càng đỏ chóe ngon lành. Cua và tôm là món ăn lừng danh ở Cuba. Trước kia, ai cũng được ăn cua tôm, giờ đây, thực đơn khoái khẩu này chỉ còn được dọn theo giá chợ đen, đắt lòi con mắt. Muốn ăn ngon theo giá chính thức phải ghé câu lạc bộ Torre. Khốn nỗi tiệm ăn này được dành riêng cho quốc khách, cố vấn và viên chức cao cấp....
Galli tốp xe gần tấm bảng quảng cáo hấp dẫn :
- Em mua săng-uých cho anh ăn tạm.
Nàng thoăn thoắt bước về cánh cửa còn mở hé. Ban ngày mua đồ ăn còn khó, huồng hồ giờ này. Văn Bình liếc cổ tay : gần 1 giờ khuya. Nhưng với xấp đô-la thơm tho, sẵn sàng trả giá cắt cổ. 7 đô một đĩa trứng tráng, thì mua gì cũng có.
Văn Bình luồn tay vào túi vải lấy cái hộp sắt đựng điện đài. Đến giờ liên lạc với đại tá Pít. Điện đài này chỉ lớn bằng hai gói thuốc lá song tầm hoạt động rất xa, nó rất nhạy cảm, và không bị hư hỏng bất tử. Thời tiết thay đổi đột ngột, điện yếu, hoặc bị làn sóng của đối phương chen phá, nó vẫn phục vụ hữu hiệu và trung thành. Ban Kỹ Thuật C.I.A. từng thử sức chịu đựng của nó tại vùng băng tuyết Bắc-Cực, trên đường xích đạo nóng bỏng, trong rừng già và dưới hầm sâu cũng như trên đỉnh núi cao. Cộng sự viên của ông Sì-mít yêu quý nó hết mực. Kích thước của nó bé bỏng, xinh xắn nên được đặt tên là "cô đào pôla" (3), nữ diễn viên Pháp có vòng eo nhỏ nhất thế giới.
Văn Bình đặt "cô đào Pô-le trên đùi, kéo ăn-ten, bấm nút cho ắc-quy điện chạy. Bình điện của nó cũng tốt như máy. Xài liên tiếp 3 giờ đồng hồ mới cạn hơi, và sạc lại dễ dàng bằng cách cắm vào hệ thống điện nhà. Ban Kỹ Thuật C.I.A., đã kiểm soát cẩn thận trước khi trao cho chàng. Và chàng đã đích thân kiểm soát lại lần nữa.
Galli khuất sau cánh cửa nhà hàng.
Kỳ lạ thay, Văn Bình ấn hoài, ấn hủy, bình điện của cô đào Pô-le vẫn trơ như đá, vững như đồng. Ngọn đèn xanh báo hiệu ắc-quy còn tốt không thất bật sáng. Văn Bình lắc mạnh, đoạn mở nút cấp-cứu. Nút này ăn thông với một bình ắc-quy tí hon khác, đủ điện cho 5 phút đồng hồ truyền tin mã tự.
Kỳ lạ thay, cả bình ắc-quy cấp cứu cũng câm luôn.
Văn Bình xem xét kỹ những nút đóng mở trên máy "cô đào Pô-le". Và chàng bắt đầu hiểu.
Không than vãn nửa lời, chàng cất trả điện đài vào túi vải, nhét lại dưới gầm băng trước. Chàng vặn ra-dô trong xe. Chiếc Zaz của Galli được gắn ra-dô cực mạnh có thể bắt được mọi luồng sóng, kể cả các tầng số thật cao.
Văn Bình mò mẫm tần số của cảnh sát. Chàng không biến sắc mặc dầu những khẩu lệnh rần rộ từ máy vọng ra cho thấy vòng vây của G-2 được thắt chặt tối đa. Chàng hơi nhíu mày khi nghe báo cáo về cái chết của tồng thư ký Phủ Tổng Thống Matêra. Lệnh của cảnh sát được lập lại nhiều lần trên siêu tầng số, yêu cầu lập nút chặn trên đoạn đường trước tư dinh của Matêra. Không có chi tiết nào về cái chết. Nhưng đối với Văn Bình thì biết thế là đủ.
Galli khệ nệ tay xách nách mang ra xe. Nàng mua được hai ổ bánh mì nhồi dăm-bông, kèm thêm chai rượu vang. Văn Bình mở đài bá âm Ha-van trong khi Galli khui rượu. Bài diễn văn tràng giang đại hải của ông thủ tướng râu xồm chỉ mới bắt đầu. Galli nhăn nhó :
- Đổi đài khác đi anh. Nghe ông ta hò hét mình ăn mất ngon.
Luồng sóng nào trên đảo Văn Bình cũng tiếp vận bài diễn văn oang oang của thủ tướng. Galli rót rượu vào ly giấy cho Văn Bình :
- Để em mở đài Miami, nghe thú hơn.
Phương tiện liên lạc duy nhất của chàng với đại tá Pít hiện chờ chàng ở Miami đã tắt lịm. Từ giờ trở đi là hết. sống hay chết là việc riêng của chàng. May ra một điệu nhạc giựt gân từ Miami tới có thể nhen nhúm lại ngọn lửa hy vọng trong lòng chàng....
Galli nhai ngấu nghiến mẩu bánh mềm xèo :
- Không được ngon, phải không anh ?
Văn Bình chiêu một ly vang đầy ắp :
- Như vậy là nhất rồi.
Chàng hôn má nàng. Nàng cười:
- Họ sắp hết bản tin. Giờ này nhạc Miami du dương kinh khủng.
Xướng ngôn viên Mỹ vừa qua phần tin tức quốc tế, bắt đầu tường thuật những chuyện "xe cán chó" xảy ra trong vùng. Một mẩu tin ngắn vừa gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến kế hoạch hoạt động đêm nay của chàng. Theo mẩu tin này, một người tên Ben vừa bị bắn chết trong khách sạn Biên-Giới tại ngoại ô Miami. Nạn nhân từ Ha-van đáp xuống Miami hồi chập tối. Cơ quan điều tra không tuyên bố gì về vụ ám sát này. Dường như nạn nhân là viên chức C.I.A. đến Cuba với một sứ mạng đặc biệt. Ben rời Cuba được mấy tiếng đồng hồ thì bị hạ sát, hung thủ đã tẩu thoát. Các phóng viên báo chí đến khách sạn săn tin đều bị mời khéo ra ngoài..."
Văn Bình ném cái ly giấy ra khỏi xe. Ra-dô trỗi một bản dân ca trầm bỗng. Galli nổ máy.
Nàng hỏi chàng :
- Anh thích loại nhạc này không ?
Chàng đáp "rất thích" tuy chàng không nghe thấy gì. Tâm tư chàng đang chìm ngập trong sự suy nghĩ và sắp xếp. Galli vòng xe vào một đại lộ có nhiều nhà chọc trời. Nàng quẹo trái rồi chỉ bên phải:
- Nhà thương.
Tường bệnh viện bằng thép mắt cao thoáng khí, trong và ngoài nhìn thấy nhau dễ dàng. Nhưng nó quá cao. Cao trên 4 mét. Tuy nhiên, điều làm lo âu không phải là chiều cao của bức tường. Mà là bệnh viện thắp quá nhiều đèn. Hầu hết thành phố bị bóng tối che phủ, đâu đâu cũng tối thui. Riêng nhà thương sáng như sao sa.
Chàng hỏi Galli:
- Đèn ở đây luôn luông sáng ?
Nàng đáp :
- Hơi lạ. Em qua đường này mỗi đêm. Họ chỉ mở đèn ở cổng và phòng trực.
Sự thắp sáng bất thường này đòi Văn Bình gia tăng cẩn trọng.Chắc chắn bên trong có nhân viên G-2 canh gác. Thanh toán được họ không dễ gì, nhưng trước khi nghĩ đến việc triệt hạ nhân viên G-2, chàng phải tìm cách đột nhập bệnh viện êm thấm.
Bệnh viện tọa lạc trên khu đất rộng nhiều mẫu tây, tứ phía có hàng rào kẽm, không cận kề một cơ sở kiến trúc nào. Ra vào chỉ có một lối : cổng tiền, cổng hậu chỉ được mở ban ngày. Giờ này cổng tiền chưa đóng. Một người mặc đồng phục trang ngồi gác. Một giẫy xe hơi trắng sơn dấu thập đỏ đậu dọc con đường trải sỏi trắng hai bên xanh rì cỏ non.
Galli lái xe vòng quanh bệnh viện. Nếu không dùng cửa trước chàng chi còn nước vượt hàng rào, trèo rào là trò chơi đối với chàng. Từ dưới đất chàng rùn mình nhẹ là nắm được thanh sắt tròn và cong ở đỉnh tường và đu lên. Nhảy từ đó xuống sân trong cũng là trò chơi, 30 giây đồng hồ sau chàng lọt được vào bên trong. Nhưng chàng sẽ mất thêm 30 giây đồng hồ khác chạy như vô địch chạy nhanh thế vận từ chân rào thép đến bức tường gạch gần nhất.
Vị chi 60 giây đồng hồ chàng bị lộ mục phiêu hoàn toàn.Toán viên Sông-đen mai phục trong nhà thương không phải là kẻ cận thị nặng. Họ cũng không phải là kẻ bắn súng cà mèng.
Chàng hỏi Galli:
- Em xoay ra kế nào chưa ?
Galli đáp :
- Chưa. Đành phải dùng cửa trước, nhưng...
Nhỡn tuyến của chàng lẫn của nàng đều hướng về giẫy xe Hồng-thập-tự. Galli quẹo trái, miệng nói:
- Chạy qua bệnh viện một vòng thôi, qua nhiều họ nghi. Em lái vào đường này nhiều cây và ít đèn chúng mình bàn bạc với nhau tiện hơn.
Văn Bình chỉ những ngôi nhà trệt hoặc một tầng lầu song lập nối đuôi nhau, phía sau những vườn hoa xinh xắn :
- Cư xá ?
Nành đáp :
- Vâng. Cư xá của nhân viên y-tế Liên sô.
Người Nga có mặt khắp nơi, hầu hết là quân nhân mặc thường phục. Họ ở riêng không trà trộn với ai, giải trí riêng, chữa bệnh cũng riêng. Nơi ở của họ luôn luôn được ngăn bằng kẽm gai có chó săn canh gác. Ngoại trừ cư xá của "nhân viên y tế văn hóa".
Văn Bình đề nghị với Galli:
- Anh vừa nhìn thấy xe Hồng thập tự cất trong ga-ra. Nơi này tối. Chắc không có ai. Hoặc chỉ một người gác là cùng. Em đậu ở đây...
Galli tắt máy :
- Em cùng đi với anh, tiện hơn. Trên nguyên tắc, cư xá y tế không có người gác. Nhưng, biết đâu. Em từng đến đây nhiều lần để thăm một nữ bác sĩ Nga. Em thuộc đường, em lại giỏi tiếng Nga, em có thể giúp anh đắc lực...
Bầu không khi vắng vẻ và yên tỉnh của cư xá không làm Văn Bình bớt lo âu. Trái lại, chàng lo âu hơn. Tuy hai người đột nhập khu vườn dễ dàng - những cửa ra vào chỉ khép chứ không khóa - Văn Bình có linh tính sẽ gặp trở ngại ghê gớm. Phái đoàn Sô Viết, dầu chỉ là phái đoàn thuần túy y tế, luôn luôn khe khắt về vấn đề bảo đảm an ninh. Không thấy bóng người gác không có nghĩa là cư xá không có hệ thống canh phòng.
Chàng ấn Galli thụp xuống sau bờ dậu dâm-bụt:
- Cẩn thận, em ơi... anh sợ họ gắn máy chụp hình báo động điện tử....
Nàng cười, bẹo má chàng :
- Trừ phi anh có vợ, không dám chụp hình chung với em.
- Đừng đùa.
- Về phần anh, cũng đừng sợ hão, sợ huyền.
Galli ra hiệu cho chàng theo chân nàng. Nàng bình thản dẫm trên sân cỏ non. Mỗi dân tộc có một lối sống riêng : đối với người Anh thì tha hồ đạp cỏ non, trên đường đi họ trồng cỏ non, người Pháp ở cách Anh quốc có một eo biển nhỏ xíu mà nơi nào có cỏ non là có tấm bảng "cấm dẫm lên cỏ", "yêu cầu bước ra ngoài". Người Nga cũng vậy, họ chủ trương "cấm dẫm lên cỏ".
Galli đã đi qua khỏi sân cỏ non, đặt gót trên thềm ga-ra. Thật lạ lùng, vì xe hơi nằm tênh hênh, ga-ra không có cửa. Chi tiết này chứng tỏ phái đoàn Sô Viết không sợ mất trộm xe hơi. Sự thật là thế, ăn cắp được xe hơi rồi đào đâu ra ét-xăng để chạy, và nếu kiếm được nhiên liệu thì làm cách nào xuất trình giấy phép lưu thông tại các nút chặn.
Có 2 chiếc xe chữ thập đỏ và một lô xe nhà. Văn Bình chọn chiếc có vẻ mới nhất trong 2 chiếc Hồng-thập-tự. Galli loay hoay mở cốp xe, lôi ra những cái bọc đựng bờ-lu trắng và y cụ. Trong loáng mắt, hai người cải trang thành nhân viên bệnh viện.
Qua bóng tối, Văn Bình thấy hàm răng lấp lánh của Galli. Miệng cười của nàng thật hấp dẫn. cầm lòng không nồi, chàng hôn nàng.
Và kẻ địch chờ đúng tích-tắc đồng hồ hai người ôm nhau mùi mẫn ấy để tấn công đột ngột....
Văn Bình nghe tiếng động lớn sau lưng. Chàng xô Galli nằm ngửa trên vè xe, trong khi ấy chàng vẫn ôm ghì nàng để che chở cho nàng. Phản ứng thần tốc và sáng suốt của chàng đã cứu nàng thoát chết.
Văn Bình tính rất đúng. Người Nga không thể bỏ trống cư xá. Họ không dùng máy móc điện tử vì trong cư xá toàn nhân viên y tế, không chứa cái gì bí mật, hoặc đáng giá cần được bảo vệ triệt để. Họ không đặt trạm gác vì họ đã tìm ra một cách giữ nhà hữu hiệu mà rẻ tiền hơn các trạm gác có người.
Đó là chim hạc.
Một con chim hạc lông trắng toát không biết núp ở đâu đâm bổ vào mặt hai người, cánh xòe rộng kêu ào ào như gió biển. Cái mỏ nhọn hoắt của chim hạc không mổ trúng mục phiêu. Bộ cánh của nó quét ngang lưng Văn Bình. Chàng cảm thấy tê dại. Nếu khi ấy chàng không vận công chắc chắn chàng đã bị quật ngã, cả xương sống gẫy gập làm đôi.
Vì hạc là giống chim lớn cực kỳ nguy hiểm.
Chim hạc được gọi bằng nhiều tên đầy thi vị, như chim hồng-hộc, thiên nga, bạch nga, nó là loại chim đẹp nhất, lông trắng như tuyết, cái cổ dài mềm mại và quý phái làm ta liên tưởng đến báu vật của vua chúa. Trên thực tế, nó là chim của vua chúa, tại Anh quốc tất cả chim hạc không do tư nhân làm chủ đều được luật pháp coi là thuộc quyền sở hữu của nữ hoàng. Các thi sĩ chỉ biết vẻ đẹp thần tiên của chim hạc, chứ không biết nó có thể giết người dễ dàng, nó dữ như hùm beo, nó lại khôn ngoan trầm độc như rắn....
Văn Bình quan sát con bạch nga vừa tấn công hụt chàng và Galli. Thường thường chim hạc được thấy tại hồ bơi, sông ngòi, là chim hạc-câm. Nó được loài người nuôi từ nhiều thế kỷ nay. Gọi là hạc-câm thật ra nó chẳng câm tí nào, nó rất ồn ào, nó hót oang oang được 8 âm khác nhau, nó mang trên trán một cái gồ đen sì, cổ nó dài ngoằng và mỏ nó mầu da cam.
Con bạch-nga này cũng không phải là hạc be-uých (4), hạc-hoang, hạc-kèn và hạc-Mỹ, nghĩa là những giống hạc sinh sống ở châu Âu và châu Mỹ. Văn Bình chưa nhận diện được nó là hạc gì, tuy nhiên, ngay sau cú đòn nhập cuộc của nó chàng không dám khinh địch, chàng lùi lại một bộ liệu thế đối phó.
Galli nói không ra hơi:
- Lạ quá, lạ quá, chim hạc biết võ anh ơi !
Văn Bình khoát tay cho nàng ẩn náu sau lưng chàng :
- Ừ, anh cũng thấy lạ.
Đúng ra, chim hạc không phải là giống vật lạ đối với con người lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm trái đất như Văn Bình z.28. Những ngày lưu lạc ở Trung Hoa, chàng học được hạc-quyền, một trong nhiều bộ quyền kỳ bí của Thiếu Lâm tự, dựa trên lề lối công thủ bẩm sinh của chim hạc. Chàng thụ giáo tại một võ đường vắng vẻ, gần hồ Động- Đình, nơi có nhiều giống bạch-nga khác nhau, chàng nghiên cứu tỉ mĩ mọi động tác của chim trước khi bắt tay vào việc hấp thụ tinh hoa kỳ diệu của hạc-quyền. Chim hạc cân nặng từ 10 ký trở lên, con lớn nhất khoảng 25 ký, với sức nặng ấy nó khó thể là đối thủ đáng gờm của người, sở dĩ nó lợi hại là do bộ cánh cực khỏe, bề rộng mét rưỡi của nó, thêm vào đó là cái mỏ cứng như thép và vận tốc khi chạy, xấp xỉ cả trăm cây số giờ.
Hạc-quyền là một võ công cao siêu vì nó gồm cương nhu lẫn lộn, khi nhanh khi chậm bất thường, nhiều khi nó đều đặn, nhịp nhàng, bay bướm, hấp dẫn như người đàn bà đẹp biễu diễn khiêu vũ (5). Văn Bình không có hoàn cảnh lưu lại đất Tàu để trở thành cao thủ hạc-quyền. Vả lại, hạc-quyền chân truyền đã lần lần mai một sau một chuỗi dài biến động chính trị ở Trung Hoa, nhất là sau trận chiến tranh Hoa-Nhật và sự đoạt quyền của Mao Trạch Đông. Văn Bình chỉ còn cách chu du từ Đông sang Tây, dừng lại những nơi có giống hạc lạ để học thêm tại chỗ những đòn mỏ, đoàn cánh, đòn cẳng, đòn cổ thiên phú của hạc.
Vì vậy, Văn Bình đã có duyên nợ với giòng sông Seine, ở khúc chảy qua kinh đô ánh sáng Ba Lê, nơi có nhiều chim hạc đến nỗi một hòn đảo được đổi tên là đảo Hạc (6). Chàng qua Đan-Mạch, loài hạc ở đó được chính quyền bảo vệ, không ai được săn bắn, cũng như qua Luân-đôn, lên Ái-nhĩ-lan, quê hương của chim hạc. Chàng bơi thuyền dọc sông Mít-síp-si-pi bên Mỹ để theo dõi một giống bạch-nga có lối mổ nhanh như máy điện tử. Chàng suýt lạc trong vùng sa mạc Úc-đại-lợi sau mấy ngày đêm lái xe díp, quay phim những cuộc xung kích của hạc-đen.
Hạc-đen là đáng sợ nhất. Con hạc vừa tấn công chàng trong nhà xe của cư xá phái đoàn y tế Sô Viết lại trắng. Hạc trắng thường là hạc hiền. Con hạc hiền này có một kỹ thuật đánh trộm già dặn và khoa học, sự kiện này chứng tỏ nó được huấn luyện chu đáo.
Thì ra nó là hạc cận-vệ của K.G.B..
Những năm gần đây, K.G.B. dùng súc vật thay người để giữ nhà. Đứng đầu là chó và mèo. Rồi đến chim muông, như cú và quạ. Chim hạc được đặc biệt chiếu cố vì nó là giống chim đẹp, nơi nào có hoa viên, có hồ bơi, nghĩa là chung quanh các dinh thự, tư thất, nơi ấy đều có nó làm vật trang trí xinh tươi và cao quý. Không thể thả chó bẹt-giê rong ngoài vườn, quan khách sẽ tái xanh mặt, nhưng thả đoàn bạch-nga bay lượn trên hồ nước thì tha hồ. Khi cần chim hạc khả ái sẽ biến thành phòng tuyến cận vệ kiên cố.
Văn Bình chỉ nghe tin K.G.B dạy chim hạc, chứ chưa bao giờ được mục kích khả năng giữ nhà của chim hạc. Điệp vụ Cuba đã mang lại cơ hội học hỏi mới cho chàng.
Khi ấy Văn Bình dựa lưng vào cửa xe Hồng-thập-tự. Con chim hạc đứng cách chàng 3 mét. Nó đang ở trên mui xe, cẳng rùn, cánh giang rộng. Chàng không nhìn thấy mắt nó, song căn cứ vào thư thế cẳng và cánh nó, chàng đoán biết nó sửa soạn cuộc tấn công mới.
Nó nặng chừng 15 ký, tức là loại hạc trung bình, thân hình nó không giống những con thiên-nga chàng gặp, thế tất đây là giống hạc lai. Hồi ở Pháp, chàng nghe nói đến một giống chim hạc hoang Âu-châu được đem về nuôi, pha trộn với hạc-đen Úc-đại-lợi đã tạo được một giống hạc-lai lông trắng giữ nhà đắc lực hơn cả bẹt-giê và rắn lục gộp lại.
Nếu đúng nó là hạc-lai thì nó chuyên móc mắt người bằng cái mỏ nhọn hoắt. Nó ở trên cao, sức mạnh của vận tốc sẽ làm đòn mổ thêm chính xác và lợi hại. Núp sau lưng chàng, Galli thở như thổi bễ. Chàng an ủi:
- Em đừng sợ. Để anh hạ nó cho.
Chàng vừa dứt lời thì bộ cánh trắng của con hạc lại đập xành xạch. Nó phóng tới như viên đạn rời nòng súng đại bác. Lờ mờ trong bóng đêm, chàng thấy cái mỏ đen sì chúc xuống, tréo góc 45 độ.
Chàng né sang bên. Một lần nữa lông cách con hạc chạm hông chàng. Chàng đã vận công nghênh chiến nó, chàng chỉ còn cảm thấy tê tê. Luồng gió do cánh hạc gây ra có thể xô đổ nhiều bao gạo đè chặn lên nhau. Song Văn Bình vẫn không xuy xuyển. Mỏ nhọn của hạc không đâm vào mắt phải của chàng như dự liệu. Nó thọc nhằm cửa kiếng xe hơi. Và xuyên qua ngon lành như thể là dùi thép nướng đỏ.
Những mẩu kiếng nhỏ tung bay lả tả. Trong một tích-tắc đồng hồ mỏ hạc bị kẹt trong lỗ kiếng. Con bạch-nga vươn cổ để rút mỏ ra. Cái cổ dài quá khổ của nó là bộ phận rất yếu trong cơ thể. Văn Bình lẹ làng quật ngược cánh tay. Xương cánh tay của chàng có thể đánh vỡ tảng đá hoa cương, huống hồ đây chỉ là cổ hạc. Đành rằng mật vụ K.G.B. đã ngâm cổ hạc trong nước thuốc, và luyện cho nó chịu quen mọi thứ đòn, nó khó có hy vọng còn nguyên vẹn dưới ngón nghề vi điệu của điệp viên z.28.
Rộp một tiếng ngắn. Cổ chim hạc bị dập nát.
Con bạch-nga dũng mãnh được mật vụ Sô Viết tập luyện, nuôi nấng công phu, chết ngay ở cửa xe Hồng-thập-tự, bên cạnh Văn Bình. Lông cánh của nó trùm lên mình Galli. Nàng hoảng hốt la lên :
- Cứu em với, anh ơi !
Chàng cười:
- Em cứu nó thì có. Nó chết đứ đừ rồi.
Nàng nắm tay chàng :
- Gớm, tim em đập nhanh như muốn văng khỏi ngực. Em không dè con chim hạc dữ và giỏi đến thế. Và em cũng không dè anh chỉ đánh nhẹ một cái là nó bể cổ.
Nàng trèo lên xe, phía vô-lăng. Văn Bình xách con chim hạc, vứt vào sau xe. Galli ngạc nhiên :
- Anh chở nó theo làm gì ?
Chàng đáp :
- Nếu mình vào trót lọt thì thôi, nhựợc bằng bị người gác chặn lại ngoài cổng, mình sẽ nói là mang hạc vào chữa trị. Thấy cố vấn Sô Viết chở hạc Sô Viết đến bệnh viện, bọn gác sẽ tránh cho xe mình chạy vào cái rụp.
- À, suýt nữa em quên. Anh nên ngồi phía sau. Mặt anh chỉ phảng phất vẻ tây-phương, chứ không hoàn toàn giống mặt người Nga. Lại còn tiếng Nga của anh nữa.
Văn Bình đáp lời nàng bằng một tràng Nga-ngữ, giọng lên bồng xuống trầm của người Nga sinh trưởng tại Mạc tư khoa. Galli trợn tròn mắt, giây lâu mới thốt được tiếng "húy Trời..."
Nếu có thời giờ, chàng đã giảng giải cho nàng hiểu rằng cải trang làm những Nga là hình thức cải trang dễ nhất. Lý do : họ có quá nhiều sắc dạng và tiếng nói khác nhau trên một vùng đất quá rộng từ Tây sang Đông, rộng đến độ ăn cơm tối ở thủ đô Mạc tư khoa thì ở biên giới cực Đông, người ta ăn điểm tâm, muốn đi hết chiều ngang phải mất đúng một tuần lễ ngày đêm trên một tầu hỏa chạy nhanh không nghỉ. Do đó người Nga có thể mũi lõ hoặc mũi tẹt, da trắng hoặc da vàng, có thể nói tiếng Nga hoặc những thứ tiếng địạ phương. Có lần ở Nga, bị công an xét giấy, Văn Bình đã nghênh ngang tuôn ra một đoạn thơ lục bát của truyện Kiều, tên công ngẩng tò te chàng mới chịu dùng tiếng Nga đàm thoại với hắn.
Chiếc xe Hồng-thập-tự trắng của phái bộ y tế Sô Viết bon bon khỏi cư xá, chạy đến trước cổng bệnh viện sáng choang. Galli buột miệng "khổ quá, khổ quá". Bao tử của Văn Bình cũng thắt lại. Cánh cửa sắt đồ sộ hồi nãy được mở rộng, hai xe cam-nhông có thể tránh nhau vừa đủ.
Phút này nó đã được đóng lại.
Hồi nãy một người mặc đồng phục trắng ngồi gác ở cổng. Hắn vác chân chữ ngũ trên cái ghế đẩu kê gần trụ cửa, miệng phì phèo điếu xì-gà lớn bằng ngón chân cái.
Phút này người gác không võ trang đã biến dạng. Thay vào đó là một người khác gác. Hắn không mặc đồng phục trắng. Mà là quân phục kaki. Nghĩa là nhân viên an ninh chính hiệu.
Hắn lại mang súng hẳn hỏi. Hắn đứng thẳng, khẩu tiểu liên Sô Viết cầm tréo, ở tư thế sẵn sàng lảy cò, chân hắn hơi xoạc, mắt chằm chằm ra đường cái, nơi phát xuất chiếc xe Hồng-thập-tự do Galli lái, Văn Bình mặc bờ-lu, đeo ống nghe, ngồi bên.
Xe hơi rà rà đến sát cổng sắt. cửa đóng, tiến vào sân bệnh viện không được. Trở lui cũng không được. Galli đưa mắt, chờ lệnh của Văn Bình. Chàng ớn lạnh châu thân, nhỡn tuyến sáng quắc, vầng trán rộng nhíu lại, nhà máy điện tử I.B.M. trong óc chàng đang mở hết vận tốc để tìm đáp số cho bài toán hóc búa... chết người.
Thì tên quân nhân mặc đồ kaki đã chĩa họng súng tiểu liên về phía cửa xe, miệng quát lanh lảnh :
- Giấy phép !
Mặt Galli xanh như tràm đỏ. Hai bàn tay nàng run bần bật trên mép vô-lăng. Rõ ràng nàng sợ hãi đến cùng cực. Tên quân nhân lại quát:
- Yêu cầu xuống xe xuất trình chứng minh thư ! I
Văn Bình hầm hầm mở cửa, nhảy xuống.
Chú thích:
1. Nước ép hoa hồng Bảo-gia-lợi thơm nhất thế giới.
2. Nước ép hoa hồng chữa được nhiều bệnh phổi, đặc biệt là bệnh hen xuyển, người La-mã cổ xưa pha nó với nước để rửa mắt cho mắt được trong và đẹp, nó còn có tính mang lại giấc ngủ.
3. Cô đào Pô-le là nữ diễn viên Polaire, người Pháp, sinh năm 1881 và mất năm 1939, vòng eo đo được 32 phân rưởi. Bà Ethel Grander (sinh năm 1905), người Anh cũng có vòng eo như nàng Polaire (trước đây đo được 35 phân, sau đó nhịn ăn và xoa bóp). Hoàng hậu Catherine de Médicis (1519-1589) nước Pháp, từng ban chiếu chỉ buộc các phu nhân trong triều phải giữ vòng eo 33 centimét.
4. Bạc be-uých, cygne de Bewich, hạc kèn, cygne trompette, hạc-Mỹ, cygne américain, hạc-câm, cygne muet - hoặc cygne tuberculé). Lông chim hạc trắng tuyết, ngoại trừ loài chim hạc úc-châu, lông đen tuyền, và hạc trắng cồ đen, sinh sống ở Nam-Mỹ.
5. Thật vậy, chim hạc có lối đi đứng tuyệt vời như khiêu vũ nên gần đây nữ minh tinh về vũ Liên Sô là Pavlova phải cất công đến trang trại của hầu tước llchester ở miền Nam Anh quốc để quan sát chim hạc hầu soạn vở vũ nồi tiếng "cái chết của chim hạc" (hàng năm 35.000 du khách khác cũng đến đó coi hạc).
6. Ile des cygnes (trước đây là lle Paquerelle, giữa cầu Grenelle và cầu Bir-Hakeim trên sông Seine).