Chương 8
Tác giả: Người Thứ 8
Trong chớp mắt Văn Bình đã ra đến mấp mè mặt nước. Nước biển Á-rập thường chẳng lấy gì làm sạch, nhưng ở đây lại sạch ngoài sức tưởng tượng, sạch như thể được lọc bằng máy móc tối tân, hơn nữa nó lại trong xanh, trong xanh hơn cả nước hồ tắm pha lẫn thuốc nhuộm nhân tạo.
Tiếng thét thất thanh được phát ra bụi kè ở bên trái, cách Văn Bình vài chục thước. Nạn nhân là một trong hai gã cận vệ của Sophia, chắc hắn đang canh phòng cho Sophia tắm chung với Hồng Lang thì gặp nạn. Văn Bình quỳ xuống bên hắn, dưới ánh trăng loang loáng chàng nhận thấy gương mặt nhợt nhạt vì mất máu, và mũi tên cắm ngập non nửa trên ngực, máu tuôn xối xả làm áo sơ-mi trắng của hắn ướt sũng và đỏ lòm.
Nếu mũi tên được bắn thấp hơn một đốt ngón tay, nạn nhân đã bị tiện đứt cuống tim và tắt thở ngay sau khi té ngã. Tuy vậy Văn Bình đã bỏ ngay ý định vận dụng kuatsu để hồi sinh nạn nhân. Vì thuật kuatsu hoàn toàn bất lực trong những trường hợp mất máu. Nạn nhân chỉ có hy vọng mỏng manh được cứu sống nếu có phương tiện hỏa tốc chở đến bệnh viện để tiếp máu. Nhưng sau một phút quan sát vết thương và da mặt gã cận vệ đang chuyển từ xanh mét sang xám ngoẹt, Văn Bình biết rõ là có phương tiện hỏa tốc thì nạn nhân cũng chết.
Nạn nhân phải chết gì mũi tên được tẩm thuốc độc.
Khi Văn Bình rờ tay vào mũi tên thì gã cận vệ còn tỉnh. Dường như hắn khỏe dội ra. Song Văn Bình không tỏ vẻ lạc quan, theo kinh nghiệm, nạn nhân khỏe dội ra vì những vi phân cuối cùng của sự sống trong thân thể hắn đang rồn rập kéo về tim trước giây phút vĩnh biệt cõi thế.
Mắt hắn mở thao láo nhìn chàng. Miệng hắn cũng mở rộng hoác nhưng hắn không thể nói thành lời.
Rồi hắn ngoẹo đầu, thở hắt ra.
Chết...
Văn Bình buột miệng tiếng "chết" ngắn ngủi rồi đứng dậy. Chàng bắt gặp nhiều luồng nhỡn tuyến quen thuộc đồng hướng về phía chàng. Hồng Lang và Sophia đã mặc áo choàng dầy cộm, tóc họ, mặt họ còn ướt nhèm, chứng tỏ họ vừa từ dưới biển tất cả chạy lên, vờ áo khoác vội vào người. Hồng Nương cũng có mặt trong đám đông, dung mạo đẹp tuyệt vời của nàng bỗng ủ dột khác thường. Nàng cúi gằm, có lẽ nàng còn xấu hổ với Văn Bình.
Mọi người đều nín thinh, lát sau Hồng Lang mới cất tiếng:
- Ơ kìa, tại sao chỉ có...
Câu nói của Hồng Lang bị cắt quãng vì một tiếng thét khác, từ bên phải vẳng tới. Hồng Lang muốn nhắc đến hai tên cận vệ luôn luôn kè kè bên nhau như vợ chồng. Tiếng thét trong đêm vắng đã trả lời cho sự băn khoăn của Hồng Lang.
Không phải một vụ hạ sát. Mà là hai, ít nhất là hai. Và cũng như bạn hắn, tên cận vệ đáng thương này đã bị hạ sát bằng tên tẩm thuốc độc.
Văn Bình không cần xem xét vết thương của nạn nhân. Vì chàng đoán trước hắn phải chết. Chàng cũng không chạy thật nhanh lại tận nơi nạn nhân nằm sóng soài. Sau khi nghe tiếng kêu, chàng định thần một giây, phóng tầm mắt soi mói qua các bụi kè tranh tối sáng trên bãi cát trắng hếu rộng bát ngát.
Sự cẩn trọng của Văn Bình đã trở nên vô ích. Chàng không khám phá được gì hết. Chắc chắn hung thủ núp trong bụi kè thấp lùn để bắn tên độc, nhưng chàng lại chẳng nhìn thấy ai. Trừ phi hung thủ là nhà thiện xạ đại tài, từ trong nhà bắn qua sân xuống bãi. Nghĩa là bắn qua khoảng rộng gần hai trăm mét.
Văn Bình khét tiếng về tài cũng thủ, song ít khi chàng dám chọn những mục phiêu xa hai trăm mét. Dầu là mũi tên sắt, đeo thêm chì ở đuôi cho nặng thêm, nó vẫn bị chiều gió chi phối, phương chi gió biển đang thổi vù vù.
Chàng thầm phục hung thủ. Về phương diện tác xạ, hung thủ không thu kém chàng bao nhiêu. Riêng về nghệ thuật bắn nương theo gió hung thủ có thể đua tranh ngang ngửa nơi chàng.
Vành tai chàng nóng ran. Chàng không quan tâm đến xác chết đang nằm nhe răng một cách kinh tởm, chàng cũng không quan tâm đến đám đông đang bàn tán xôn xao. Khi ấy chàng chỉ quan tâm đến biệt tài bách bộ xuyên tâm của kẻ lạ. Tự ái của chàng bị va chạm mạnh, chàng có cảm giác như cuống họng bị chặn nghẹt làm chàng hít thở hết sức khó khăn.
Hồng Lang rút mũi tên ra khỏi ngực trái của nạn nhân. Cũng bắn vào ngực trái, bên trên cuống tim một đốt ngón tay. Như vây, tức là hung thủ không bắn trật. Hung thủ cố tình bắn trúng túi áo trên của nạn nhân. Đặc biệt là trúng giữa Anfa thêu bằng chỉ vàng trên nền sơ-mi trắng toát...
Văn Bình vội kêu:
- Cẩn thận, tên tẩm thuốc độc...
Hoảng hốt Hồng Lang ném mũi tên xuống bãi cát.
Văn Bình cúi xuống, rón rén lượm lên, đặt ngang trên lòng bàn tay ngắm nghía. Mũi tên này được chế bằng nhom riêng ở Hoa kỳ, tên là A-40H. Loại tên nhom bắn thú vật không lấy gì làm đắt, công ty sản xuất Shakespeare chuyên về cung ná chỉ bán 40 đô-la một tá. Loại tên A-40H hơi nhẹ, thường được dùng cho những cây cung bằng chất nhựa mềm cân nặng từ 20 đến 30 kilô nên nó khó thể bắng trúng đích từ xa, và ở những nơi lộ thiên có nhiều gió như bãi biển.
Nhân viên an ninh của đại tá Bani đã mang băng-ca đến. Xác chết được đặt tòng teng trên cáng vải và khiêng lên sân biệt thự. Mặt hơi tái, Sophia lặng lẽ theo Hồng Lang về phòng. Những giây đèn nê-ông lớn dọc bờ biển và mặt hậu của biệt thự được bật sáng choang, thiết tưởng đánh rơi cây kim gút cũng tìm thấy dễ dàng. Hung thủ phải biết phép tàng hình độn thổ của thời đại Phong Thần mới thoát khỏi màng lướn canh phòng và hàng rào ánh sáng.
Vậy mà hung thủ vẫn trốn thoát...
Trốn thoát như thể biết phép tàng hình độn thổ của thời đại Phong Thần...
Khi về đến cửa phòng Văn Bình gặp lại Hồng Nương. Nàng bước rảo qua mặt chàng, dáng điệu bối rối và hấp tấp. Chàng không muốn chặn nàng lại mặc dầu lòng chàng chưa hết rạo rực. Chàng ngồi yên trong ghế, hút Salem liên miên.
Mãi đến hai giờ sau đại tá Bani mới lò dò tới. Thuộc viên của hắn đã gọi điện thoại về trụ sở đoàn Quạ Đen báo cáo đầy đủ chi tiết, ngay sau khi án mạng xảy ra, song đại tá Bani đã biến dạng khỏi văn phòng. Chắc Bani bị mắc kẹt trong một ổ nhện nào đó; bằng chứng là khi hắn xuống xe tất tưởi xô cửa phòng khách của biệt thự, miệng hắn, quần áo hắn còn nồng nặc hơi men. Không phải hơi men dụi dàng mà là hơi men rượu bờ-han, nửa ly đủ đánh gục con bò mộng.
- Đại tá Bani chẳng giải quyết được gì vì hai tên cận vệ xấu số của Sophia, ngoan ngoãn theo nàng từ Mỹ tới, đã được chở vào nhà xác: toán an ninh trong biệt thự đã lục soát từng tấc đất trên bãi biển, và từng góc nhỏ trong nhà mà không khám phá ra dấu vết cỏn con nào; mặc khác, nữ tỉ phú Sophia đã lên giường ngủ một cách phớt tỉnh. Chỉ còn lại Hồng Lang, nhưng hắn không thốt nửa lời, hắn ngồi thu gọn trong góc xa-lông, bầu bạn với chai rượu mới khui. Rượu là món quốc cấm ở Bombay, Bani lại là bợm nhậu có môn bài quốc tế nên rốt cuộc Bani xà lại, rồi cả hai thi đua uống huýt-ky.
Dĩ nhiên Văn Bình không thể đứng ngoài vòng chiến, đóng vai bàng quan vô trách nhiệm. Phương chi Hồng Lang đã ân cần mời mọc. Và để chứng tỏ hắn không phải là tay mơ trong nghề... Lưu linh, hắn đã mở tủ lấy thêm mấy chai rượu mạnh nhập cảng.
Ba người chén tạc chén thù với nhau cho đến gần sáng. Những vụ án mạng tàn bạo, những kẻ thù rình rập từng giờ từng phút, những công việc hệ trọng đang chờ tại cao nguyên Đề-căn mà kết quả có thể ảnh hưởng lớn đến thị trường quý kim trên thế giới... tất cả đã được bỏ quên...
Văn Bình không còn nhớ đã uống bao nhiêu ly huýt-ky nữa. Đại tá Bani ngã vật xuống nền nhà khi Hồng Lang bắt đầu khui chai thứ hai. Hắn nằm dài trên tấm thảm Ba tư bằng len đắt tiền sặc sỡ và ngáy o o.
Trong khi ấy Hồng Lang vẫn tỉnh.
Sức chịu đựng bền bỉ của Hồng Lang làm Văn Bình vô cùng sửng sốt.
Chàng đinh ninh bộ vó đẹp trai pha vẻ đàng điếm của hắn sẽ bắt hắn đầu hàng vô điều kiện. Chàng không ngờ càng uống hắn càng khỏe ra. Mặt hắn mỗi lúc một tái thêm, và đêm càng khuya hắn càng uống dữ. Văn Bình không bao giờ say, những khi chếnh choáng say là do sức lực chàng bị suy yếu bất ngờ, vậy mà gân cốt chàng cũng bắt đầu run. Cũng may Hồng Lang đã hết rượu, nếu trong tủ đang còn một chai, chỉ một chai nhỏ thôi, là Văn Bình đã theo đại tá Bani đo ván hoặc ít ra cũng đứng ngồi không vững.
Hồng Lang cười rú như bị ai thọc lét rồi lấy tay gạt đống vỏ chai và ly pha lê đổ vỡ loảng xoảng. Dường như hắn có thói quen đập bể mỗi lần uống rượu, chứ không phải vì hơi men đã làm hắn mất trí khôn. Hắn thản nhiên ngắm hàng chục, hàng trăm mảnh thủy tinh lớn nhỏ đủ cỡ, và xanh đỏ đủ màu vung vãi khắp phòng, rồi thản nhiên nằm quay lơ trên đi-văng. Phút chốc giấc ngủ đã xâm chiếm cơ thể Hồng Lang.
Văn Bình phải vục đầu vào thau đầy nước lạnh một hồi lâu mới hết mỏi mệt. Tòa nhà rộng mênh mông tinh không một tiếng động, ngoại trừ tiếng gió và tiếng sóng ngoài biển tạt vào. Chàng kéo ghế xa-lông lại gần Hồng Lang và bắt chước hắn kéo luôn một giấc.
Chàng tiếp tục ngủ mê mệt, tiếp tục say đứ đừ cho đến khi đoàn hộ tống Quạ Đen đưa chàng cùng phái đoàn Anfa ra phi trường, bay đến một địa điểm kín đáo được mệnh danh bằng mật ngữ trên bản đồ là A-5, A tức là Anfa, trong vùng cao nguyên Đề-căn, nơi đã xảy ra những vụ ám sát và biệt tích kỳ lạ.
* *
*
24 giờ đồng hồ sau.
Khác với 24 giờ đồng hồ đầu tiên của điệp viên Văn Bình trên đất Bombay chứa đầy tai nạn hiểm nghèo, tính mạng luôn luôn bị đe dọa, với những xác chết còn nóng hổi mà thủ phạm lại biến mất như có siêu pháp thuật, 24 giờ đồng hồ sau đã trôi qua trong bầu không khí tương đối phẳng lặng.
Ngoại trừ một vài biến chuyển bất thần khiến Văn Bình phải tỉnh táo, kỳ dư chuyến bay từ trung tâm Bombay đến vùng cao nguyên hoang liêu chẳng có gì đáng nói.
Theo chương trình định trước, đoàn xe Rolls Royce dài ngoằng và cao lênh khênh đến rước phái đoàn Anfa đúng 7 giờ sáng. Nhưng đến 7 giờ rưỡi, đại tá Bani, chỉ huy cơ quan Quạ Đen, còn ngủ li bì, một thuộc viên liều mạng bước vào phòng đánh thức, hắn mới chịu mở mắt. Và Bani xúc miệng bằng một ly bờ-han đầy ắp trước khi vươn vai, đeo lại dây lưng da lủng lẳng khẩu súng lục Luger bì đạn còn 4 viên đã tuột ra ngoài. May phước đêm trước đại tá Bani không dùng súng, vì trong nòng không còn viên đạn nào cả.
Đoàn xe Rolls bóng loáng có thể soi giương để nhổ râu đậu thành hàng dài ngoài sân, xe nào cũng có tài xế mặc đồng phục mới giặt ủi thẳng nếp, và có nhân viên an ninh võ trang súng tự động, xe riêng giành cho nữ tỉ phú Sophia có riềm che kín mít, hai bên lại có mô-tô hộ tống.
Sự thức giấc trong biệt thự phù hợp với đẳng cấp xã hội, Sophia là bà chủ lớn nhất nên dậy muộn nhất, nữ tỳ đánh thức nhiều lần nàng mới ra khỏi phòng ngủ. Hồng Nương dậy cùng một lúc với các khoa học gia của phái đoàn Anfa. Tuy uống thật nhiều rượu mạnh, Hồng Lang lại dậy thật sớm.
Văn Bình còn hơi nhức đầu, Hồng Lang lại tỉnh như sáo sậu. Hắn tỉnh đến nỗi Văn Bình có cảm tưởng hắn không hề uống giọt rượu nào đêm qua, và đêm qua hắn đã lên giường ngủ rất sớm. Chàng lắc đầu le lưỡi khi nhớ lại Hồng Lang đã vật ngã một đống chai huýt-hy, và chỉ được chợp mắt vào lúc gà gáy sáng te te. Điều này chứng tỏ Hồng Lang có một nội lực thâm hậu, hắn không yếu mềm như chàng lầm tưởng.
Gần 9 giờ sáng, mọi người trong biệt thự mới dậy đủ. Phải hơn giờ rưỡi đồng hồ nữa, vị chi đến non 11 giờ trưa, phái đoàn mới khệnh khà khệnh khạng ra xe, và tài xế khệnh khà khệnh khạng lái lên phi trường. Lộ trình đã được nghiên cứu đàng hoàng, đại tá Bani ra lệnh cho đoàn xe né tránh những trục giao thông đông đúc hầu tài xế có thể phóng hết tốc lực, nhưng... mưu sự tại nhân, thành sự tại... phong tục, công voa xe Rolls tượng trưng cho tiến bộ sang trọng của thế kỷ 20 đã đầu hàng vô điều kiện trước công voa... bò, tiêu biểu cho phong tục tập quán địa phương.
Những nàng bò cái nghênh ngang du hành trên đường nhựa, bất chấp luật giao thông. Tài xế không dám bóp kèn, phải chạy rì rì như người rước rượu, đến khi các nữ thần bò rẽ vào một con đường tắt mới dám tiếp tục ấn ga xăng. Và trên đường ra sân bay có phải bò thần chỉ xuất hiện mỗi một lần thôi đâu?
Ba, bốn lần là ít.
Và lần nào cũng làm đoàn xe kẹt lại 10, 15 phút đồng hồ.
Bò thần mới là một trong những nguyên nhân cản trở đoàn công-voa. Dọc đường Văn Bình còn thấy nhiều đám đông dân chúng gồm đủ hạng người, già trẻ lớn bé, đàn bà, đàn ông, tụ tập đen ngòm. Lệ thường, đám đông ở trên lề, nhưng ở nhiều nơi thường không có lề, hoặc nếu có lề hẳn hòi thì dân chúng lại tràn ra giữa lộ một cách phớt đời, khiến tài xế lại phải đạp thắng, và ấn kèn đinh tai điếc óc.
Xe hơi phải chạy qua xóm yên hoa trước khi ra thấu phi trường. Xóm yên hoa có khác, quang cảnh nhà cửa nhợt nhạt như khuôn mặt đàn bà bự phấn thức trắng đêm, làm Văn Bình lờm lợm ở cuống họng. Sau cùng, tài xế phải trổ tài đến toát bồ hôi, suýt gây ra tai nạn, vì đám đông gần phi trường tụm đen tụm đỏ chung quanh một sam-oan-la, bóp kèn mấy cũng không chịu tản mác.
Sam-oan-la, cũng như gái điếm thần linh, là một trong những đặc trưng độc nhất vô nhị của Ấn độ. Tiếng Ấn sam-oan-la là nhà phù thủy có biệt tài điều khiển rắn độc bằng ống tiêu. Giới thổi sáo thôi miên mãng xà này hành nghề đông nhung nhúc ở Bombay, ngoài cửa lữ quán nào cũng có, phần nhiều là mua vui cho ngoại nhân đến Ấn để thưởng thức của lạ.
Trong chuyến đầu tiên ghé thăm Ấn độ, Văn Bình phục lăn các sam-oan-la. Theo tiếng sáo trầm bổng, con rắn độc nhe răng, lè lưỡi đỏ hỏn, thở phì phì, chồm dậy, uốn khúc làm rợn xương sống. Văn Bình đinh ninh tiếng sáo có bí quyết mê hoặc loài rắn. Thời gian trôi qua, trong những chuyến viếng thăm sau này, chàng mới biết đó là bịp bợm. Vì loài rắn điếc tai, không nghe được tiếng sáo. Chẳng qua con rắn cử động theo những cử động của ống tiêu. Hầu hết rắn độc đều được nhổ răng nhọn và lấy bỏ nọc độc. Tuy vậy, giới sam-oan-la vẫn tiếp tục làm trò phù thủy láo khoét để đánh lừa du khách và dân chúng địa phương chất phác.
Gã sam-oan-la ở gần trường bay đứng giữa bầy rắn đủ màu, đủ cỡ, khi thấy đoàn xe sang trọng vọt qua và Văn Bình hạ cửa kiếng để nghe rõ tiếng tiêu, gã đột ngột gỡ kéo những con rắn đang bám trên vai ném xuống đất, đồng thời quay trở đầu ống sáo về phía chàng.
Xe hơi vào đến phi trường Văn Bình mới khám phá ra là chàng vừa hút chết.
Và hung thủ là gã sam-oan-la râu ria sồm soàm đầu quấn khăn trắng bẩn thỉu, mặc sa-rông lôi thôi lếch thếch, da dẻ sù sì, mốc meo và đen đủi như đồng hun.
Thừa cơ Văn Bình lò đầu ra, gã sam-oan-la đã thổi tên độc với mục đích ám hại chàng. Mũi tên bằng nhom nhỏ xíu cắm ngập đến chuôi vào cái loa âm thanh nổi bằng chất lát-tích cứng ở sau lưng Văn Bình. Đối với lát-tích cứng như sắt, nó còn xuyên thấu, không hiểu nó sẽ đâm sâu đến đâu nếu nó bắn trúng thân thể của chàng.
Chàng lầm lì xuống xe, không thốt nửa lời. Đối phương quả có nhiều sáng kiến và tài nghệ. Họ đã bố trí đám đông dầy đặc để chặn đoàn xe ngừng lại, và dùng tên độc giết chàng. Hai cận vệ của Sophia bị hạ sát bằng tên độc. Loại tên Shakespeare bằng nhom đặc biệt. Mũi tên suýt bắn thủng ngực chàng cũng là tên Shakespeare...
Chàng không rút mũi tên ra khỏi đệm xe và cũng không báo tin cho mọi người. Đại tá Bani ngồi bên không hay biết gì hết. Chàng thản nhiên trèo lên phi cơ.
Chuyến bay hoàn toàn tốt đẹp, viên phi công có khuôn mặt hãm tài và xấu kinh khủng, quỷ dạ xoa cũng khó thể tỏ cảm tình, thoạt đầu Văn Bình lo ngay ngay, nhưng phi cơ đã dứt khỏi sân bê-tông thật nhẹ nhàng, nhẹ nhàng như thể chiếc vận tải cơ to lớn nặng nề này chỉ là trực thăng bé nhỏ. Dọc đường phi công tiếp tục lái êm ru, hắn đáp xuống địa điểm A-5 cũng êm ru một cách khác thường.
Địa điểm A-5 là một phi trường hạng trung bình, dường như trước kia là phi trường quân sự, sau bị bỏ phế, một phần bãi đáp đã lún và được trải vỉ thép mắt cáo, và nếu không thấy ngôi nhà trơ trọi làm đài kiểm soát và đám ngươi chạy lăng xăng bên dưới Văn Bình có thể lầm tưởng là phi công đã hạ cánh xuống một xó xỉnh tiền sử hoang liêu.
Trời nắng rát mặt, mọi người hối hả lên xe, rời địa điểm A-5, chạy qua những sườn đồi thoai thoải lượn ngoằn ngoèo như rắn bò đến nơi cắm trại.
Lục địa Ấn là một trong những khu vực có hệ thống công lộ nghèo nàn nhất thế giới, cao nguyên Đề-căn lại đứng cuối sổ của Ấn nên tài xế và xe hơi phải thuộc loại thượng thặng mới khỏi gây tai nạn. Vì tai nạn có thể xẩy ra bất cứ ở đâu, và bất cứ lúc nào. Khi đoàn công-voa bắt đầu leo lên đồi là thần Chết đã thủ sẵn lưỡi hái chờ đón. Con đường đang rộng tênh hênh bỗng thót nhỏ lại, xe díp phải luồn thật khéo mới không lọt xuống vực sâu, hoặc một tượng đá khổng lồ chắn ngang như bức thành, một giãy ổ gà sâu như hồ tắm. Hoặc con đường đột ngột bị cắt đôi, bởi những giòng suối chảy xiết. Trời nắng chang chang, vậy mà người ngồi trong xe lại không nhìn thấy cảnh vật, bụi đường phủ kín khiếng chắn gió, người ta đổ nước và mở quạt nước sành sạch lớp bụi hỗn xược này vẫn không chịu rút lui, khiến tài xế chỉ dám gài số 1, ì à ì ạch.
Chỉ thấy toàn đồi là đồi, tưởng như vùng cao nguyên không còn gì nữa ngoài những giãy đồi trùng trùng điệp điệp. Mãi đến chạng vạng tối Văn Bình mới thấy cây cối xanh um, đó là một khu rừng già trải rộng đến tận chân trời, và tiếp giáp khu rừng già là rặng núi hùng vĩ cao ngất, nơi phái đoàn Anfa đóng trại lần trước, và cũng là nơi xảy ra một loạt vụ án mạng và mất tích kỳ lạ.
Công-voa đậu lại, ai nấy đều mệt nhoài. Dĩ nhiên Văn Bình vẫn khỏe như không mặc dầu phải ngồi bó gối suốt 6 tiếng đồng hồ dài giằng dặc trên xe díp nhảy tâng tâng trên những ổ gà sâu hoắm. Sophia cũng thơ thới như chàng sau cuộc hành trình kéo dài. Lý do sự thơ thới này rất giản dị, xe díp của nàng được gắn ống nhún đầu kiểu DS-21, thân xe lại được đóng kín và không khí bên trong được điều hòa, khiến nàng không phải thở hơi nóng và hít bụi cát đỏ, và nhất là không khát cháy cuống họng dưới ánh mặt trời xiên khoai. Nàng ngồi xe díp mà êm như ngồi xa-lông, xe díp còn có cả tủ lạnh đựng đủ thứ nước uống. Cùng đi xe với nàng trên xe díp đặc biệt có Hồng Lang, và dĩ nhiên là Hồng Nương. Trong khi đó, nhân viên phái đoàn Anfa đều phải ngồi xe díp mui vải, chất đông như cá mòi đóng hộp.
Xe hơi chở đại tá Bani và Văn Bình có phần thoải mái hơn, nhưng nó cũng chỉ thoải mái ở chổ Bani mang theo mấy chai rượu bờ-han và huýt-ky, và một giỏ đồ nhậu. Dọc đường, Bani uống tì tì, và ăn tì tì, thoạt đầu hắn đon đả mời chàng, song chàng lắc đầu, hắn bèn đánh chén một mình. Đoàn xe dừng lại thì bụng hắn đã phưỡn ra, hắn khệnh khạng vịn sườn xe trèo xuống đất. Hắn không dám co chân nhảy như Văn Bình, và như mọi người đàn ông khác trong công-voa, có lẽ vì sợ nứt vỡ bao tử.
Trước mặt mọi người mở rộng một cái hang ong ánh thạch nhũ. Đồ đoàn, dụng cụ được dỡ xuống và khiêng vào trong động. Trong chốc lát, máy phát điện chạy rì rầm, thạch động tối om vụt sáng chưng, đèn điện được lắp treo khắp nơi. Sau đó, bữa cơm tối thịnh soạn được dọn ra, thức ăn đều bằng đồ hộp và đồ đông lạnh. Nhân viên Quạ Đen thuộc quyền đại tá Bani chia nhau thành nhiều toán canh gác bên ngoài thạch động. Cách hang đá trăm mét là một bốt gác khác. Đại tá Bani chạy lăng xăng từ toán gác này đến toán gác khác, xong xuôi hắn trở vào thạch động, và công việc đầu tiên của hắn là lục ba-lô lấy thêm chai rượu bờ-han và... cái đùi cừu béo ngậy vàng rộm.
Sự phân biệt nếp sống đã hiện ra rõ rệt giữa nữ tỉ phú Sophia và phái đoàn. Hang đá khá lớn được chia thành nhiều khu, có những vách thạch nhũ thiên nhiên ngăn cách nên nam nữ khỏi phải sống chung chạ, tiện nghi tương đối đầy đủ, mọi người chỉ thiếu máy lạnh hoặc điện thoại, chứ không thiếu giường nệm êm lưng và món ăn thức uống thịnh soạn. Khu giành riêng cho Sophia được treo một tấm bạt dầy, bên trong có phòng tắm, phòng ngủ đàng hoàng, thậm chí có cả quạt máy chạy vù vù suốt ngày đêm, và có cả đèn đêm nê-ông mát dịu đặt trên đầu giường nữa.
Văn Bình tiếp tục lắc đầu quầy quậy trước chai rượu bờ-han và dùi cừu nướng thơm phức của đại tá Bani. Bụng chàng đã chứa quá nhiều thực phẩm chàng có linh cảm là nhiều biến cố toát bồ hôi lạnh sắp xảy ra trong đêm, nên chàng cần bao tử được nhẹ nhõm để có thể đối phó hữu hiệu.
Chàng đứng dậy, bước ra cửa hang. Không khí trong thạch động rất thoải mái, song chàng vẫn thích thở hút không khí rừng núi, nhất là không khí rừng núi ban đêm.
Và chàng gặp Bill.
Hồi ở Bombay. Hồng Nương đã giới thiệu Bill với chàng. Nhưng chỉ giới thiệu xuông, chứ chàng chưa hề gặp hắn. Chàng định giáp mặt hắn song trên chuyến bay từ Bombay đi cao nguyên hắn ngồi ở hàng ghế phía trước gần phòng phi hành, chàng ngồi nơi đuôi với đại tá Bani, trong công-voa xe hơi hắn lại ngồi chung với nhân viên địa chất, thành thử ra chàng chỉ thoáng thấy hắn một vài lần.
Chàng bỗng có ý nghĩ là Bill cố tình tránh mặt. Vạn bất đắc dĩ, chạm trán chàng ngay ngoài cửa hang đá hắn mới chịu lên tiếng.
Hắn nhanh nhẩu chào:
- Hân hạnh được quen đại tá.
Văn Bình bắt tay hắn:
- Tôi là Văn Bình, chúng mình nên xưng hô với nhau một cách thân mật, tốt hơn. Cô Hồng Nương đã nói nhiều về anh, mãi đến lúc này tôi mới được cơ hội trò chuyện với anh.
Quang cảnh rừng đêm đen thui, nếu không có ánh đèn từ trong hang chiếu ra thì đứng sát Bill chàng cũng không hy vọng nhìn được rõ mặt hắn. Chàng đã biết tâm địa hắn mặc dầu mới quen và mới trao đổi một câu chào hỏi xã giao vô thưởng vô phạt.
Chi tiết tướng mạo đập vào mắt chàng ngay sau khi chàng bắt tay hắn là đôi tai nhỏ teo, không những nhỏ teo lại còn méo sệch, rái tai nhọn hoắt như ngòi bút nguyên tử. Đó là tai chuột. Loại người có tai thử-nhĩ này khó thể là chính nhân quân tử.
Ngược lại, mặt mũi hắn lại rất đều đặn, mắt hơi nhỏ nhưng sáng choang, mũi thẳng và đầy đặn nhân trung cao, nghĩa là hắn có diện mạo của người chính nhân quân tử. Sự tương phản kỳ quặc này chẳng lợi gì cho hắn, vì theo khoa tướng mạo á-đông hắn sẽ khó thoát khỏi chết yểu.
Tội nghiệp, Bill cao, to, hơn chàng nửa cái đầu, về sức nặng chàng phải thua kém hắn từ 15 đến 20 kí, bộ vó khôi ngô, bắp thịt nở nang, đàn bà đẹp không thể không rung động, con trai tràn trề nhựa sống như hắn mà chết non thì không thương sót sao được! Tuy vậy, sau khi bắt tay Bill, chàng đâm ra băn khoăn. Bàn tay hắn dầy mà cứng, như thể được đúc trong khối bê-tông, chứng tỏ hắn là con nhà võ, không phải con nhà võ thông thường, mà là bậc huynh trưởng trong ngành ngạnh công, một trong những môn luyện công khó nhất của nền võ thuật Trung quốc.
Với bàn tay tường đồng vách sắt này, Bill khó thể là cái mồi ngon trong những cuộc tỉ thí quyền cước. Và hắn khó thể đoản mệnh. Chàng toan nói thì hắn đã chặn trước:
- Chà, anh có bàn tay cứng ghê!
Chàng vội đáp:
- Bàn tay anh cũng vậy, tôi đã quen nhiều người song ít thấy ai có bàn tay như anh.
Hắn cười nửa miệng:
- Tôi đã sống hơn 10 năm ở miệt Hoa-Bắc và 4 năm ở Đông-kinh, phần lớn thời giờ đều giành cho việc trau giồi võ thuật. Tôi đã thụ giáo nhiều bậc võ sư, tôi lại đã thượng đài với nhiều võ sĩ có tài. Nghĩa là không giấu diếm anh, tôi là võ sĩ từng lập thành tích hẳn hoi. Nhưng đêm nay, bắt tay anh, tôi nhận thấy tôi chỉ đáng là em út của anh.
- Anh quá khiêm tốn.
- Không, tôi không phải là con người khiêm tốn. Từ nhỏ đến lớn tôi chỉ có hai thái độ minh bạch: hống hách, kiêu căng quá độ với kẻ kém vai vế, và khiêm nhường, luồn lụy với những người tôi coi là đàn anh. Nếu anh là võ sĩ tầm thường tôi đã không nói năng nhỏ nhẹ như thế này, thoạt gặp anh tôi đã giả vờ bắt tay anh và vặn trẹo xương, đôi khi còn bồi thêm một phát atêmi lọi sườn. Thú thật với anh, hồi nãy tôi đon đả bắt tay anh là để trổ tài nội công, song chỉ một giây đồng hồ sau là nhuệ khí ngùn ngụt của tôi đã hoàn toàn tiêu tan. Xin anh tha lỗi cho tôi, lẽ ra tôi đã phải hàng phục anh ngay từ ở Bombay sau khi Hồng Lang bị anh khuất phục dễ dàng.
- Chúng tôi chưa hề giao đấu với nhau.
- Thưa anh, cần gì phải giao đấu mới phân biệt được giữa đàn anh và đàn em, giữa bậc thày và học trò. Hồng Lang là tay giỏi võ, ai cũng gờm, ông ta chỉ thua tôi về môn thiết-thủ, chứ còn về atêmi ông ta hơn tôi cả chục cây số. Ông biết không, tôi có thể bẻ cong thanh sắt, bóp gạch vụn nát ra bột, tôi đinh ninh trên lục địa Ấn chưa có ai đương đầu lại...
Bill im bặt, mắt có vẻ xa xôi như luyến tiếc một cái gì thần tiên đã mất. Văn Bình an ủi:
- Thôi, chúng mình bàn sang chuyện khác thì hơn, nói mãi về võ thuật và giết chóc, chán quá!
Bill thở dài:
- Rồi anh sẽ thấy... Sự giết chóc xảy ra hàng ngày, hàng giờ ở đây. Giá là những cuộc so tài đàng hoàng thì chẳng nói làm gì, giỏi thì thắng kém thì bại, đằng này anh chẳng thấy kẻ thù ở đâu, và tấn công khi nào nữa. Tôi sút 6 kí thịt trong chuyến trước, vì đêm nào cũng phải thức đến sáng, buổi trưa cũng không được phép chợp mắt. Anh nghĩ coi, mới bị khủng hoảng gần một tuần lễ mà đã gầy 6 kí, không hiểu chuyến này tôi sẽ mất thêm bao nhiêu...
- Kẻ thù là ai, anh biết không?
- Không. Nếu biết, tôi đã không phải thấp thỏm súng dài súng ngắn kè kè luôn luôn bên mình. Tôi tức ứa máu, dầu kẻ thù có ba đầu sáu tay, mình đồng da sắt, tôi cũng quyết ăn thua đủ với nó.
- Hỏi anh điều này có vẻ khiêm nhã, song tôi tin là anh sẵn sàng cho phép. Những chuyện xảy ra có làm anh sợ không?
- Sợ lắm chứ. Sợ nhiều đến nỗi trái tim muốn ngừng đập.
- Vậy sao anh vẫn có mặt trong chuyến đi này?
- Vì 2 lý do. Thứ nhất, chuyến đi này tương đối an toàn hơn chuyến trước. Số nhân viên cận vệ đông gấp đôi, có thể tạm đủ để canh phòng suốt ngày đêm ở các vị trí then chốt, ngoài ra còn có dụng cụ canh phòng điện tử. Lý do thứ nhất thật quan trọng, nhưng chưa có tính cách quyết định bằng lý do thứ hai, ví thử tính mạng tiếp tục bị đe dọa ghê gớm như lần trước, tôi cũng tiếp tục tình nguyện. Đó là lý do quyền lợi. Anh tính, thời buổi người khôn của khó này kiếm đâu ra số tiền hơn trăm ngàn đô-la.
- Tiền lương mà phái đoàn Anfa trả cho anh?
- Vâng, tiền lương khoán là một trăm hai chục ngàn, nếu cộng thêm tiền thưởng thì đến trăm rưởi. Làm nghề huấn luyện viên trèo núi như tôi mỗi năm được nhiều lắm là năm ngàn đô-la. Chuyến đi này mang lại cho tôi số tiền mà tôi phải thu vén vất vả trong ba chục năm đăng đẵng mới có. Hoạt động trong vài ba tháng để có tiền tiêu pha trong ba chục năm, tôi không thể không chấp nhận mọi sự hiểm nghèo. Cô Sophia giòng giõi cành vàng lá ngọc còn ham tiền huống hồ nghèo rớt mồng tơi như thằng tôi.
- Ai bảo anh là Sophia đến đây vì hám tiền?
- Vẫn biết Sophia lặn lội từ Mỹ quốc sang cao nguyên khỉ ho cò gáy Đề-căn là để chạy theo tình yêu, nhưng nếu chỉ để chuẩn bị hôn nhân và tuần trăng mật thì trên trái đất thiếu gì địa điểm nên thơ, Sophia không phải là cô gái đôi mươi, thơ ngây và lý tưởng để đến nỗi khờ khạo lao đầu vào sào huyệt của thần Chết? Dĩ nhiên, vấn đề chính là ái tình, nhưng vấn đề sản nghiệp không hẳn là phụ. Gia đình nàng thuộc hàng tỉ phú, song nàng chỉ được chia một phần, cái mỏ vàng mà phái đoàn Anfa đang tìm kiếm là của riêng của nàng, trong trường hợp nàng thành công, nàng sẽ giàu hơn cả những người giàu nhất thế giới như Howard Hughes và Paul Getty nữa.
- Coi chừng... nếu Sophia khám phá ra mỏ vàng, kẻ thủ vô danh sẽ không để cho nàng trở về yên ổn.
- Cám ơn anh đã nghĩ đến điều ấy. Quốc tế Khai khoáng Công ty cũng như ông Sì-mít đã nghĩ vậy nên chẳng quản tốn kém và khó khăn mời anh đến tận nơi, đặc trách an ninh cho Sophia. Vả lại, như tôi đã nói hồi nãy, kẻ địch đụng chạm da thịt nàng cũng chẳng dễ nào. Hang đá chỉ có một lối ra vào duy nhất, cận vệ võ trang súng tự động ngồi gác thường trực, ngoài ra còn có những rô-bô điện tử canh phòng trong đường kính hai trăm mét, loại rô-bô vỏ thép này đạn bắn không thủng, nếu dùng đạn bắn chiến xa, nó chỉ bị lủng một vài lỗ, máy móc của nó không bị hề hấn, thêm vào đó, bên người nàng còn có ông Hồng Lang võ nghệ siêu quần, tài xạ kích lại độc nhất vô nhị, đồng thời con beo vằn đuợc huấn luyện đặc biệt có thể giết người như mèo giết chuột nữa...
- Con beo vằn? Sophia có con beo vằn giữ mình ư? Tôi chưa hề trông thấy nó.
- Vì nó được nhốt trong cái cũi riêng, bề ngoài trông từa tựa cái va-li. Con beo này chỉ nhỏ bằng con chó bẹt-giê 4, 5 tháng, thân nó dài hơn, chân nó thấp hơn, song nó lại dữ vô kể và lợi hại vô kể. Nó thuộc một giống beo xuất xứ từ vùng rừng rậm trung bộ châu Phi nhiệt đới, giống này nhỏ xíu mà sức mạnh lại vượt xa cọp lớn. Nó chỉ cân nặng 5, 6 chục kí là cùng, thế mà nó đánh quỵ như chơi những con thú 2, 3 trăm kí. Nó được một người dạy thú hữu danh huấn luyện từ ngày 4 tháng, mới từ rừng rậm bắt mang về, chương trình huấn luyện gồm cách đánh hơi, cách nhảy vồ yết hầu, và cách giết người bằng ngoạm đứt mạch máu và dây thần kinh ở cổ. Thường lệ, con beo vằn này hiền như cục đất, ai vuốt lung, xoa đầu nó cũng mặc kệ, nhưng hễ cô chủ ra lệnh là nó hành động tức khắc.
- Nó nghe được tiếng người?
- Dĩ nhiên. Song nó chỉ tuân lệnh Sophia. Nàng bảo gì, nó nghe nấy.
- Nó đã giết ai chưa?
- Chưa. Nó chỉ mới làm mấy chú cận vệ sợ xanh máu mặt. Số là con beo vằn nhỏ xíu lại có dáng điệu hiền lành nên bọn cận vệ tỏ ra khinh miệt, một thằng đánh bạo nắm đuôi nó kéo chơi, nó gầm gừ thì cả bọn ùa lại dùng gậy sắt vây đánh. Nó bèn quật ngã thằng đầu đảng, lần lượt cả bọn đều bị do ván, một tên rút rúng ra, toan bắn tự vệ thì nó xồ lại, cắn nát tay, nó sửa soạn vồ yến hầu thì Sophia về đến nơi, nàng phải quát mắng nó mới chịu tha giết, giá hôm ấy nàng chỉ về chậm nữa phút đồng hồ nữa là nạn nhân đã bị con beo vằn cắn nát cuống họng mà chết. Từ đó trở đi, cả bọn cận vệ và nhân viên Quạ Đen của đại tá Bani đều sợ con beo vằn hơn cả con nít sợ ông kẹ nữa.
- Còn anh?
- Tôi chưa có dịp thử lửa với nó, vả lại, tôi tự nghĩ thử lửa không lại, và bị nó nhá xương rào rạo là cái chắc.
Văn Bình đoán lầm Bill sẽ lên tiếng thách thức chàng đấu sức với con beo vằn gieo tai họa. Chàng đã đoán lầm vì Bill chỉ nói có vậy rồi im lặng trước khi lảng sang chuyện khác với những câu hỏi vô thưởng vô phạt như "anh buồn ngủ chưa, thường thường mấy giờ anh đi ngủ, ban đêm ở xó rừng này buồn nhỉ, chẳng bù với trung tâm Bombay..."
Văn Bình suy nghĩ miên man sau khi Bill viện cớ bận việc để cáo từ, trở vào thạch động. Chàng có linh cảm là phần đông nhân viên trong phái đoàn Anfa đang còn thức, mặc dầu những ngọn đèn ống đã lần lượt tắt, và trong cảnh đêm tĩnh mịch tiếng ngáy o o vang lên. Chàng dựa lưng vào vách đá, bâng khuâng ngắm khu rừng đen sì, đom đóm lập lòe. Trước cửa hang, hai cận vệ mặt đen thui, răng trắng nhởn, môi và lưỡi đỏ hỏn, đang ôm súng gác bên cây đèn bão, ánh sáng lắc lư. Bên trong, ngay sau cửa hang, còn một trạm gác khác. Một con chim sẻ cũng khó có hy vọng len vào thạch động. Phái đoàn Anfa cắm trại giữa rừng nhưng lại an toàn không kém ở trong căn cứ quân sự có hầm bê tông cốt sắt, và hàng rào kẽm gai truyền điện.
Văn Bình bị một thân đồ sộ che khuất, lại ở trong tối nên được tha hồ quan sát cửa động trong khi bọn cận vệ không nhìn thấy chàng. Cảm thấy miệng đắng, chàng móc túi lấy Salem toan hút, song vội quăng xuống đất khi nghe tiếng chân người bước thật nhẹ trên con đường độc đạo đầy lá rụng và đất đỏ, cách nơi chàng đứng chừng 50 mét về phía trái.
Chàng lặng lẽ rượt theo.
Sau khi ra khỏi bụi rậm nhằng nhịt cây leo, chàng thoáng thấy một bóng đen mà chàng biết chắc là đàn ông. Song, chỉ trong vòng một phần trăm tích-tắc đồng hồ, bóng đen bí mất đã nhòa biến vào đêm khuya.
Rượt theo người lạ trong rừng lạ không phải là việc ai cũng làm nổi. Bóng đen đã quen thuộc đuờng đi nước bước nên không hề vấp ngã, chàng có cảm tưởng là bóng đen đang trượt băng, nhanh như tên bắn. Trong khi ấy, Văn Bình mới đến vùng cao nguyên Đề-căn lần đầu, chàng phải vận hết nhỡn tuyến dạ hành để phân biệt, tuy vậy, nhiều lần chàng bị hụt chân, nếu không đạt tới trình độ thượng thừa về khinh công, tái lập thăng bằng dễ dàng dầu bị trượt té, chàng đã nằm còng queo dưới vực.
Bóng đen tiến ra khỏi rừng và đang men theo con đường đèo ngoằn ngèo lên núi. Giờ đây, trời đã bớt tối, nhưng chàng vẫn chưa nhìn rõ được phía trước. Chàng đi sau bóng đen khoảng 15 thước, chàng phải thở thật nhẹ, vì trong khoảng cách này các võ sĩ am tường phép luyện công có thể nghe rõ đuợc hơi thở của đối phương.
Càng lên cao, con đường đá càng thu hẹp lại. Nhưng Văn Bình bắt đầu nhìn thấy lối đi nhờ sự phản xạ của những tảng đá lớn. Sợ bóng đen lủi mất, chàng nhích lại gần thêm nữa. Nương theo tiếng động do gót giày của bóng đen gây ra, Văn Bình biết chàng chỉ còn cách bóng đen 5, 6 thước. Tuy chỉ cách 5, 6 mét, chàng không sợ bị hắn phăng ra. Vì con đường quẹo trái, vòng phải, lên cao, xuống thấp như chiến hào. Kể ra, nó không khác chiến hào là bao, vì hai bên đường là những phiến đá đen, trắng nhẵn như được gọt bào bằng máy, nối đuôi nhau sừng sững.
Đột nhiên, tiếng chân của bóng đen nghe rõ hơn trước.
Thì ra con đường độc đạo không ngoằn ngoèo nữa. Mà trở nên thẳng băng.
Trước mặt Văn Bình, trong ánh sáng hư ảo của đá hoa cương và cẩm thạch, một cảnh tượng hùng vĩ trải rộng khiến chàng phải bồi hồi đứng lại, chờ cho bóng đen đi khuất mới vươn ngực thở một hơi dài.
Trước mặt Văn Bình là một ngôi đền cao vòi vọi, nóc đền tròn trịa đầu khum khum, bên duới xòe rộng ra trên cái đế hình tam-giác. Lối kiến trúc mái tháp này được phổ biến tại Ấn độ, đó là biểu tượng của lingam và yôni, cái mái tròn sừng sững trong tầm mắt Văn Bình được xây đắp rất khéo nên khỏi cần là nhà tiểu thuyết giàu tưởng tượng chàng cũng đã hình dung ra những bộ phận thiết yếu ngàn đời của tình yêu nam nữ. Nhưng Văn Bình băng rừng đến đây giữa đêm khuya thanh vắng không phải để chêm ngưỡng lối kiến trúc khích dục. Chàng cốt theo sau bóng đen xem hắn đi đâu.
Chàng nín hơi, quan sát tứ phía. Ngôi đền trắng tọa lạc trên sườn núi thoai thoải 30 độ, mái trắng nhô thật cao song vẫn chưa cao bằng những ngon cây bao phủ. Vì vậy, ngôi đền rất đồ sộ mà người đứng xa không thể nhìn thấy.
Chỉ có một lối lót đá dẫn vào đền, còn những phía khác bị cành cây che khuất. Chàng ngần ngừ một lát trước khi đi vòng ra hông ngôi đền. Chung quanh đền một bức tường cao bao bọc. Văn Bình rún chân là vọt được lên trên, chàng gieo người xuống bên trong, nhẹ nhàng như chiếc lá rụng.
Chàng có cảm tưởng đây là ngôi đền bỏ hoang, từ nhiều năm nay không ai đến cúng tế. Bỏ hoang, vì lau lách mọc đầy, nhiều chổ lút đầu người. Lại gần, chàng mới thấy nhiều mảng tường bị sạt và bậc cấp lún sâu xuống đất núi.
Chàng thoáng nghe tiếng người, không phải một người mà là nhiều người từ trong đền vọng ra. Chàng men theo bụi rậm tiến lên. Đến trước một khung cửa trống toang hoác, chàng ngồi thụp xuống. Phía sau khung cửa trống là chính điện của ngôi đền. Chàng thấy một giãy tượng đá to lớn, đàn ông và đàn và xen kẽ nhau, cùng nắm tay nhau và cùng ngoảnh mặt ra ngoài. Đặc điểm của những pho tượng lớn bằng người thật này là sự trần truồng.
Toàn thể đều được tạc trần truồng trong đá. Văn Bình có thể nhìn thấy nụ cười hân hoan trên miệng các pho tượng đàn ông, và những nét đăm chiêu kỳ lạ của các pho tượng đàn bà. Sở dĩ mắt chàng không còn bị bóng đêm ngăn cản là vì trong chính điện có một ngọn nến.
Một cây nến hồng to bằng cánh tay người đang cháy bập bùng giữa ngôi nhà hoang vu.
Và phía sau cây nến hồng là một cô gái. Cô gái này chỉ trạc 12, 13 tuổi là cùng. Nàng mặc quần áo vàng mỏng dính, phơi lộ tấm thân đồng hun cân đối. Căn cứ vào khuôn mặt thì nàng rất trẻ, nhưng nếu căn cứ vào những đường cong uyển chuyển nàng đã đến tuần cặp kê.
Trái tim của Văn Bình như đứng hẳn lại, không chịu đập nữa. Cô gái đang uốn éo trên cái bục đá, mùi trầm hương, mùi hoa dại, quyện gió ngào ngạt. Văn Bình ngây ngất ngắm cô gái mở rộng hai vạt áo choàng, vẫy lên như cánh bướm rồi bắt đầu múa nhảy.
Đối với những người quen sống ở Tây-phương thì cảnh thoát y huyền ảo chỉ có thể tìm thấy trong các hộp đem, ở đó cũng có những ngôi đền, những bộ áo bằng kim tuyến voan, những cô gái măng tơ, những cây đèn cầy leo lét thay cho đèn điện ngàn nến, nhưng chỉ là giả tạo. Cảnh tượng đang diễn ra trước mắt Văn Bình là cảnh tượng huyền ảo thật sự, thiết tưởng Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai ngày nọ cũng khó thể xúc động hơn chàng. Cô gái thoát y trên bục đá, giữa chính điện hoang vu của ngôi đền hoang vu, không múa những điệu thông thường như Văn Bình thường mục kích trong các trung tâm dạ lạc giựt gân. Những tiết vũ của nàng đều nhuộm vẻ thoát tục khiến chàng lâng lâng, hồn chàng như bay ra khỏi thân thể mà hòa nhập vào không gian thanh khiết vô tận.
Thật kỳ lạ... trong hộp đêm, môn vũ thoát y lôi cuốn được dạ khách là do tiếng nhạc trập trùng, đằng này tất cả đều chìm vào im lặng, cô gái không thốt ra một tiếng, Văn Bình chỉ nghe hơi thở rồn rập của mình và tiếng vải sột soạt, tiếng leng kenh thánh thót của những cái khánh nhỏ xíu bằng vàng đeo ở hai cổ chân nàng.
Giờ phút này, Văn Bình mới biết lời căn dặn của ông Hoàng rất đúng. Từ lâu, ông tổng giám đốc đã kể chàng nghe về nghệ thuật múa vũ hớp hồn của những cô gái Ấn độ bán mình cho thần linh, gọi là đevađasi hoặc ganika. Bombay là nơi có nhiều điếm-thần nhất, họ có đặc tài mê hoặc đàn ông, tuy nhiên trên cao nguyên Đề-căn có một loại điếm-thần độc nhất vô nhị, ngắm họ múa là đàn ông có trái tim bằng thép cũng bị chinh phục dễ dàng, không những họ có ma thuật trong điệu múa, ngay cả trong phòng the kín đáo, ma thuật thỏa mãn dục tình của họ còn đuợc liệt vào hạng thượng thừa nữa.
Theo lời ông Hoàng, khi nào bắt bồ với đẳng cấp điếm-thần thượng thừa này Văn Bình phải coi chừng. Vị họ am tường một phương pháp vô tiền khoáng hậu, đàn ông dày công trận mạc đến với họ thường bị thảm bại trong vòng 5, 10 phút, và sau đó phải nghỉ ngơi, tẩm bổ hàng tuần, đôi khi hàng tháng mới phục hồi được phong độ.
Phương pháp bách chiến bách thắng yêu đương này là một siêu hình thức yoga. Người ta gọi là tan-tờ-rít yoga. Các cơ quan điệp báo phía sau bức màn sắt, thoạt đầu là GRU sô viết, sau đến Quốc tế Tình báo Sở Hoa lục, đã lần lượt du nhập bí thuật yoga làm tình để giảng dậy cho nữ nhân viên. Trong quá khứ, Văn Bình đã hơn một lần so tài với nữ nhân viên điệp báo địch thông thạo bí quyết làm tình. Và hơn một lần Văn Bình đã bị thất điên bát đảo, nhưng rốt cuộc chàng vẫn thắng.
Tuy nhiên, so sánh với điếm-thần ở vùng cao nguyên Đề-căn thì các nữ điệp viên này chỉ mới là đàn em hạng bét. Giờ phút gay cấn này, Văn Bình đang ngồi đối diện một điếm-thần. Chàng rán trấn tĩnh để khỏi bị mê hoặc, song sự mê hoặc cứ từ từ thấm vào tạng phủ chàng. Chàng muốn rút lui vậy mà hai chân cứ chôn sâu xuống đất, chàng đành há hốc miệng theo dõi màn vũ tế thần của người đẹp ganika cách chàng gần 5 thước, dưới ánh đèn cầy bập bùng.
Ganika là điếm-thần, vì theo phong tục địa phương, họ là vợ của thần Tình yêu Shiva. Cha mẹ thường bán-khoán con gái cho thần, và những bông hoa biết nói thơ ngây này được nuôi nấng trong đền, dạy cách múa, cách làm tình, và dĩ nhiên họ phải biểu diễn những điệu đã hấp thụ với tu sĩ giữ đền, và dần dà với khách thập phương. Mỗi chuyến ghé thăm Ấn độ, Văn Bình đều không quên ghé thăm những ngôi đền có điếm-thần, song chàng chỉ gặp những cô gái có tài nghệ và nhan sắc trung bình, cho nên chàng hằng khao khát tìm được của lạ.
Cô gái quần áo vàng mỏng dính, phơi lộ tấm thân đồng hun cân đối, đang kiễng chân trên bục, cánh tay giơ khỏi đầu và chập vào nhau. Nàng xoay tròn, những bộ phận nở nang trên thân thể nàng rung chuyển như bên trong được truyền điện. Và trong khi xoay tròn nàng cởi bỏ tấm áo choàng bằng voan kim tuyến. Trong khoảnh khắc, nàng khỏa thể hoàn toàn, điệu múa của nàng trở nên gấp gáp hơn, cuồng loạn hơn.
Văn Bình đang say mê bỗng giật mình, bàng hoàng. Một tiếng kêu vừa xé toang màn đêm u tịch.
Trời ơi!
Tiếng kêu "trời ơi" phát xuất từ một góc tối của chính điện. Ngọn hồng lạp chỉ chiếu sáng được một phần của bục đá, còn tất cả ngôi đền đều chìm ngập trong bống đêm mờ mịt. Văn Bình giật mình vì tiếng kêu này là của một người đàn bà.
Và là một người đàn bà quen thuộc.
Chàng nhô đầu ra khỏi đám lau lách để nhìn cho kỹ. Ngay khi ấy một bóng đàn bà mặc áo hồng phủ kín từ đầu xuống chân như áo cưới lẹ làng từ góc đền chạy ra trước bục đá, cô gái lõa thể đang oằn oại trông thấy vội lùi dần, lùi dần một cách kính cẩn rồi biến mất.
Người đàn bà mặc áo hồng nhảy lên bục, và bắt đầu múa nhảy. Nàng trình diễn không dẻo bằng cô gái điếm-thần mặc áo vàng, nhưng sau làn voan hồng, những đường cong của nàng tỏ ra chín mùi hơn, và cử chỉ khêu gợi của nàng tỏ ra lõa luyện hơn. Một lần nữa, trái tim Văn Bình lại ngưng đập.
Ngưng đập vì trên bục đá nhẵn thín, người đàn bà choàng áo hồng vừa nhảy vừa thốt ra nhiều tiếng thở dài. Tiếng thở dài của nàng không phải là tiếng thở dài biểu lộ chán chường, hoặc thất vọng. Mà đây là tiếng thở dài độc đáo của phụ nữ muôn thuở trong cơn hoan lạc. Phụ nữ Ấn nổi danh từ đông sang tây về thuật thở dài quyến rũ. Theo truyền thuyết, có 8 loại âm thanh thở dài khác nhau mỗi khi tối lửa tắt đèn. Nhưng theo một cuốn tình thư bất hủ thì có 5 âm thanh thở dài tất cả, mỗi âm thanh giống với tiếng thở dài ái ân của một loài chim ở Ấn độ, đó là những tiếng hân hân, hin hin, ha ha, sân sít và tát tát... Tùy theo mực độ của sự hoan lạc, người đàn bà sẽ thở dài hân hân hay tát tát...
Người đàn bà mặc áo hồng thở ra một loạt âm thanh sân sân, sít sít và tát tát san những tiếng "trời ơi" nửa nũng nụi, nửa van xin... Văn Bình phải nắm chặt bàn tay để khỏi thốt theo tiếng "trời ơi", vì tấm áo choàng hồng vừa được hất lên trong nháy mắt để lộ làn da và nhất là khuôn mặt mà chàng đã có dịp chiêm ngưỡng.
Khuôn mặt của nàng chỉ hé ra một mảng nhỏ xíu song con mắt quan sát thành thạo của Văn Bình đã có thể suy dẫn ra nàng là ai. Lòng chàng hồi hộp lạ thường, chàng muốn kêu lên "trời ơi", vì sự kinh ngạc vừa đến với chàng đã lớn hơn nhiều sự kinh ngạc trong dĩ vãng.
Vì điều chàng không hề ngờ tới, không dám ngờ tới, lại đã xảy ra: người đàn bà múa nhảy trên bục đá trong ngôi đền vắng, và sửa soạn lõa thể để làm tình theo cổ tục tôn giáo lại là nữ tiến sĩ địa chất học, trưởng phái đoàn Anfa, giai nhân lai Trung hoa, Hồng Nương...
Điệp vụ chàng có bổn phận thực hiện ở Bombay đã mở đầu bằng đàn bà đẹp, và tình yêu sôi nổi. Đến khi gặp Sophia và Hồng Nương, chàng đinh ninh màn bí mật đã được vén kéo. Té ra, phía sau tấm màn này đang còn nhiều tấm màn bí mật khác. Chàng có thể nghi Hồng Nương là đầu mối cho những chuyện kinh thiên động địa, song chưa bao giờ chàng dám nghi nàng đến cao nguyên Đề-căn để múa khoát y ban đêm trong một ngôi đền hoang phế...
Trên bục đá, ánh hồng lạp mỗi lúc một sáng. Hồng Nương đã mở rộng cái áo choàng hồng. Nàng rú lên một tiếng dài rồi giựt đứt hết những dây móc mỏng mảnh còn đính cái áo choàng hồng vào vai nàng, xé toạc ra, ném vứt tứ tung trên đất. Nữ tiến sĩ địa chất Hồng Nương đã khỏa thân hoàn toàn.
Và nàng nghỉ múa, mắt hướng về góc trái của chính điện. Luồng nhỡn tuyến của nàng bắn ra những tia thèm muốn hừng hực, điều này chứng tỏ nàng đang chờ đợi.
Dĩ nhiên nàng chỉ có thể chờ đợi đàn ông. Khi ấy lòng Văn Bình cũng hừng hực sôi như lửa đốt. Chàng muốn nhảy khỏi bụi rậm để kéo vòng tay mời mọc của Hồng Nương vào ngực chàng. Song chàng cố dằn lòng, hai mắt nhắm lại để khỏi mục kích quang cảnh khích động, miệng thở ra nhè nhẹ để xua đuổi những phân tử thán khí còn đọng trong buồng phổi làm thần trí chàng bị u ám.
Cũng may Văn Bình phải chịu cực hình không lâu. Người đàn ông mà Hồng Nương chờ đợi đã tới. Thật ra, hắn đã có mặt trong chính điện từ lâu, có thể hắn đến một lượt với nàng, nhưng đã núp lùi trong bóng tối, và chỉ xuất hiện sau khi điệu vũ tế thần đã kích thích nàng cực độ.
Trước đó 5 phút Văn Bình đã vô cùng sửng sốt vì cô gái mặc áo choàng hồng múa lõa thể là Hồng Nương. Nhưng giờ đây chàng còn sửng sốt hơn nữa.
Sửng sốt đến nỗi cuống họng chàng khô cứng, tay chân chàng trở thành bất động như bị tê liệt. Ông tổng giám đốc Hoàng là nhà lãnh tụ không hề biết sửng sốt song nếu ông ở vào hoàn cảnh như chàng thì cũng phải sửng sốt. Sửng sốt vì gã đàn ông được Hồng Nương chờ đợi trong cơn khao khát xác thịt cuồng loạn lại là Hồng Lang.
Phải, hoàng tử của "lòng em" đối với Hồng Nương lại là anh em ruột của nàng...
Tình thư Ấn độ gồm 64 phương pháp lôi cuốn phụ nữ, chỉ nhìn lối bước, cách giang tay và nghệ thuật bộc lộ ái tình bằng nét mặt của Hồng Lang. Văn Bình đã biết hắn am tường trọn bộ tình thư. Trong giới giang hồ, Văn Bình được tôn làm đàn anh, và sự suy tôn này không lấy gì làm quá đáng, tuy vậy, đứng trước Hồng Lang chàng phải thành thật nhìn nhận chỉ đáng làm em hắn. Làm em út của Hồng Lang về phương diện ái tình.
Ngay trong phút "ra quân" hắn đã áp dụng những phương pháp ôm hôn bay bướm nhất của kinh điển Kama Sutra. Kinh điển này có 4 phương pháp ôm hôn như dây leo quấn thân cây, ôm hôn như trèo cây cao, ôm hôn như hột mè dính vào hột cơm, và ôm hôn như nước trộn với sữa, thì Hồng Lang đã mang ra biểu diễn cả 4. Hồng Nương hoàn toàn tuân theo ý muốn của gã đàn ông lão luyện, nàng biến thành viên bột dẻo ngoan ngoãn trong bàn tay nhào nặn điêu luyện. Và biểu diễn xong phương pháp ôm hôn, Hồng Lang còn làm Văn Bình ngơ ngẩn và 4 phương pháp cọ sát khác của kinh điển Kama Sutra nữa, đó là hôn đùi non, hôn đan điền, hôn ngực và hôn trán. Giai nhân Hồng Nương nằm gọn trên hai cánh tay lực lưỡng của gã đàn ông, và như người rước lễ hắn từ từ bước xuống bục đá, từ từ biến vào bóng tối phía sau chính điện.
Hắn bế nàng vào phía sau ngôi đền để làm gì, Văn Bình đã biết mặc dầu bóng tối không cho phép chàng nhìn thấy. Vả lại, thanh niên khờ khạo chưa nếm mùi đời cũng đã biết huống hồ lọc lõi như chàng. Lẽ ra hành động của Hồng Lang phải làm Văn Bình gia tăng thèm muốn xác thịt, nếu chàng không thể xuất đầu lộ diện để tranh giành người đẹp thì ít ra chàng cũng phải ghen tuông ngấm ngầm trong lòng.
Nhưng không hiểu tại sao khi ấy ngọn lửa ghen tuông vừa nhóm lên lại đã tắt phụt. Từ thái độ sửng sốt, Văn Bình đổi sang phẫn nộ. Họ là anh em ruột mà yêu đương nhau như vợ chồng - có lẽ còn mặn nồng hơn cả vợ chồng trẻ hưởng tuần trăng mật nữa - nghĩa là họ đã ngang nhiên phạm tội loạn luân. Văn Bình đã quen với nếp sống đạo lý lỏng lẻo, song le trong thâm tâm chàng vẫn còn sót lại bản sắc á-đông thuần túy. Chàng sẵn sàng chấp nhận mọi sự lỏng lẻo, như sự lỏng lẻo gia đình ở các quốc gia Bắc Âu, con gái được tự do thí nghiệm xác thịt với con trai, hoặc sự lỏng lẻo trong sinh hoạt của giới híp-py thế giới chung chạ đồ đạc, chung chạ ái tình, dùng sự hưởng lạc phóng túng và ma túy để phản đối xã hội. Nhưng chàng không thể chấp nhận được sự loạn luân.
Mặt Văn Bình đỏ gay. Trời khuya lành lạnh, sương mù bao phủ ngôi đền và đám lau lách len lỏi vào da thịt chàng, vậy mà Văn Bình lại cảm thấy châu thân nóng ran. Hồng Lang đã bế Hồng Nương đi đâu không biết. Ngôi đền khá rộng, ngọn đèn cầy lại đã cháy đến khúc cuối cùng nên tìm ra nơi hắn lập tổ ấm không phải là dễ...
Văn Bình kiễng chân rồi lại thụp xuống. Giác quan thứ sáu của chàng vừa ghi nhận được một sự hiện diện nguy hiểm. Sự hiện diện này có lẽ đang ở sau lưng chàng.
Chàng vội quay lại.
Đối điện chàng là một miệng cười nham nhở. Và một giọng nói đầy khinh bạc:
- Anh cũng bỏ ngủ để ra đây nhìn trộm người ta làm tình ư?
Trong chớp mắt Văn Bình đã ra đến mấp mè mặt nước. Nước biển Á-rập thường chẳng lấy gì làm sạch, nhưng ở đây lại sạch ngoài sức tưởng tượng, sạch như thể được lọc bằng máy móc tối tân, hơn nữa nó lại trong xanh, trong xanh hơn cả nước hồ tắm pha lẫn thuốc nhuộm nhân tạo.
Tiếng thét thất thanh được phát ra bụi kè ở bên trái, cách Văn Bình vài chục thước. Nạn nhân là một trong hai gã cận vệ của Sophia, chắc hắn đang canh phòng cho Sophia tắm chung với Hồng Lang thì gặp nạn. Văn Bình quỳ xuống bên hắn, dưới ánh trăng loang loáng chàng nhận thấy gương mặt nhợt nhạt vì mất máu, và mũi tên cắm ngập non nửa trên ngực, máu tuôn xối xả làm áo sơ-mi trắng của hắn ướt sũng và đỏ lòm.
Nếu mũi tên được bắn thấp hơn một đốt ngón tay, nạn nhân đã bị tiện đứt cuống tim và tắt thở ngay sau khi té ngã. Tuy vậy Văn Bình đã bỏ ngay ý định vận dụng kuatsu để hồi sinh nạn nhân. Vì thuật kuatsu hoàn toàn bất lực trong những trường hợp mất máu. Nạn nhân chỉ có hy vọng mỏng manh được cứu sống nếu có phương tiện hỏa tốc chở đến bệnh viện để tiếp máu. Nhưng sau một phút quan sát vết thương và da mặt gã cận vệ đang chuyển từ xanh mét sang xám ngoẹt, Văn Bình biết rõ là có phương tiện hỏa tốc thì nạn nhân cũng chết.
Nạn nhân phải chết gì mũi tên được tẩm thuốc độc.
Khi Văn Bình rờ tay vào mũi tên thì gã cận vệ còn tỉnh. Dường như hắn khỏe dội ra. Song Văn Bình không tỏ vẻ lạc quan, theo kinh nghiệm, nạn nhân khỏe dội ra vì những vi phân cuối cùng của sự sống trong thân thể hắn đang rồn rập kéo về tim trước giây phút vĩnh biệt cõi thế.
Mắt hắn mở thao láo nhìn chàng. Miệng hắn cũng mở rộng hoác nhưng hắn không thể nói thành lời.
Rồi hắn ngoẹo đầu, thở hắt ra.
Chết...
Văn Bình buột miệng tiếng "chết" ngắn ngủi rồi đứng dậy. Chàng bắt gặp nhiều luồng nhỡn tuyến quen thuộc đồng hướng về phía chàng. Hồng Lang và Sophia đã mặc áo choàng dầy cộm, tóc họ, mặt họ còn ướt nhèm, chứng tỏ họ vừa từ dưới biển tất cả chạy lên, vờ áo khoác vội vào người. Hồng Nương cũng có mặt trong đám đông, dung mạo đẹp tuyệt vời của nàng bỗng ủ dột khác thường. Nàng cúi gằm, có lẽ nàng còn xấu hổ với Văn Bình.
Mọi người đều nín thinh, lát sau Hồng Lang mới cất tiếng:
- Ơ kìa, tại sao chỉ có...
Câu nói của Hồng Lang bị cắt quãng vì một tiếng thét khác, từ bên phải vẳng tới. Hồng Lang muốn nhắc đến hai tên cận vệ luôn luôn kè kè bên nhau như vợ chồng. Tiếng thét trong đêm vắng đã trả lời cho sự băn khoăn của Hồng Lang.
Không phải một vụ hạ sát. Mà là hai, ít nhất là hai. Và cũng như bạn hắn, tên cận vệ đáng thương này đã bị hạ sát bằng tên tẩm thuốc độc.
Văn Bình không cần xem xét vết thương của nạn nhân. Vì chàng đoán trước hắn phải chết. Chàng cũng không chạy thật nhanh lại tận nơi nạn nhân nằm sóng soài. Sau khi nghe tiếng kêu, chàng định thần một giây, phóng tầm mắt soi mói qua các bụi kè tranh tối sáng trên bãi cát trắng hếu rộng bát ngát.
Sự cẩn trọng của Văn Bình đã trở nên vô ích. Chàng không khám phá được gì hết. Chắc chắn hung thủ núp trong bụi kè thấp lùn để bắn tên độc, nhưng chàng lại chẳng nhìn thấy ai. Trừ phi hung thủ là nhà thiện xạ đại tài, từ trong nhà bắn qua sân xuống bãi. Nghĩa là bắn qua khoảng rộng gần hai trăm mét.
Văn Bình khét tiếng về tài cũng thủ, song ít khi chàng dám chọn những mục phiêu xa hai trăm mét. Dầu là mũi tên sắt, đeo thêm chì ở đuôi cho nặng thêm, nó vẫn bị chiều gió chi phối, phương chi gió biển đang thổi vù vù.
Chàng thầm phục hung thủ. Về phương diện tác xạ, hung thủ không thu kém chàng bao nhiêu. Riêng về nghệ thuật bắn nương theo gió hung thủ có thể đua tranh ngang ngửa nơi chàng.
Vành tai chàng nóng ran. Chàng không quan tâm đến xác chết đang nằm nhe răng một cách kinh tởm, chàng cũng không quan tâm đến đám đông đang bàn tán xôn xao. Khi ấy chàng chỉ quan tâm đến biệt tài bách bộ xuyên tâm của kẻ lạ. Tự ái của chàng bị va chạm mạnh, chàng có cảm giác như cuống họng bị chặn nghẹt làm chàng hít thở hết sức khó khăn.
Hồng Lang rút mũi tên ra khỏi ngực trái của nạn nhân. Cũng bắn vào ngực trái, bên trên cuống tim một đốt ngón tay. Như vây, tức là hung thủ không bắn trật. Hung thủ cố tình bắn trúng túi áo trên của nạn nhân. Đặc biệt là trúng giữa Anfa thêu bằng chỉ vàng trên nền sơ-mi trắng toát...
Văn Bình vội kêu:
- Cẩn thận, tên tẩm thuốc độc...
Hoảng hốt Hồng Lang ném mũi tên xuống bãi cát.
Văn Bình cúi xuống, rón rén lượm lên, đặt ngang trên lòng bàn tay ngắm nghía. Mũi tên này được chế bằng nhom riêng ở Hoa kỳ, tên là A-40H. Loại tên nhom bắn thú vật không lấy gì làm đắt, công ty sản xuất Shakespeare chuyên về cung ná chỉ bán 40 đô-la một tá. Loại tên A-40H hơi nhẹ, thường được dùng cho những cây cung bằng chất nhựa mềm cân nặng từ 20 đến 30 kilô nên nó khó thể bắng trúng đích từ xa, và ở những nơi lộ thiên có nhiều gió như bãi biển.
Nhân viên an ninh của đại tá Bani đã mang băng-ca đến. Xác chết được đặt tòng teng trên cáng vải và khiêng lên sân biệt thự. Mặt hơi tái, Sophia lặng lẽ theo Hồng Lang về phòng. Những giây đèn nê-ông lớn dọc bờ biển và mặt hậu của biệt thự được bật sáng choang, thiết tưởng đánh rơi cây kim gút cũng tìm thấy dễ dàng. Hung thủ phải biết phép tàng hình độn thổ của thời đại Phong Thần mới thoát khỏi màng lướn canh phòng và hàng rào ánh sáng.
Vậy mà hung thủ vẫn trốn thoát...
Trốn thoát như thể biết phép tàng hình độn thổ của thời đại Phong Thần...
Khi về đến cửa phòng Văn Bình gặp lại Hồng Nương. Nàng bước rảo qua mặt chàng, dáng điệu bối rối và hấp tấp. Chàng không muốn chặn nàng lại mặc dầu lòng chàng chưa hết rạo rực. Chàng ngồi yên trong ghế, hút Salem liên miên.
Mãi đến hai giờ sau đại tá Bani mới lò dò tới. Thuộc viên của hắn đã gọi điện thoại về trụ sở đoàn Quạ Đen báo cáo đầy đủ chi tiết, ngay sau khi án mạng xảy ra, song đại tá Bani đã biến dạng khỏi văn phòng. Chắc Bani bị mắc kẹt trong một ổ nhện nào đó; bằng chứng là khi hắn xuống xe tất tưởi xô cửa phòng khách của biệt thự, miệng hắn, quần áo hắn còn nồng nặc hơi men. Không phải hơi men dụi dàng mà là hơi men rượu bờ-han, nửa ly đủ đánh gục con bò mộng.
- Đại tá Bani chẳng giải quyết được gì vì hai tên cận vệ xấu số của Sophia, ngoan ngoãn theo nàng từ Mỹ tới, đã được chở vào nhà xác: toán an ninh trong biệt thự đã lục soát từng tấc đất trên bãi biển, và từng góc nhỏ trong nhà mà không khám phá ra dấu vết cỏn con nào; mặc khác, nữ tỉ phú Sophia đã lên giường ngủ một cách phớt tỉnh. Chỉ còn lại Hồng Lang, nhưng hắn không thốt nửa lời, hắn ngồi thu gọn trong góc xa-lông, bầu bạn với chai rượu mới khui. Rượu là món quốc cấm ở Bombay, Bani lại là bợm nhậu có môn bài quốc tế nên rốt cuộc Bani xà lại, rồi cả hai thi đua uống huýt-ky.
Dĩ nhiên Văn Bình không thể đứng ngoài vòng chiến, đóng vai bàng quan vô trách nhiệm. Phương chi Hồng Lang đã ân cần mời mọc. Và để chứng tỏ hắn không phải là tay mơ trong nghề... Lưu linh, hắn đã mở tủ lấy thêm mấy chai rượu mạnh nhập cảng.
Ba người chén tạc chén thù với nhau cho đến gần sáng. Những vụ án mạng tàn bạo, những kẻ thù rình rập từng giờ từng phút, những công việc hệ trọng đang chờ tại cao nguyên Đề-căn mà kết quả có thể ảnh hưởng lớn đến thị trường quý kim trên thế giới... tất cả đã được bỏ quên...
Văn Bình không còn nhớ đã uống bao nhiêu ly huýt-ky nữa. Đại tá Bani ngã vật xuống nền nhà khi Hồng Lang bắt đầu khui chai thứ hai. Hắn nằm dài trên tấm thảm Ba tư bằng len đắt tiền sặc sỡ và ngáy o o.
Trong khi ấy Hồng Lang vẫn tỉnh.
Sức chịu đựng bền bỉ của Hồng Lang làm Văn Bình vô cùng sửng sốt.
Chàng đinh ninh bộ vó đẹp trai pha vẻ đàng điếm của hắn sẽ bắt hắn đầu hàng vô điều kiện. Chàng không ngờ càng uống hắn càng khỏe ra. Mặt hắn mỗi lúc một tái thêm, và đêm càng khuya hắn càng uống dữ. Văn Bình không bao giờ say, những khi chếnh choáng say là do sức lực chàng bị suy yếu bất ngờ, vậy mà gân cốt chàng cũng bắt đầu run. Cũng may Hồng Lang đã hết rượu, nếu trong tủ đang còn một chai, chỉ một chai nhỏ thôi, là Văn Bình đã theo đại tá Bani đo ván hoặc ít ra cũng đứng ngồi không vững.
Hồng Lang cười rú như bị ai thọc lét rồi lấy tay gạt đống vỏ chai và ly pha lê đổ vỡ loảng xoảng. Dường như hắn có thói quen đập bể mỗi lần uống rượu, chứ không phải vì hơi men đã làm hắn mất trí khôn. Hắn thản nhiên ngắm hàng chục, hàng trăm mảnh thủy tinh lớn nhỏ đủ cỡ, và xanh đỏ đủ màu vung vãi khắp phòng, rồi thản nhiên nằm quay lơ trên đi-văng. Phút chốc giấc ngủ đã xâm chiếm cơ thể Hồng Lang.
Văn Bình phải vục đầu vào thau đầy nước lạnh một hồi lâu mới hết mỏi mệt. Tòa nhà rộng mênh mông tinh không một tiếng động, ngoại trừ tiếng gió và tiếng sóng ngoài biển tạt vào. Chàng kéo ghế xa-lông lại gần Hồng Lang và bắt chước hắn kéo luôn một giấc.
Chàng tiếp tục ngủ mê mệt, tiếp tục say đứ đừ cho đến khi đoàn hộ tống Quạ Đen đưa chàng cùng phái đoàn Anfa ra phi trường, bay đến một địa điểm kín đáo được mệnh danh bằng mật ngữ trên bản đồ là A-5, A tức là Anfa, trong vùng cao nguyên Đề-căn, nơi đã xảy ra những vụ ám sát và biệt tích kỳ lạ.
* *
*
24 giờ đồng hồ sau.
Khác với 24 giờ đồng hồ đầu tiên của điệp viên Văn Bình trên đất Bombay chứa đầy tai nạn hiểm nghèo, tính mạng luôn luôn bị đe dọa, với những xác chết còn nóng hổi mà thủ phạm lại biến mất như có siêu pháp thuật, 24 giờ đồng hồ sau đã trôi qua trong bầu không khí tương đối phẳng lặng.
Ngoại trừ một vài biến chuyển bất thần khiến Văn Bình phải tỉnh táo, kỳ dư chuyến bay từ trung tâm Bombay đến vùng cao nguyên hoang liêu chẳng có gì đáng nói.
Theo chương trình định trước, đoàn xe Rolls Royce dài ngoằng và cao lênh khênh đến rước phái đoàn Anfa đúng 7 giờ sáng. Nhưng đến 7 giờ rưỡi, đại tá Bani, chỉ huy cơ quan Quạ Đen, còn ngủ li bì, một thuộc viên liều mạng bước vào phòng đánh thức, hắn mới chịu mở mắt. Và Bani xúc miệng bằng một ly bờ-han đầy ắp trước khi vươn vai, đeo lại dây lưng da lủng lẳng khẩu súng lục Luger bì đạn còn 4 viên đã tuột ra ngoài. May phước đêm trước đại tá Bani không dùng súng, vì trong nòng không còn viên đạn nào cả.
Đoàn xe Rolls bóng loáng có thể soi giương để nhổ râu đậu thành hàng dài ngoài sân, xe nào cũng có tài xế mặc đồng phục mới giặt ủi thẳng nếp, và có nhân viên an ninh võ trang súng tự động, xe riêng giành cho nữ tỉ phú Sophia có riềm che kín mít, hai bên lại có mô-tô hộ tống.
Sự thức giấc trong biệt thự phù hợp với đẳng cấp xã hội, Sophia là bà chủ lớn nhất nên dậy muộn nhất, nữ tỳ đánh thức nhiều lần nàng mới ra khỏi phòng ngủ. Hồng Nương dậy cùng một lúc với các khoa học gia của phái đoàn Anfa. Tuy uống thật nhiều rượu mạnh, Hồng Lang lại dậy thật sớm.
Văn Bình còn hơi nhức đầu, Hồng Lang lại tỉnh như sáo sậu. Hắn tỉnh đến nỗi Văn Bình có cảm tưởng hắn không hề uống giọt rượu nào đêm qua, và đêm qua hắn đã lên giường ngủ rất sớm. Chàng lắc đầu le lưỡi khi nhớ lại Hồng Lang đã vật ngã một đống chai huýt-hy, và chỉ được chợp mắt vào lúc gà gáy sáng te te. Điều này chứng tỏ Hồng Lang có một nội lực thâm hậu, hắn không yếu mềm như chàng lầm tưởng.
Gần 9 giờ sáng, mọi người trong biệt thự mới dậy đủ. Phải hơn giờ rưỡi đồng hồ nữa, vị chi đến non 11 giờ trưa, phái đoàn mới khệnh khà khệnh khạng ra xe, và tài xế khệnh khà khệnh khạng lái lên phi trường. Lộ trình đã được nghiên cứu đàng hoàng, đại tá Bani ra lệnh cho đoàn xe né tránh những trục giao thông đông đúc hầu tài xế có thể phóng hết tốc lực, nhưng... mưu sự tại nhân, thành sự tại... phong tục, công voa xe Rolls tượng trưng cho tiến bộ sang trọng của thế kỷ 20 đã đầu hàng vô điều kiện trước công voa... bò, tiêu biểu cho phong tục tập quán địa phương.
Những nàng bò cái nghênh ngang du hành trên đường nhựa, bất chấp luật giao thông. Tài xế không dám bóp kèn, phải chạy rì rì như người rước rượu, đến khi các nữ thần bò rẽ vào một con đường tắt mới dám tiếp tục ấn ga xăng. Và trên đường ra sân bay có phải bò thần chỉ xuất hiện mỗi một lần thôi đâu?
Ba, bốn lần là ít.
Và lần nào cũng làm đoàn xe kẹt lại 10, 15 phút đồng hồ.
Bò thần mới là một trong những nguyên nhân cản trở đoàn công-voa. Dọc đường Văn Bình còn thấy nhiều đám đông dân chúng gồm đủ hạng người, già trẻ lớn bé, đàn bà, đàn ông, tụ tập đen ngòm. Lệ thường, đám đông ở trên lề, nhưng ở nhiều nơi thường không có lề, hoặc nếu có lề hẳn hòi thì dân chúng lại tràn ra giữa lộ một cách phớt đời, khiến tài xế lại phải đạp thắng, và ấn kèn đinh tai điếc óc.
Xe hơi phải chạy qua xóm yên hoa trước khi ra thấu phi trường. Xóm yên hoa có khác, quang cảnh nhà cửa nhợt nhạt như khuôn mặt đàn bà bự phấn thức trắng đêm, làm Văn Bình lờm lợm ở cuống họng. Sau cùng, tài xế phải trổ tài đến toát bồ hôi, suýt gây ra tai nạn, vì đám đông gần phi trường tụm đen tụm đỏ chung quanh một sam-oan-la, bóp kèn mấy cũng không chịu tản mác.
Sam-oan-la, cũng như gái điếm thần linh, là một trong những đặc trưng độc nhất vô nhị của Ấn độ. Tiếng Ấn sam-oan-la là nhà phù thủy có biệt tài điều khiển rắn độc bằng ống tiêu. Giới thổi sáo thôi miên mãng xà này hành nghề đông nhung nhúc ở Bombay, ngoài cửa lữ quán nào cũng có, phần nhiều là mua vui cho ngoại nhân đến Ấn để thưởng thức của lạ.
Trong chuyến đầu tiên ghé thăm Ấn độ, Văn Bình phục lăn các sam-oan-la. Theo tiếng sáo trầm bổng, con rắn độc nhe răng, lè lưỡi đỏ hỏn, thở phì phì, chồm dậy, uốn khúc làm rợn xương sống. Văn Bình đinh ninh tiếng sáo có bí quyết mê hoặc loài rắn. Thời gian trôi qua, trong những chuyến viếng thăm sau này, chàng mới biết đó là bịp bợm. Vì loài rắn điếc tai, không nghe được tiếng sáo. Chẳng qua con rắn cử động theo những cử động của ống tiêu. Hầu hết rắn độc đều được nhổ răng nhọn và lấy bỏ nọc độc. Tuy vậy, giới sam-oan-la vẫn tiếp tục làm trò phù thủy láo khoét để đánh lừa du khách và dân chúng địa phương chất phác.
Gã sam-oan-la ở gần trường bay đứng giữa bầy rắn đủ màu, đủ cỡ, khi thấy đoàn xe sang trọng vọt qua và Văn Bình hạ cửa kiếng để nghe rõ tiếng tiêu, gã đột ngột gỡ kéo những con rắn đang bám trên vai ném xuống đất, đồng thời quay trở đầu ống sáo về phía chàng.
Xe hơi vào đến phi trường Văn Bình mới khám phá ra là chàng vừa hút chết.
Và hung thủ là gã sam-oan-la râu ria sồm soàm đầu quấn khăn trắng bẩn thỉu, mặc sa-rông lôi thôi lếch thếch, da dẻ sù sì, mốc meo và đen đủi như đồng hun.
Thừa cơ Văn Bình lò đầu ra, gã sam-oan-la đã thổi tên độc với mục đích ám hại chàng. Mũi tên bằng nhom nhỏ xíu cắm ngập đến chuôi vào cái loa âm thanh nổi bằng chất lát-tích cứng ở sau lưng Văn Bình. Đối với lát-tích cứng như sắt, nó còn xuyên thấu, không hiểu nó sẽ đâm sâu đến đâu nếu nó bắn trúng thân thể của chàng.
Chàng lầm lì xuống xe, không thốt nửa lời. Đối phương quả có nhiều sáng kiến và tài nghệ. Họ đã bố trí đám đông dầy đặc để chặn đoàn xe ngừng lại, và dùng tên độc giết chàng. Hai cận vệ của Sophia bị hạ sát bằng tên độc. Loại tên Shakespeare bằng nhom đặc biệt. Mũi tên suýt bắn thủng ngực chàng cũng là tên Shakespeare...
Chàng không rút mũi tên ra khỏi đệm xe và cũng không báo tin cho mọi người. Đại tá Bani ngồi bên không hay biết gì hết. Chàng thản nhiên trèo lên phi cơ.
Chuyến bay hoàn toàn tốt đẹp, viên phi công có khuôn mặt hãm tài và xấu kinh khủng, quỷ dạ xoa cũng khó thể tỏ cảm tình, thoạt đầu Văn Bình lo ngay ngay, nhưng phi cơ đã dứt khỏi sân bê-tông thật nhẹ nhàng, nhẹ nhàng như thể chiếc vận tải cơ to lớn nặng nề này chỉ là trực thăng bé nhỏ. Dọc đường phi công tiếp tục lái êm ru, hắn đáp xuống địa điểm A-5 cũng êm ru một cách khác thường.
Địa điểm A-5 là một phi trường hạng trung bình, dường như trước kia là phi trường quân sự, sau bị bỏ phế, một phần bãi đáp đã lún và được trải vỉ thép mắt cáo, và nếu không thấy ngôi nhà trơ trọi làm đài kiểm soát và đám ngươi chạy lăng xăng bên dưới Văn Bình có thể lầm tưởng là phi công đã hạ cánh xuống một xó xỉnh tiền sử hoang liêu.
Trời nắng rát mặt, mọi người hối hả lên xe, rời địa điểm A-5, chạy qua những sườn đồi thoai thoải lượn ngoằn ngoèo như rắn bò đến nơi cắm trại.
Lục địa Ấn là một trong những khu vực có hệ thống công lộ nghèo nàn nhất thế giới, cao nguyên Đề-căn lại đứng cuối sổ của Ấn nên tài xế và xe hơi phải thuộc loại thượng thặng mới khỏi gây tai nạn. Vì tai nạn có thể xẩy ra bất cứ ở đâu, và bất cứ lúc nào. Khi đoàn công-voa bắt đầu leo lên đồi là thần Chết đã thủ sẵn lưỡi hái chờ đón. Con đường đang rộng tênh hênh bỗng thót nhỏ lại, xe díp phải luồn thật khéo mới không lọt xuống vực sâu, hoặc một tượng đá khổng lồ chắn ngang như bức thành, một giãy ổ gà sâu như hồ tắm. Hoặc con đường đột ngột bị cắt đôi, bởi những giòng suối chảy xiết. Trời nắng chang chang, vậy mà người ngồi trong xe lại không nhìn thấy cảnh vật, bụi đường phủ kín khiếng chắn gió, người ta đổ nước và mở quạt nước sành sạch lớp bụi hỗn xược này vẫn không chịu rút lui, khiến tài xế chỉ dám gài số 1, ì à ì ạch.
Chỉ thấy toàn đồi là đồi, tưởng như vùng cao nguyên không còn gì nữa ngoài những giãy đồi trùng trùng điệp điệp. Mãi đến chạng vạng tối Văn Bình mới thấy cây cối xanh um, đó là một khu rừng già trải rộng đến tận chân trời, và tiếp giáp khu rừng già là rặng núi hùng vĩ cao ngất, nơi phái đoàn Anfa đóng trại lần trước, và cũng là nơi xảy ra một loạt vụ án mạng và mất tích kỳ lạ.
Công-voa đậu lại, ai nấy đều mệt nhoài. Dĩ nhiên Văn Bình vẫn khỏe như không mặc dầu phải ngồi bó gối suốt 6 tiếng đồng hồ dài giằng dặc trên xe díp nhảy tâng tâng trên những ổ gà sâu hoắm. Sophia cũng thơ thới như chàng sau cuộc hành trình kéo dài. Lý do sự thơ thới này rất giản dị, xe díp của nàng được gắn ống nhún đầu kiểu DS-21, thân xe lại được đóng kín và không khí bên trong được điều hòa, khiến nàng không phải thở hơi nóng và hít bụi cát đỏ, và nhất là không khát cháy cuống họng dưới ánh mặt trời xiên khoai. Nàng ngồi xe díp mà êm như ngồi xa-lông, xe díp còn có cả tủ lạnh đựng đủ thứ nước uống. Cùng đi xe với nàng trên xe díp đặc biệt có Hồng Lang, và dĩ nhiên là Hồng Nương. Trong khi đó, nhân viên phái đoàn Anfa đều phải ngồi xe díp mui vải, chất đông như cá mòi đóng hộp.
Xe hơi chở đại tá Bani và Văn Bình có phần thoải mái hơn, nhưng nó cũng chỉ thoải mái ở chổ Bani mang theo mấy chai rượu bờ-han và huýt-ky, và một giỏ đồ nhậu. Dọc đường, Bani uống tì tì, và ăn tì tì, thoạt đầu hắn đon đả mời chàng, song chàng lắc đầu, hắn bèn đánh chén một mình. Đoàn xe dừng lại thì bụng hắn đã phưỡn ra, hắn khệnh khạng vịn sườn xe trèo xuống đất. Hắn không dám co chân nhảy như Văn Bình, và như mọi người đàn ông khác trong công-voa, có lẽ vì sợ nứt vỡ bao tử.
Trước mặt mọi người mở rộng một cái hang ong ánh thạch nhũ. Đồ đoàn, dụng cụ được dỡ xuống và khiêng vào trong động. Trong chốc lát, máy phát điện chạy rì rầm, thạch động tối om vụt sáng chưng, đèn điện được lắp treo khắp nơi. Sau đó, bữa cơm tối thịnh soạn được dọn ra, thức ăn đều bằng đồ hộp và đồ đông lạnh. Nhân viên Quạ Đen thuộc quyền đại tá Bani chia nhau thành nhiều toán canh gác bên ngoài thạch động. Cách hang đá trăm mét là một bốt gác khác. Đại tá Bani chạy lăng xăng từ toán gác này đến toán gác khác, xong xuôi hắn trở vào thạch động, và công việc đầu tiên của hắn là lục ba-lô lấy thêm chai rượu bờ-han và... cái đùi cừu béo ngậy vàng rộm.
Sự phân biệt nếp sống đã hiện ra rõ rệt giữa nữ tỉ phú Sophia và phái đoàn. Hang đá khá lớn được chia thành nhiều khu, có những vách thạch nhũ thiên nhiên ngăn cách nên nam nữ khỏi phải sống chung chạ, tiện nghi tương đối đầy đủ, mọi người chỉ thiếu máy lạnh hoặc điện thoại, chứ không thiếu giường nệm êm lưng và món ăn thức uống thịnh soạn. Khu giành riêng cho Sophia được treo một tấm bạt dầy, bên trong có phòng tắm, phòng ngủ đàng hoàng, thậm chí có cả quạt máy chạy vù vù suốt ngày đêm, và có cả đèn đêm nê-ông mát dịu đặt trên đầu giường nữa.
Văn Bình tiếp tục lắc đầu quầy quậy trước chai rượu bờ-han và dùi cừu nướng thơm phức của đại tá Bani. Bụng chàng đã chứa quá nhiều thực phẩm chàng có linh cảm là nhiều biến cố toát bồ hôi lạnh sắp xảy ra trong đêm, nên chàng cần bao tử được nhẹ nhõm để có thể đối phó hữu hiệu.
Chàng đứng dậy, bước ra cửa hang. Không khí trong thạch động rất thoải mái, song chàng vẫn thích thở hút không khí rừng núi, nhất là không khí rừng núi ban đêm.
Và chàng gặp Bill.
Hồi ở Bombay. Hồng Nương đã giới thiệu Bill với chàng. Nhưng chỉ giới thiệu xuông, chứ chàng chưa hề gặp hắn. Chàng định giáp mặt hắn song trên chuyến bay từ Bombay đi cao nguyên hắn ngồi ở hàng ghế phía trước gần phòng phi hành, chàng ngồi nơi đuôi với đại tá Bani, trong công-voa xe hơi hắn lại ngồi chung với nhân viên địa chất, thành thử ra chàng chỉ thoáng thấy hắn một vài lần.
Chàng bỗng có ý nghĩ là Bill cố tình tránh mặt. Vạn bất đắc dĩ, chạm trán chàng ngay ngoài cửa hang đá hắn mới chịu lên tiếng.
Hắn nhanh nhẩu chào:
- Hân hạnh được quen đại tá.
Văn Bình bắt tay hắn:
- Tôi là Văn Bình, chúng mình nên xưng hô với nhau một cách thân mật, tốt hơn. Cô Hồng Nương đã nói nhiều về anh, mãi đến lúc này tôi mới được cơ hội trò chuyện với anh.
Quang cảnh rừng đêm đen thui, nếu không có ánh đèn từ trong hang chiếu ra thì đứng sát Bill chàng cũng không hy vọng nhìn được rõ mặt hắn. Chàng đã biết tâm địa hắn mặc dầu mới quen và mới trao đổi một câu chào hỏi xã giao vô thưởng vô phạt.
Chi tiết tướng mạo đập vào mắt chàng ngay sau khi chàng bắt tay hắn là đôi tai nhỏ teo, không những nhỏ teo lại còn méo sệch, rái tai nhọn hoắt như ngòi bút nguyên tử. Đó là tai chuột. Loại người có tai thử-nhĩ này khó thể là chính nhân quân tử.
Ngược lại, mặt mũi hắn lại rất đều đặn, mắt hơi nhỏ nhưng sáng choang, mũi thẳng và đầy đặn nhân trung cao, nghĩa là hắn có diện mạo của người chính nhân quân tử. Sự tương phản kỳ quặc này chẳng lợi gì cho hắn, vì theo khoa tướng mạo á-đông hắn sẽ khó thoát khỏi chết yểu.
Tội nghiệp, Bill cao, to, hơn chàng nửa cái đầu, về sức nặng chàng phải thua kém hắn từ 15 đến 20 kí, bộ vó khôi ngô, bắp thịt nở nang, đàn bà đẹp không thể không rung động, con trai tràn trề nhựa sống như hắn mà chết non thì không thương sót sao được! Tuy vậy, sau khi bắt tay Bill, chàng đâm ra băn khoăn. Bàn tay hắn dầy mà cứng, như thể được đúc trong khối bê-tông, chứng tỏ hắn là con nhà võ, không phải con nhà võ thông thường, mà là bậc huynh trưởng trong ngành ngạnh công, một trong những môn luyện công khó nhất của nền võ thuật Trung quốc.
Với bàn tay tường đồng vách sắt này, Bill khó thể là cái mồi ngon trong những cuộc tỉ thí quyền cước. Và hắn khó thể đoản mệnh. Chàng toan nói thì hắn đã chặn trước:
- Chà, anh có bàn tay cứng ghê!
Chàng vội đáp:
- Bàn tay anh cũng vậy, tôi đã quen nhiều người song ít thấy ai có bàn tay như anh.
Hắn cười nửa miệng:
- Tôi đã sống hơn 10 năm ở miệt Hoa-Bắc và 4 năm ở Đông-kinh, phần lớn thời giờ đều giành cho việc trau giồi võ thuật. Tôi đã thụ giáo nhiều bậc võ sư, tôi lại đã thượng đài với nhiều võ sĩ có tài. Nghĩa là không giấu diếm anh, tôi là võ sĩ từng lập thành tích hẳn hoi. Nhưng đêm nay, bắt tay anh, tôi nhận thấy tôi chỉ đáng là em út của anh.
- Anh quá khiêm tốn.
- Không, tôi không phải là con người khiêm tốn. Từ nhỏ đến lớn tôi chỉ có hai thái độ minh bạch: hống hách, kiêu căng quá độ với kẻ kém vai vế, và khiêm nhường, luồn lụy với những người tôi coi là đàn anh. Nếu anh là võ sĩ tầm thường tôi đã không nói năng nhỏ nhẹ như thế này, thoạt gặp anh tôi đã giả vờ bắt tay anh và vặn trẹo xương, đôi khi còn bồi thêm một phát atêmi lọi sườn. Thú thật với anh, hồi nãy tôi đon đả bắt tay anh là để trổ tài nội công, song chỉ một giây đồng hồ sau là nhuệ khí ngùn ngụt của tôi đã hoàn toàn tiêu tan. Xin anh tha lỗi cho tôi, lẽ ra tôi đã phải hàng phục anh ngay từ ở Bombay sau khi Hồng Lang bị anh khuất phục dễ dàng.
- Chúng tôi chưa hề giao đấu với nhau.
- Thưa anh, cần gì phải giao đấu mới phân biệt được giữa đàn anh và đàn em, giữa bậc thày và học trò. Hồng Lang là tay giỏi võ, ai cũng gờm, ông ta chỉ thua tôi về môn thiết-thủ, chứ còn về atêmi ông ta hơn tôi cả chục cây số. Ông biết không, tôi có thể bẻ cong thanh sắt, bóp gạch vụn nát ra bột, tôi đinh ninh trên lục địa Ấn chưa có ai đương đầu lại...
Bill im bặt, mắt có vẻ xa xôi như luyến tiếc một cái gì thần tiên đã mất. Văn Bình an ủi:
- Thôi, chúng mình bàn sang chuyện khác thì hơn, nói mãi về võ thuật và giết chóc, chán quá!
Bill thở dài:
- Rồi anh sẽ thấy... Sự giết chóc xảy ra hàng ngày, hàng giờ ở đây. Giá là những cuộc so tài đàng hoàng thì chẳng nói làm gì, giỏi thì thắng kém thì bại, đằng này anh chẳng thấy kẻ thù ở đâu, và tấn công khi nào nữa. Tôi sút 6 kí thịt trong chuyến trước, vì đêm nào cũng phải thức đến sáng, buổi trưa cũng không được phép chợp mắt. Anh nghĩ coi, mới bị khủng hoảng gần một tuần lễ mà đã gầy 6 kí, không hiểu chuyến này tôi sẽ mất thêm bao nhiêu...
- Kẻ thù là ai, anh biết không?
- Không. Nếu biết, tôi đã không phải thấp thỏm súng dài súng ngắn kè kè luôn luôn bên mình. Tôi tức ứa máu, dầu kẻ thù có ba đầu sáu tay, mình đồng da sắt, tôi cũng quyết ăn thua đủ với nó.
- Hỏi anh điều này có vẻ khiêm nhã, song tôi tin là anh sẵn sàng cho phép. Những chuyện xảy ra có làm anh sợ không?
- Sợ lắm chứ. Sợ nhiều đến nỗi trái tim muốn ngừng đập.
- Vậy sao anh vẫn có mặt trong chuyến đi này?
- Vì 2 lý do. Thứ nhất, chuyến đi này tương đối an toàn hơn chuyến trước. Số nhân viên cận vệ đông gấp đôi, có thể tạm đủ để canh phòng suốt ngày đêm ở các vị trí then chốt, ngoài ra còn có dụng cụ canh phòng điện tử. Lý do thứ nhất thật quan trọng, nhưng chưa có tính cách quyết định bằng lý do thứ hai, ví thử tính mạng tiếp tục bị đe dọa ghê gớm như lần trước, tôi cũng tiếp tục tình nguyện. Đó là lý do quyền lợi. Anh tính, thời buổi người khôn của khó này kiếm đâu ra số tiền hơn trăm ngàn đô-la.
- Tiền lương mà phái đoàn Anfa trả cho anh?
- Vâng, tiền lương khoán là một trăm hai chục ngàn, nếu cộng thêm tiền thưởng thì đến trăm rưởi. Làm nghề huấn luyện viên trèo núi như tôi mỗi năm được nhiều lắm là năm ngàn đô-la. Chuyến đi này mang lại cho tôi số tiền mà tôi phải thu vén vất vả trong ba chục năm đăng đẵng mới có. Hoạt động trong vài ba tháng để có tiền tiêu pha trong ba chục năm, tôi không thể không chấp nhận mọi sự hiểm nghèo. Cô Sophia giòng giõi cành vàng lá ngọc còn ham tiền huống hồ nghèo rớt mồng tơi như thằng tôi.
- Ai bảo anh là Sophia đến đây vì hám tiền?
- Vẫn biết Sophia lặn lội từ Mỹ quốc sang cao nguyên khỉ ho cò gáy Đề-căn là để chạy theo tình yêu, nhưng nếu chỉ để chuẩn bị hôn nhân và tuần trăng mật thì trên trái đất thiếu gì địa điểm nên thơ, Sophia không phải là cô gái đôi mươi, thơ ngây và lý tưởng để đến nỗi khờ khạo lao đầu vào sào huyệt của thần Chết? Dĩ nhiên, vấn đề chính là ái tình, nhưng vấn đề sản nghiệp không hẳn là phụ. Gia đình nàng thuộc hàng tỉ phú, song nàng chỉ được chia một phần, cái mỏ vàng mà phái đoàn Anfa đang tìm kiếm là của riêng của nàng, trong trường hợp nàng thành công, nàng sẽ giàu hơn cả những người giàu nhất thế giới như Howard Hughes và Paul Getty nữa.
- Coi chừng... nếu Sophia khám phá ra mỏ vàng, kẻ thủ vô danh sẽ không để cho nàng trở về yên ổn.
- Cám ơn anh đã nghĩ đến điều ấy. Quốc tế Khai khoáng Công ty cũng như ông Sì-mít đã nghĩ vậy nên chẳng quản tốn kém và khó khăn mời anh đến tận nơi, đặc trách an ninh cho Sophia. Vả lại, như tôi đã nói hồi nãy, kẻ địch đụng chạm da thịt nàng cũng chẳng dễ nào. Hang đá chỉ có một lối ra vào duy nhất, cận vệ võ trang súng tự động ngồi gác thường trực, ngoài ra còn có những rô-bô điện tử canh phòng trong đường kính hai trăm mét, loại rô-bô vỏ thép này đạn bắn không thủng, nếu dùng đạn bắn chiến xa, nó chỉ bị lủng một vài lỗ, máy móc của nó không bị hề hấn, thêm vào đó, bên người nàng còn có ông Hồng Lang võ nghệ siêu quần, tài xạ kích lại độc nhất vô nhị, đồng thời con beo vằn đuợc huấn luyện đặc biệt có thể giết người như mèo giết chuột nữa...
- Con beo vằn? Sophia có con beo vằn giữ mình ư? Tôi chưa hề trông thấy nó.
- Vì nó được nhốt trong cái cũi riêng, bề ngoài trông từa tựa cái va-li. Con beo này chỉ nhỏ bằng con chó bẹt-giê 4, 5 tháng, thân nó dài hơn, chân nó thấp hơn, song nó lại dữ vô kể và lợi hại vô kể. Nó thuộc một giống beo xuất xứ từ vùng rừng rậm trung bộ châu Phi nhiệt đới, giống này nhỏ xíu mà sức mạnh lại vượt xa cọp lớn. Nó chỉ cân nặng 5, 6 chục kí là cùng, thế mà nó đánh quỵ như chơi những con thú 2, 3 trăm kí. Nó được một người dạy thú hữu danh huấn luyện từ ngày 4 tháng, mới từ rừng rậm bắt mang về, chương trình huấn luyện gồm cách đánh hơi, cách nhảy vồ yết hầu, và cách giết người bằng ngoạm đứt mạch máu và dây thần kinh ở cổ. Thường lệ, con beo vằn này hiền như cục đất, ai vuốt lung, xoa đầu nó cũng mặc kệ, nhưng hễ cô chủ ra lệnh là nó hành động tức khắc.
- Nó nghe được tiếng người?
- Dĩ nhiên. Song nó chỉ tuân lệnh Sophia. Nàng bảo gì, nó nghe nấy.
- Nó đã giết ai chưa?
- Chưa. Nó chỉ mới làm mấy chú cận vệ sợ xanh máu mặt. Số là con beo vằn nhỏ xíu lại có dáng điệu hiền lành nên bọn cận vệ tỏ ra khinh miệt, một thằng đánh bạo nắm đuôi nó kéo chơi, nó gầm gừ thì cả bọn ùa lại dùng gậy sắt vây đánh. Nó bèn quật ngã thằng đầu đảng, lần lượt cả bọn đều bị do ván, một tên rút rúng ra, toan bắn tự vệ thì nó xồ lại, cắn nát tay, nó sửa soạn vồ yến hầu thì Sophia về đến nơi, nàng phải quát mắng nó mới chịu tha giết, giá hôm ấy nàng chỉ về chậm nữa phút đồng hồ nữa là nạn nhân đã bị con beo vằn cắn nát cuống họng mà chết. Từ đó trở đi, cả bọn cận vệ và nhân viên Quạ Đen của đại tá Bani đều sợ con beo vằn hơn cả con nít sợ ông kẹ nữa.
- Còn anh?
- Tôi chưa có dịp thử lửa với nó, vả lại, tôi tự nghĩ thử lửa không lại, và bị nó nhá xương rào rạo là cái chắc.
Văn Bình đoán lầm Bill sẽ lên tiếng thách thức chàng đấu sức với con beo vằn gieo tai họa. Chàng đã đoán lầm vì Bill chỉ nói có vậy rồi im lặng trước khi lảng sang chuyện khác với những câu hỏi vô thưởng vô phạt như "anh buồn ngủ chưa, thường thường mấy giờ anh đi ngủ, ban đêm ở xó rừng này buồn nhỉ, chẳng bù với trung tâm Bombay..."
Văn Bình suy nghĩ miên man sau khi Bill viện cớ bận việc để cáo từ, trở vào thạch động. Chàng có linh cảm là phần đông nhân viên trong phái đoàn Anfa đang còn thức, mặc dầu những ngọn đèn ống đã lần lượt tắt, và trong cảnh đêm tĩnh mịch tiếng ngáy o o vang lên. Chàng dựa lưng vào vách đá, bâng khuâng ngắm khu rừng đen sì, đom đóm lập lòe. Trước cửa hang, hai cận vệ mặt đen thui, răng trắng nhởn, môi và lưỡi đỏ hỏn, đang ôm súng gác bên cây đèn bão, ánh sáng lắc lư. Bên trong, ngay sau cửa hang, còn một trạm gác khác. Một con chim sẻ cũng khó có hy vọng len vào thạch động. Phái đoàn Anfa cắm trại giữa rừng nhưng lại an toàn không kém ở trong căn cứ quân sự có hầm bê tông cốt sắt, và hàng rào kẽm gai truyền điện.
Văn Bình bị một thân đồ sộ che khuất, lại ở trong tối nên được tha hồ quan sát cửa động trong khi bọn cận vệ không nhìn thấy chàng. Cảm thấy miệng đắng, chàng móc túi lấy Salem toan hút, song vội quăng xuống đất khi nghe tiếng chân người bước thật nhẹ trên con đường độc đạo đầy lá rụng và đất đỏ, cách nơi chàng đứng chừng 50 mét về phía trái.
Chàng lặng lẽ rượt theo.
Sau khi ra khỏi bụi rậm nhằng nhịt cây leo, chàng thoáng thấy một bóng đen mà chàng biết chắc là đàn ông. Song, chỉ trong vòng một phần trăm tích-tắc đồng hồ, bóng đen bí mất đã nhòa biến vào đêm khuya.
Rượt theo người lạ trong rừng lạ không phải là việc ai cũng làm nổi. Bóng đen đã quen thuộc đuờng đi nước bước nên không hề vấp ngã, chàng có cảm tưởng là bóng đen đang trượt băng, nhanh như tên bắn. Trong khi ấy, Văn Bình mới đến vùng cao nguyên Đề-căn lần đầu, chàng phải vận hết nhỡn tuyến dạ hành để phân biệt, tuy vậy, nhiều lần chàng bị hụt chân, nếu không đạt tới trình độ thượng thừa về khinh công, tái lập thăng bằng dễ dàng dầu bị trượt té, chàng đã nằm còng queo dưới vực.
Bóng đen tiến ra khỏi rừng và đang men theo con đường đèo ngoằn ngèo lên núi. Giờ đây, trời đã bớt tối, nhưng chàng vẫn chưa nhìn rõ được phía trước. Chàng đi sau bóng đen khoảng 15 thước, chàng phải thở thật nhẹ, vì trong khoảng cách này các võ sĩ am tường phép luyện công có thể nghe rõ đuợc hơi thở của đối phương.
Càng lên cao, con đường đá càng thu hẹp lại. Nhưng Văn Bình bắt đầu nhìn thấy lối đi nhờ sự phản xạ của những tảng đá lớn. Sợ bóng đen lủi mất, chàng nhích lại gần thêm nữa. Nương theo tiếng động do gót giày của bóng đen gây ra, Văn Bình biết chàng chỉ còn cách bóng đen 5, 6 thước. Tuy chỉ cách 5, 6 mét, chàng không sợ bị hắn phăng ra. Vì con đường quẹo trái, vòng phải, lên cao, xuống thấp như chiến hào. Kể ra, nó không khác chiến hào là bao, vì hai bên đường là những phiến đá đen, trắng nhẵn như được gọt bào bằng máy, nối đuôi nhau sừng sững.
Đột nhiên, tiếng chân của bóng đen nghe rõ hơn trước.
Thì ra con đường độc đạo không ngoằn ngoèo nữa. Mà trở nên thẳng băng.
Trước mặt Văn Bình, trong ánh sáng hư ảo của đá hoa cương và cẩm thạch, một cảnh tượng hùng vĩ trải rộng khiến chàng phải bồi hồi đứng lại, chờ cho bóng đen đi khuất mới vươn ngực thở một hơi dài.
Trước mặt Văn Bình là một ngôi đền cao vòi vọi, nóc đền tròn trịa đầu khum khum, bên duới xòe rộng ra trên cái đế hình tam-giác. Lối kiến trúc mái tháp này được phổ biến tại Ấn độ, đó là biểu tượng của lingam và yôni, cái mái tròn sừng sững trong tầm mắt Văn Bình được xây đắp rất khéo nên khỏi cần là nhà tiểu thuyết giàu tưởng tượng chàng cũng đã hình dung ra những bộ phận thiết yếu ngàn đời của tình yêu nam nữ. Nhưng Văn Bình băng rừng đến đây giữa đêm khuya thanh vắng không phải để chêm ngưỡng lối kiến trúc khích dục. Chàng cốt theo sau bóng đen xem hắn đi đâu.
Chàng nín hơi, quan sát tứ phía. Ngôi đền trắng tọa lạc trên sườn núi thoai thoải 30 độ, mái trắng nhô thật cao song vẫn chưa cao bằng những ngon cây bao phủ. Vì vậy, ngôi đền rất đồ sộ mà người đứng xa không thể nhìn thấy.
Chỉ có một lối lót đá dẫn vào đền, còn những phía khác bị cành cây che khuất. Chàng ngần ngừ một lát trước khi đi vòng ra hông ngôi đền. Chung quanh đền một bức tường cao bao bọc. Văn Bình rún chân là vọt được lên trên, chàng gieo người xuống bên trong, nhẹ nhàng như chiếc lá rụng.
Chàng có cảm tưởng đây là ngôi đền bỏ hoang, từ nhiều năm nay không ai đến cúng tế. Bỏ hoang, vì lau lách mọc đầy, nhiều chổ lút đầu người. Lại gần, chàng mới thấy nhiều mảng tường bị sạt và bậc cấp lún sâu xuống đất núi.
Chàng thoáng nghe tiếng người, không phải một người mà là nhiều người từ trong đền vọng ra. Chàng men theo bụi rậm tiến lên. Đến trước một khung cửa trống toang hoác, chàng ngồi thụp xuống. Phía sau khung cửa trống là chính điện của ngôi đền. Chàng thấy một giãy tượng đá to lớn, đàn ông và đàn và xen kẽ nhau, cùng nắm tay nhau và cùng ngoảnh mặt ra ngoài. Đặc điểm của những pho tượng lớn bằng người thật này là sự trần truồng.
Toàn thể đều được tạc trần truồng trong đá. Văn Bình có thể nhìn thấy nụ cười hân hoan trên miệng các pho tượng đàn ông, và những nét đăm chiêu kỳ lạ của các pho tượng đàn bà. Sở dĩ mắt chàng không còn bị bóng đêm ngăn cản là vì trong chính điện có một ngọn nến.
Một cây nến hồng to bằng cánh tay người đang cháy bập bùng giữa ngôi nhà hoang vu.
Và phía sau cây nến hồng là một cô gái. Cô gái này chỉ trạc 12, 13 tuổi là cùng. Nàng mặc quần áo vàng mỏng dính, phơi lộ tấm thân đồng hun cân đối. Căn cứ vào khuôn mặt thì nàng rất trẻ, nhưng nếu căn cứ vào những đường cong uyển chuyển nàng đã đến tuần cặp kê.
Trái tim của Văn Bình như đứng hẳn lại, không chịu đập nữa. Cô gái đang uốn éo trên cái bục đá, mùi trầm hương, mùi hoa dại, quyện gió ngào ngạt. Văn Bình ngây ngất ngắm cô gái mở rộng hai vạt áo choàng, vẫy lên như cánh bướm rồi bắt đầu múa nhảy.
Đối với những người quen sống ở Tây-phương thì cảnh thoát y huyền ảo chỉ có thể tìm thấy trong các hộp đem, ở đó cũng có những ngôi đền, những bộ áo bằng kim tuyến voan, những cô gái măng tơ, những cây đèn cầy leo lét thay cho đèn điện ngàn nến, nhưng chỉ là giả tạo. Cảnh tượng đang diễn ra trước mắt Văn Bình là cảnh tượng huyền ảo thật sự, thiết tưởng Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai ngày nọ cũng khó thể xúc động hơn chàng. Cô gái thoát y trên bục đá, giữa chính điện hoang vu của ngôi đền hoang vu, không múa những điệu thông thường như Văn Bình thường mục kích trong các trung tâm dạ lạc giựt gân. Những tiết vũ của nàng đều nhuộm vẻ thoát tục khiến chàng lâng lâng, hồn chàng như bay ra khỏi thân thể mà hòa nhập vào không gian thanh khiết vô tận.
Thật kỳ lạ... trong hộp đêm, môn vũ thoát y lôi cuốn được dạ khách là do tiếng nhạc trập trùng, đằng này tất cả đều chìm vào im lặng, cô gái không thốt ra một tiếng, Văn Bình chỉ nghe hơi thở rồn rập của mình và tiếng vải sột soạt, tiếng leng kenh thánh thót của những cái khánh nhỏ xíu bằng vàng đeo ở hai cổ chân nàng.
Giờ phút này, Văn Bình mới biết lời căn dặn của ông Hoàng rất đúng. Từ lâu, ông tổng giám đốc đã kể chàng nghe về nghệ thuật múa vũ hớp hồn của những cô gái Ấn độ bán mình cho thần linh, gọi là đevađasi hoặc ganika. Bombay là nơi có nhiều điếm-thần nhất, họ có đặc tài mê hoặc đàn ông, tuy nhiên trên cao nguyên Đề-căn có một loại điếm-thần độc nhất vô nhị, ngắm họ múa là đàn ông có trái tim bằng thép cũng bị chinh phục dễ dàng, không những họ có ma thuật trong điệu múa, ngay cả trong phòng the kín đáo, ma thuật thỏa mãn dục tình của họ còn đuợc liệt vào hạng thượng thừa nữa.
Theo lời ông Hoàng, khi nào bắt bồ với đẳng cấp điếm-thần thượng thừa này Văn Bình phải coi chừng. Vị họ am tường một phương pháp vô tiền khoáng hậu, đàn ông dày công trận mạc đến với họ thường bị thảm bại trong vòng 5, 10 phút, và sau đó phải nghỉ ngơi, tẩm bổ hàng tuần, đôi khi hàng tháng mới phục hồi được phong độ.
Phương pháp bách chiến bách thắng yêu đương này là một siêu hình thức yoga. Người ta gọi là tan-tờ-rít yoga. Các cơ quan điệp báo phía sau bức màn sắt, thoạt đầu là GRU sô viết, sau đến Quốc tế Tình báo Sở Hoa lục, đã lần lượt du nhập bí thuật yoga làm tình để giảng dậy cho nữ nhân viên. Trong quá khứ, Văn Bình đã hơn một lần so tài với nữ nhân viên điệp báo địch thông thạo bí quyết làm tình. Và hơn một lần Văn Bình đã bị thất điên bát đảo, nhưng rốt cuộc chàng vẫn thắng.
Tuy nhiên, so sánh với điếm-thần ở vùng cao nguyên Đề-căn thì các nữ điệp viên này chỉ mới là đàn em hạng bét. Giờ phút gay cấn này, Văn Bình đang ngồi đối diện một điếm-thần. Chàng rán trấn tĩnh để khỏi bị mê hoặc, song sự mê hoặc cứ từ từ thấm vào tạng phủ chàng. Chàng muốn rút lui vậy mà hai chân cứ chôn sâu xuống đất, chàng đành há hốc miệng theo dõi màn vũ tế thần của người đẹp ganika cách chàng gần 5 thước, dưới ánh đèn cầy bập bùng.
Ganika là điếm-thần, vì theo phong tục địa phương, họ là vợ của thần Tình yêu Shiva. Cha mẹ thường bán-khoán con gái cho thần, và những bông hoa biết nói thơ ngây này được nuôi nấng trong đền, dạy cách múa, cách làm tình, và dĩ nhiên họ phải biểu diễn những điệu đã hấp thụ với tu sĩ giữ đền, và dần dà với khách thập phương. Mỗi chuyến ghé thăm Ấn độ, Văn Bình đều không quên ghé thăm những ngôi đền có điếm-thần, song chàng chỉ gặp những cô gái có tài nghệ và nhan sắc trung bình, cho nên chàng hằng khao khát tìm được của lạ.
Cô gái quần áo vàng mỏng dính, phơi lộ tấm thân đồng hun cân đối, đang kiễng chân trên bục, cánh tay giơ khỏi đầu và chập vào nhau. Nàng xoay tròn, những bộ phận nở nang trên thân thể nàng rung chuyển như bên trong được truyền điện. Và trong khi xoay tròn nàng cởi bỏ tấm áo choàng bằng voan kim tuyến. Trong khoảnh khắc, nàng khỏa thể hoàn toàn, điệu múa của nàng trở nên gấp gáp hơn, cuồng loạn hơn.
Văn Bình đang say mê bỗng giật mình, bàng hoàng. Một tiếng kêu vừa xé toang màn đêm u tịch.
Trời ơi!
Tiếng kêu "trời ơi" phát xuất từ một góc tối của chính điện. Ngọn hồng lạp chỉ chiếu sáng được một phần của bục đá, còn tất cả ngôi đền đều chìm ngập trong bống đêm mờ mịt. Văn Bình giật mình vì tiếng kêu này là của một người đàn bà.
Và là một người đàn bà quen thuộc.
Chàng nhô đầu ra khỏi đám lau lách để nhìn cho kỹ. Ngay khi ấy một bóng đàn bà mặc áo hồng phủ kín từ đầu xuống chân như áo cưới lẹ làng từ góc đền chạy ra trước bục đá, cô gái lõa thể đang oằn oại trông thấy vội lùi dần, lùi dần một cách kính cẩn rồi biến mất.
Người đàn bà mặc áo hồng nhảy lên bục, và bắt đầu múa nhảy. Nàng trình diễn không dẻo bằng cô gái điếm-thần mặc áo vàng, nhưng sau làn voan hồng, những đường cong của nàng tỏ ra chín mùi hơn, và cử chỉ khêu gợi của nàng tỏ ra lõa luyện hơn. Một lần nữa, trái tim Văn Bình lại ngưng đập.
Ngưng đập vì trên bục đá nhẵn thín, người đàn bà choàng áo hồng vừa nhảy vừa thốt ra nhiều tiếng thở dài. Tiếng thở dài của nàng không phải là tiếng thở dài biểu lộ chán chường, hoặc thất vọng. Mà đây là tiếng thở dài độc đáo của phụ nữ muôn thuở trong cơn hoan lạc. Phụ nữ Ấn nổi danh từ đông sang tây về thuật thở dài quyến rũ. Theo truyền thuyết, có 8 loại âm thanh thở dài khác nhau mỗi khi tối lửa tắt đèn. Nhưng theo một cuốn tình thư bất hủ thì có 5 âm thanh thở dài tất cả, mỗi âm thanh giống với tiếng thở dài ái ân của một loài chim ở Ấn độ, đó là những tiếng hân hân, hin hin, ha ha, sân sít và tát tát... Tùy theo mực độ của sự hoan lạc, người đàn bà sẽ thở dài hân hân hay tát tát...
Người đàn bà mặc áo hồng thở ra một loạt âm thanh sân sân, sít sít và tát tát san những tiếng "trời ơi" nửa nũng nụi, nửa van xin... Văn Bình phải nắm chặt bàn tay để khỏi thốt theo tiếng "trời ơi", vì tấm áo choàng hồng vừa được hất lên trong nháy mắt để lộ làn da và nhất là khuôn mặt mà chàng đã có dịp chiêm ngưỡng.
Khuôn mặt của nàng chỉ hé ra một mảng nhỏ xíu song con mắt quan sát thành thạo của Văn Bình đã có thể suy dẫn ra nàng là ai. Lòng chàng hồi hộp lạ thường, chàng muốn kêu lên "trời ơi", vì sự kinh ngạc vừa đến với chàng đã lớn hơn nhiều sự kinh ngạc trong dĩ vãng.
Vì điều chàng không hề ngờ tới, không dám ngờ tới, lại đã xảy ra: người đàn bà múa nhảy trên bục đá trong ngôi đền vắng, và sửa soạn lõa thể để làm tình theo cổ tục tôn giáo lại là nữ tiến sĩ địa chất học, trưởng phái đoàn Anfa, giai nhân lai Trung hoa, Hồng Nương...
Điệp vụ chàng có bổn phận thực hiện ở Bombay đã mở đầu bằng đàn bà đẹp, và tình yêu sôi nổi. Đến khi gặp Sophia và Hồng Nương, chàng đinh ninh màn bí mật đã được vén kéo. Té ra, phía sau tấm màn này đang còn nhiều tấm màn bí mật khác. Chàng có thể nghi Hồng Nương là đầu mối cho những chuyện kinh thiên động địa, song chưa bao giờ chàng dám nghi nàng đến cao nguyên Đề-căn để múa khoát y ban đêm trong một ngôi đền hoang phế...
Trên bục đá, ánh hồng lạp mỗi lúc một sáng. Hồng Nương đã mở rộng cái áo choàng hồng. Nàng rú lên một tiếng dài rồi giựt đứt hết những dây móc mỏng mảnh còn đính cái áo choàng hồng vào vai nàng, xé toạc ra, ném vứt tứ tung trên đất. Nữ tiến sĩ địa chất Hồng Nương đã khỏa thân hoàn toàn.
Và nàng nghỉ múa, mắt hướng về góc trái của chính điện. Luồng nhỡn tuyến của nàng bắn ra những tia thèm muốn hừng hực, điều này chứng tỏ nàng đang chờ đợi.
Dĩ nhiên nàng chỉ có thể chờ đợi đàn ông. Khi ấy lòng Văn Bình cũng hừng hực sôi như lửa đốt. Chàng muốn nhảy khỏi bụi rậm để kéo vòng tay mời mọc của Hồng Nương vào ngực chàng. Song chàng cố dằn lòng, hai mắt nhắm lại để khỏi mục kích quang cảnh khích động, miệng thở ra nhè nhẹ để xua đuổi những phân tử thán khí còn đọng trong buồng phổi làm thần trí chàng bị u ám.
Cũng may Văn Bình phải chịu cực hình không lâu. Người đàn ông mà Hồng Nương chờ đợi đã tới. Thật ra, hắn đã có mặt trong chính điện từ lâu, có thể hắn đến một lượt với nàng, nhưng đã núp lùi trong bóng tối, và chỉ xuất hiện sau khi điệu vũ tế thần đã kích thích nàng cực độ.
Trước đó 5 phút Văn Bình đã vô cùng sửng sốt vì cô gái mặc áo choàng hồng múa lõa thể là Hồng Nương. Nhưng giờ đây chàng còn sửng sốt hơn nữa.
Sửng sốt đến nỗi cuống họng chàng khô cứng, tay chân chàng trở thành bất động như bị tê liệt. Ông tổng giám đốc Hoàng là nhà lãnh tụ không hề biết sửng sốt song nếu ông ở vào hoàn cảnh như chàng thì cũng phải sửng sốt. Sửng sốt vì gã đàn ông được Hồng Nương chờ đợi trong cơn khao khát xác thịt cuồng loạn lại là Hồng Lang.
Phải, hoàng tử của "lòng em" đối với Hồng Nương lại là anh em ruột của nàng...
Tình thư Ấn độ gồm 64 phương pháp lôi cuốn phụ nữ, chỉ nhìn lối bước, cách giang tay và nghệ thuật bộc lộ ái tình bằng nét mặt của Hồng Lang. Văn Bình đã biết hắn am tường trọn bộ tình thư. Trong giới giang hồ, Văn Bình được tôn làm đàn anh, và sự suy tôn này không lấy gì làm quá đáng, tuy vậy, đứng trước Hồng Lang chàng phải thành thật nhìn nhận chỉ đáng làm em hắn. Làm em út của Hồng Lang về phương diện ái tình.
Ngay trong phút "ra quân" hắn đã áp dụng những phương pháp ôm hôn bay bướm nhất của kinh điển Kama Sutra. Kinh điển này có 4 phương pháp ôm hôn như dây leo quấn thân cây, ôm hôn như trèo cây cao, ôm hôn như hột mè dính vào hột cơm, và ôm hôn như nước trộn với sữa, thì Hồng Lang đã mang ra biểu diễn cả 4. Hồng Nương hoàn toàn tuân theo ý muốn của gã đàn ông lão luyện, nàng biến thành viên bột dẻo ngoan ngoãn trong bàn tay nhào nặn điêu luyện. Và biểu diễn xong phương pháp ôm hôn, Hồng Lang còn làm Văn Bình ngơ ngẩn và 4 phương pháp cọ sát khác của kinh điển Kama Sutra nữa, đó là hôn đùi non, hôn đan điền, hôn ngực và hôn trán. Giai nhân Hồng Nương nằm gọn trên hai cánh tay lực lưỡng của gã đàn ông, và như người rước lễ hắn từ từ bước xuống bục đá, từ từ biến vào bóng tối phía sau chính điện.
Hắn bế nàng vào phía sau ngôi đền để làm gì, Văn Bình đã biết mặc dầu bóng tối không cho phép chàng nhìn thấy. Vả lại, thanh niên khờ khạo chưa nếm mùi đời cũng đã biết huống hồ lọc lõi như chàng. Lẽ ra hành động của Hồng Lang phải làm Văn Bình gia tăng thèm muốn xác thịt, nếu chàng không thể xuất đầu lộ diện để tranh giành người đẹp thì ít ra chàng cũng phải ghen tuông ngấm ngầm trong lòng.
Nhưng không hiểu tại sao khi ấy ngọn lửa ghen tuông vừa nhóm lên lại đã tắt phụt. Từ thái độ sửng sốt, Văn Bình đổi sang phẫn nộ. Họ là anh em ruột mà yêu đương nhau như vợ chồng - có lẽ còn mặn nồng hơn cả vợ chồng trẻ hưởng tuần trăng mật nữa - nghĩa là họ đã ngang nhiên phạm tội loạn luân. Văn Bình đã quen với nếp sống đạo lý lỏng lẻo, song le trong thâm tâm chàng vẫn còn sót lại bản sắc á-đông thuần túy. Chàng sẵn sàng chấp nhận mọi sự lỏng lẻo, như sự lỏng lẻo gia đình ở các quốc gia Bắc Âu, con gái được tự do thí nghiệm xác thịt với con trai, hoặc sự lỏng lẻo trong sinh hoạt của giới híp-py thế giới chung chạ đồ đạc, chung chạ ái tình, dùng sự hưởng lạc phóng túng và ma túy để phản đối xã hội. Nhưng chàng không thể chấp nhận được sự loạn luân.
Mặt Văn Bình đỏ gay. Trời khuya lành lạnh, sương mù bao phủ ngôi đền và đám lau lách len lỏi vào da thịt chàng, vậy mà Văn Bình lại cảm thấy châu thân nóng ran. Hồng Lang đã bế Hồng Nương đi đâu không biết. Ngôi đền khá rộng, ngọn đèn cầy lại đã cháy đến khúc cuối cùng nên tìm ra nơi hắn lập tổ ấm không phải là dễ...
Văn Bình kiễng chân rồi lại thụp xuống. Giác quan thứ sáu của chàng vừa ghi nhận được một sự hiện diện nguy hiểm. Sự hiện diện này có lẽ đang ở sau lưng chàng.
Chàng vội quay lại.
Đối điện chàng là một miệng cười nham nhở. Và một giọng nói đầy khinh bạc:
- Anh cũng bỏ ngủ để ra đây nhìn trộm người ta làm tình ư?