Tiếp Theo
Tác giả: Nguyễn Huy Tự
1125.- Sử-kinh lại gắng việc thường,
Gấm hoa thêm cải, ngọc vàng thêm lau.
Sắc thi vang dậy đâu đâu,
Hồi trang sinh mới gióng câu dặm hồng .
Tôn-sư án khảo vừa xong,
1130.- Lọt tài sớm đã tỏ dòng tiền xanh .
Tản hòe vàng chất sây cành,
Trước sân vào gởi đăng trình ra thi.
Dạy rằng : "Mây gió gặp kỳ,
"Vín rồng nay hội nam-nhi vẫy-vùng.
1135.- "Tiện cho Diêu-đệ theo cùng,
"Hàn song phong nguyệt bõ công sách đèn.
"Bảng thu sớm sớm đề tên,
"Tiện đường sớm lại ruỗi liền hội xuân .
"Đi về lọ quản dưới chân,
1140.- "Hãy cho ba tiệp trao lần nay mai".
Lĩnh lời lạy trước sân Lai,
Diêu-sinh đã hẹn cũng dời chân sang.
Túi "ôn", tráp "lý" nhẹ-nhàng,
"Đồ-thư nửa mạn, phong-quang một chèo.
1145.- Đòi phen dốc sớm địch chiều,
Bóng ngư mặt nước, tiếng tiều chân mây.
Cảnh thanh trải mấy mà hay,
Gót phồn-hoa thực nơi này Nam-kinh.
Y kỳ nạp quyển đề danh,
1150.- Trận thu cờ trống, luỹ thành một ai.
Mấy phen thử sức đua tài,
Tỉnh nguyên giật giải, tên bài Diệc-thương.
Vòng năm Diêu cũng chen hàng,
Gió đưa cờ tiệp bờ sương nhặt truyền.
1155.- Trải tuần yến-ẩm lưu liên,
Yên-kinh lại gióng con thuyền ruổi mau.
Vui này dễ bỏ sầu đâu,
Nỗi riêng riêng chạnh, đòi nau một mình !
Trông về khóm biếc chòm xanh,
1160.- Núi gầy-gò vóc, sông quanh-quất lòng.
Phẩm đề biếng giở thư-đồng,
Thành xuân đã rõ mây lồng thứ năm.
Tin xưa vốn đã toan thầm,
Mật sai kíp đã cho thăm việc nàng.
1165.- Chỉ nghe phấp-phỏng tin Dương,
Còn ai lưu-lạc chưa tường biết nơi.
Mặt bèo chân sóng tuyệt vời,
Giận duyên xốc-nổi, thương người bơ vơ.
Việc thi nên cũng hững-hờ,
1170.- Hết ngày Diêu nói tận-từ mới nghe.
Nẩy tài nhả ngọc phun khuê ,
Nhẹ-nhàng vây sóng, lập-lòe cánh mây.
Đất bằng một tiếng sấm bay,
Hai sinh đều dự một ngày nguy khoa ,
1175.- Truyền lô Lương dự Thám-hoa,
Diêu-sinh Hoàng-giáp cũng là Á-khôi.
Phấn vua, lộc nước, ân trời,
Muôn nghìn danh-giá năm mười nhân-duyên,
Đá đưa thêm gợi tấc phiền,
1180.- Chén trăng xưa đã nặng nguyền sá đâu.
Vinh quy vừa định tuần sau,
Vừa nghe biên báo vội hầu quan sai.
Diêu ra quan-chính cõi ngoài,
Lương vào Hàn uyển thảnh-thơi ngọc đường.
1185.- Vườn sau trúc thạch sẵn-sàng,
Liền công-thự đó, là tường Tiền-nha.
Nàng từ tin ải truyền ra,
Nỗi mình, nỗi khách, biết là bao nhiêu
Trọn ngày khóa lặng song thêu,
1190.- Nguyệt, Hương biết ý dập-dìu ra chơi.
Trước hoa lần bóng hoa rơi,
Dưới trăng lần bóng, trăng soi người sầu.
Cảnh đâu dễ nhắc lòng đâu,
Vừa than tình mới, vừa sầu nỗi xưa :
1195.- "Ngàn mây trắng bạc như tờ,
"Bóng dâu chênh chếch đã vừa ngang vai.
"Bờ sương dặm tuyết bao nài,
"Nào ai ấm lạnh, nào ai ngọt bùi .
"Tưởng người chén nguyệt thề bồi,
1200.- "Phòng hương trộm tưởng đã người nào thôi !
"Ba xuân những chốn làm vui !
Dương thanh liễu lục những ai đó giờ"!
Cho hay thanh khí tương cờ ,
Cách tường sinh cũng khi vừa dạo thanh ,
1205.- Buồn tanh trăng ngọn gió cành,
Dịp chân dạ khách, tiếng kềnh đêm thu.
Cảnh sầu như ghẹo người sầu,
Khi than-thở bóng, khi châu-chan mày.
"Nghĩ người mặt sóng chân mây,
1210.- "Tiên thề đành để đến ngày tái sinh.
"Lỡ-làng bèo nước lênh-đênh,
"Ấy duyên phụ khách, hay mình phụ duyên.
"Nào ai bể dặn non nguyền ,
"Lòng nào chuông vạn, ngựa nghìn với ai",
1215.- Nỉ-non đêm ngắn tình dài,
Nguyệt cài bên triện, hoa rơi trước rèm.
Cách hoa lạnh ngắt bóng thiềm ,
Mây hồng tha-thướt làn xiêm một người.
Cây quỳnh thánh-thót sương rơi,
1220.- Đào rầu rầu ủ, liễu hơi hơi gầy.
Rõ người ngày trước chẳng sai,
Nguyệt, Hương cũng đến chi đây lạ đời.
Những là vắng mặt khuất lời,
Non bồng xem ngỡ mấy mươi mươi trùng .
1225.- Tường hoa quanh quất mấy vòng,
Bên hoa dường có nẻo thông cuối tường.
Hài văn lần bước bước sang,
Cách tường văng-vẳng tiếng vàng xa đưa.
Tưởng bây giờ là bao giờ ?
1230.- Song song đôi mặt còn ngờ chiêm-bao.
"Bấy lâu mưa khóa gió rào,
"Ngoài muôn nghìn dặm biết bao nhiêu tình.
"Biết đâu hương lửa ba sinh,
"Còn trăng còn gió còn dành duyên ta.
1235.- Dịp đâu đã lỡ lại hòa ,
"Mới là tơ vận, mới là nguyệt xoay".
Nàng nghe giọt tủi thêm đầy,
Cạn lời lại giải niềm tây mọi lời.
Rằng vâng mừng trộm cho người,
1240.- "Đã duyên đằm-thắm, lại vời giàu-sang,
"Tiếc thay sương tuyết cũ càng,
"Lối duyên ai nghĩ tự chàng rắc gai.
"Thề hoa vì tiếng hơi hơi,
"Vẫn ghi lòng, kẻo thẹn lời với hoa.
1245.- "Soi người còn đó trăng già,
"Ai ngờ vàng đá , xảy ra cát lầm.
"Duyên đâu nữa để mà cầm !
"Nhện vương lại mấy phen lầm nữa đây.
"Bấy lâu chút mảnh riêng tây,
1250.- "Ái-ân này đến đêm này là xong.
"Tiên thề dù hãi chút lòng,
"Trên mồ một chén, rượu trong cũng là.
"thói thường ấm-lạnh thế mà,
"Trách ai rẻ rúng cho ta sượng-sùng.
1225.- "Giãi lòng với mảnh trăng trong,
"Tạ lòng vâng đã biết lòng thế thôi".
Trước lan so bóng ngán lời,
Trăng mờ gương lạnh, dế rời khúc ngâm.
Gió thương mây thảm âm-thầm,
1260.- Dần dần ngọn hạnh như đầm hạt mưa.
"Chủ-trương kia bởi ông tơ,
"Nào ai gió lật trăng lừa với ai !
"Mảnh gương ai bẻ làm hai ,
"Biết đâu mà được giãi bày duyên-do.
1265.- "Mảnh son dầu được giãi cho,
"Thí cam há quản tươi khô đâu mà.
"Kể từ doanh-liễu dời xa,
"Cửa Lưu khi ép, đình Ba khi tìm.
"Bắc nam dặm dứt đường chim ,
1270.- "Vì ai bèo nổi mây chìm bấy lâu !
"Nắm xương mai, sá nghĩ đâu,
"Nghĩ chăng, những nghĩ lầm nhau tại mình.
"Hay đâu cơ-hội còn dành,
"Gác Đằng lại nhủ gió thanh đem đường.
1275.- "Buổi này họp mặt tròn gương ,
"Mới hay còn có lửa-hương kiếp này.
"Nhân sao nương náu chi đây,
"Những sao nông nỗi bấy nay dạy cùng".
Càng nghe càng một não nùng,
1280.- Ai hay ai cũng còn lòng chưa quên.
"Tình kia nào phụ chi duyên,
"Gió giun mây giẩy cho nên cớ nào !
"Sự mình kể hết tiêu-hao,
"Đã đành chiếc bách sóng đào lênh-đênh.
1285.- "Thương ôi muôn dặm biên-thành ,
"Xa xôi nào thấu dữ lành tin hơi.
"Xót lời nên mới ngỏ lời,
"Gặp nhau cùng khách quê người biết sao !"
Một cơn gió giật, mưa dào,
1290.- Lẽ này người quyết dạ nào đinh ninh.
"Bụi Hồ quét sạch-sành-sanh,
"Ơn trên sau nữa nghĩa mình trả xuôi.
"Hẳn dù lầm-lỡ lứa đôi,
"Trót thề để chút đền-bồi cũng xong.
1295.- "Họa khi trời cũng chiều lòng,
"Một chuông vàng một chỉ hồng cũng hay.
"Bọc da dù đến thân này,
"Cũng đành tỏ chút tình ngay với người.
"Kiếp này đã dở-dang rồi,
1300.- "Sá chi mà có tiếc đời làm chi !
"Thôi thời thôi có nghĩ gì,
"Thiệt mình mà trả được nghì cũng nên".
Tử sinh quyết một mảnh nguyền,
Cành than ngọn thở dường quên bóng trời.
1305.- Giục khuya hoàn chợt gửi lời,
Hiểu-trang lầu nọ tiếng người đã đông.
Biệt ly ai vẽ nên lòng,
Càng nhau giọt tủi, càng nồng tấm thương.
Kẻ về, người lại sảnh-đường,
1310.- Liền tay chép biểu, tan sương lên chầu.
Lãm qua chuẩn doãn lời tâu,
Cờ sai gươm hộp mặc dầu tiện-nghi.
Lệnh trao ruổi phát tức thì,
Tinh binh mười vạn, thuộc tùy trăm viên.
1315.- Bệ từ vâng chỉ đặc truyền,
Ầm ầm ngựa gác xe chen khởi hành.
Mịt-mù bãi cát đồi tranh,
Cùng nhau khi nặng vì tình quản bao.
Ải xa mấy trận binh-đao,
1320.- Truy quân quá đất lầm vào thành không.
Súng đâu dậy tiếng đùng đùng,
Bốn bề giáp đánh ba vòng bọc quanh.
Một hai tin lũ bại binh,
Đồn rằng Lương đã liều mình trong quân.
1325.- Miếu-đường rốt lẽ xử phân,
Hành-biên lại khiến trọng thần chỉ-huy.
Tiện nghi các việc biên thuỳ,
Vận lương, Diêu cũng tức thì trẩy ra.
Mới hay mợ trú Tiền nha,
1330.- Vấn an tiện thể cáo qua lên đường.
Việc biên nói chuyện tin Lương,
Chực sau, Hương đã tỏ tường tai nghe.
Liền vào gửi trước phòng khuê,
Nghe tin nàng những e-nề đòi cơn.
1335.- Vật mình khóc-lóc thở-than,
Quyết ngay vào sá lời can lẽ nài,
"Vì ai cho lụy đến ai,
"Thà liều mạng bạc, kẻo sai chữ đồng".
Cháo cơm quyết chẳng bợn lòng,
1340.- Nguyệt đà gạn lẽ riêng chung chung rầm-rì.
Trình rằng : "Thôi đã vậy thì,
"Dẫu liều, đâu nữa ích gì đây chăng ?
"Tình kia bể núi thực rằng,
"Tình này sao lại xem bằng hiếu kia.
1345.- "Gìn lòng ngọc tạc vàng ghi,
"Hiếu tình cân lại nhắc đi cho tuyền".
Chấp-nê nàng đã đâu tin,
Gỡ dần, Hương lại đứng bên rén bày :
"Đào kia đành trả mận này ,
1350.- "Có chăng đợi chút một giây ông về.
"Cho phu-nhân chút hả hê,
"Vẹn trong lúc ấy chi hề dám ngăn".
Êm lời nàng cũng dã dần,
Ngày giờ núm-náu, đêm tuần khói hương.
1355.- Nghe tin chẳng xiết nỗi nàng,
Dặm xa lại nỗi Đài Lương ở nhà.
Vừa mừng cá nhảy đợt ba ,
Lại thêm chinh-tiễu sa-đà hành biên.
Sau nghe những sự ngoa truyền,
1360.- Xót lòng luống những xây phiền đắp thương.
Thực hư ai biện cho tường,
Lễ chiêu tuần điện lệ thường thiếu đâu.
Bỗng dưng mua não chuốc sầu mà chơi.
1365.- Tiếng oan dậy dậy đất lở trời,
Tin đưa Lưu cũng rã rơi tâm-thần.
Ngọc Khanh xiết nỗi ngại-ngần,
Đổi màu xiêm trắng, kém phân cơm vàng .
Xót vì, chúng cũng khuyên nàng :
1370.- "Dây đàn đứt nối là thường, nghĩ sao ?
Thấy lời oanh-yến lao xao,
Càng chan giọt thắm, càng bào lòng son.
Rằng : "Cương thường nặng núi non,
"Hãy còn trời đất, hãy còn di luân .
1375.- "Vẻ chi một mảnh hồng-quần,
"Chủ hoa đành đã đông quân đấy rồi.
"Thôi thôi đã vậy thì thôi,
"Cũng liều má phấn, cho rồi ngày xanh.
"Luân thường quyết gánh lấy mình,
1380.- "Treo gương trinh-bạch rành rành cho coi.
"Mảnh bao dày mỏng thói đời,
"Đợi tuần ráo cỏ chê cười như không.
"Dẫu rằng mòn núi cạn sông,
"Gương này quyết chẳng soi chung với người".
1385.- Lưỡi oanh khéo uốn ra lời,
Gớm thay cái mặt con người vô lương.
Mấy lời tạc đá ghi vàng,
Mối manh ai dám dọc đường nữa đâu.
Duyên kia thôi vậy cũng dầu,
1390.- Nợ kia, ai lại làm rầu cho ai.
Ngày xuân lo những thiệt thòi,
Phu-nhân vội đã toan bài ép duyên.
Lễ đưa truyền lại dẫn điền ,
Tước bình thử mở xem tên ai vào.
1395.- Họ Lam có một người nào,
Nghe tin sai mối lại trao chỉ hồng.
Một lời gắn bó vừa xong,
Biết con đã hẳn như lòng cho chưa.
Đòi nàng khuyên-nhủ sau xưa ,
1400.- Rén quì, thoắt đã tuôn mưa đôi hàng.
Ngập-ngừng nàng mới gửi tường :
"Yếu-thơ bồ liễu, lỡ-làng tóc-tơ.
"Phận sao, phận bạc như tờ,
"Nợ sinh-thành biết bao giờ trả xong.
1405.- "Nâng khăn trót đã long-đong.
"Còn toan tiếc mảnh má hồng nữa ru.
"Bên đường, nấm cỏ dầu dầu,
"Mặt nào quên não, khuây sầu với ai.
"Dẫu sao cũng một thân người,
1410.- "Dong cho chiếc gối trọn đời là cam".
Lời ngay dễ trái dạ tham,
Đem lời nửa mặt coi làm trăm năm.
Chước nên mụ những mừng thầm,
Lại đem trời bể mà cầm giầu-sang.
1415.- Uốn mềm hết tấc khoe khoang,
Trái tai nàng mới kể tường gần xa :
"Nói chi những sự người ta,
"Nghĩ mình nên chửa hay là chửa nên ?
"Chữ trinh là phận thuyền-quyên,
1420.- "Ôm cầm ấy, lại qua thuyền nào ru !
"Nỗi mình, riêng những thẹn-thò,
"Lại mang lấy tiếng pha-trò mà chơi".
Phu-nhân nghe hết mọi lời,
Dạy rằng : "Khuê-các sao hay chuyện ngoài.
1425.- "Duyên này chẳng được bàn dai,
"Nhẹ đem vàng-đá mà coi làm thường".
Chú thích:
câu : con ngựa nhỏ mà mạnh, thường dùng cho học trò cỡi đi đường.
hồng : chim hồng : một loại ngỗng trời.
tiền xanh : do chữ thanh tiền : những đồng tiền bằng đồng đã chọn để trong kho lâu ngày, ten đồng trổmàu xanh. Đây là thi đỗ. hòe : là cây hòe. Điển nhà họ Đậu có trồng ba cây hòe mà nhà có ba người con đều thi đỗ thành danh cả
Vín rồng : do chữ phanlong phụ phụng là ví con rồng chắp con phụng,
Bảng thu : là bảng đề tên những người thi đỗ kỳ thi mùa thu.
hội xuân : là kỳ thi mùa thu rồi đến kỳ thi mùa xuân, hội các tên đã thi đỗ kỳ thu, thi lần thứ hai gọi là hội xuân.
Trận thu : là đánh nhau mùa thu, vì là thi cử cũng là đua tài học với nhau như trận chinh-chiến vậy.
Tỉnh nguyên : tỉnh là người học tròthi của các tỉnh ngoài gửi về thi.
cờ tiệp : cờ tiệp là cờ báo tin thi đậu. Nhặt truyền là truyền gắp.
nhả ngọc phun khuê : cũng như nhả ngọc phun châu, ví ngưòi có tài học giỏi, văn chương quí như châu ngọc
nguy khoa : là khoa cao, thi đỗ cao.
Truyền lô : là sự xướng danh những người thi đỗ cao.
Hàn uyển : vườn bút lông, tứctoà Hàn lâm . Ngọc đường : nhà quyền-quí.
trúc thạch : là tre và đá.
Bóng dâu : là tuổi già, do chữ tạng du vãng cảnh.
ấm lạnh, nào ai ngọt bùi : Ấm-lạnh ngọt-bùi : là sự con thờ cha mẹ.
Phòng hương : do chữ hương khuê : nơi phòng xông hương thơm cửa nhà sang quí,
Dương thanh liễu lục : ý nói chờ đợi nhau, do câu thơ : Nguyệt thượng liễu sao đầu, nhân ước hoàng-hôn hậu.
thanh khí tương cờ : do chữ chữ đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu : đồng một hơi hưởng-ứng với nhau, đồng một màu cùng tìm nhau.
dạo thanh : là dạo chơi hóng mát.
tiếng kềnh : là tiếng chuông chùa.
bể dặn non nguyền : do chữ sơn minh hải thệ : là sự thề nguyền lâu bền như sông núi.
chuông vạn, ngựa nghìn : do chữ vạn chung thiên tứ : muôn chung lúa nghìn cỗ xe, chỉ nhà quan sang-trọng,
bóng thiềm : là bóng trăng.
Cây quỳnh : là cây bằng ngọc quỳnh. Đây mượn để tả người đẹp.
Non bồng xem ngỡ mấy mươi mươi trùng : ý nói xa cách vô hạn.
Hài văn : là giày học trò đi,
tiếng vàng : tiếng của người sang-quí.
Dịp đâu đã lỡ lại hòa : ý nói sự vợ chồng bị trắc-trở rồi lại hoà-hiệp.
vàng đá : bởi chữ kim thạch , cát lầm là cát bùn,
Mảnh gương ai bẻ làm hai : nghĩa bóng chỉ vợ chồng xa lìa nhau,
tươi khô : do chữ vinh khô nghĩa bóng sự sống chết hay giàu nghèo,
doanh-liễu : là dinh thự ở xứ Tế-liễu.
đường chim : đường hiểm và cao, chỉ có chim mới bay được mà thôi
họp mặt tròn gương : tức như vợ chồng tái hợp.
chiếc bách : chiếc thuyền bằng gỗ bách.
biên-thành : nơi đồn-luỹ chốn biên-giới.
Bụi Hồ : là giặc rợ Hồ.
chuông vàng : bởi chữ hoàng chung, ý nói tiếng-tăm lừng-lẫy.
Bọc da : do chữ mã cách loã thi : da ngựa bọc thây : là cái chết của người nam-nhi có chí-khí ra đánh giặc, có chết thì lấy da ngựa bọc thây chôn là đủ vậy.
chuẩn doãn : là ý cho được.
Cờ sai : cờ lệnh của vua sai.
Bệ từ : là từ tạ nơi bệ ngọc,
ngựa gác xe chen : do chữ mã giá xa thặng. Giá là xe một ngựa, thặng là xe bốn ngựa để chở quân.
Miếu-đường : nơi tôn-miếu nhà vua thờ các tiên-vương,
Hành-biên : đi ra ngoài biên-trấn.
Vấn an : thăm viếng.
Đào kia đành trả mận này : do câu thơ Cổ-nhạc-phủ có nghĩa : cây đào sinh trên giếng lộ, bên có cây lý, con sâu đến cắn rễ đào, cây lý chết thế cho cây đào ( lý là cây mận) . Đây ví người thế thân cho nhau trong cơn hoạn-nạn.
cá nhảy đợt ba : là cá nhảy trên từng sóng, ví thí đỗ cao.
Lễ chiêu : lễ chiêu hồn,
cơm vàng : bởi chữ hoàng lương là thứ gạo quí và ngon
Dây đàn đứt nối : gọi chữ tục huyền là nối dây đàn, ví sự tái thú, cưới vợ lần thứ hai.
lời oanh-yến : chim oanh nói nhiều giọng, chim yến có nhiều đôi lứa. Đây dùng lời oanh yến ví lời nói khéo-khôn về chuyện ép-nài đôi lứa.
Cương thường : là những giềng-mối của người đời tức tam cương ngũ thường,
di luân : là đạo thường làm người
đông quân : thần coi về phương đông, cũng gọi là đông hoàng ; chúa xuân,
dẫn điền : Dẫn là khước đi không chịu, Điền : thế vào. Dẫn điền là trả của dùng làm lễ cưới.
Tước bình : tước là con công hoặc con se-sẻ. Bình : cái tranh để chắn gió. Đây dùng điển chọn rể giỏi.
sau xưa : là sự quen biết thân tình đã lâu đời rồi.
Nâng khăn : nâng khăn sửa túi là bổn phận đàn-bà ở với chồng,
nửa mặt : do chữ bản diện, nghĩa bóng mới thấy nhau một lần chưa gọi gì quen lắm,
tấc : là tấc lưỡi.