Chương 45 -51
Tác giả: PAULO COELHO
45
Họ dẫn hai người đến một doanh trại gần đó. Một người lính đẩy cậu và nhà luyện kim đan vào một cái lều trông khác những lều cậu từng biết ở ốc đảo. Trong lều người chỉ huy đang họp bàn với ban tham mưu.
“Bọn này là gián điệp”, một người nói
“Chúng tôi chỉ là khách lữ hành thôi”, nhà luyện kim đan đáp.
“Ba ngày trước có kẻ trông thấy bọn mi ở khu trại địch, trò chuyện với một tay lính ở đó”.
“Tôi chỉ là một người vượt sa mạc và biết xem sao trời tìm phương hướng”, ông đáp. “Tôi chẳng biết gì về các đạo quân hay sự chuyển quân của các bộ tộc. Tôi chỉ làm người dẫn đường cho bạn tôi đây thôi”.
“Ai là bạn mi?” Viên chỉ huy hỏi
“Một nhà luyện kim đan”, ông đáp. “Anh ta hiểu được sức mạnh của thiên nhiên và muốn biểu dương cho mấy người thấy năng lực phi thường của mình”.
Cậu im lặng lắng nghe mà lòng đầy sợ hãi.
“Gã ngoại quốc này đến đây với ý đồ gì?” Một người khác hỏi
“Anh ta mang tiền đến tặng bộ tộc của mấy người”, nhà luyện kim đan đáp trước khi cậu kịp mở miệng.
Rồi ông ta chụp cái bị của cậu, lấy số tiền vàng đưa cho viên chỉ huy. Viên chỉ huy Arập này cầm lấy tiền song không nói một lời. Đủ để hắn mua nhiều súng ống.
“Nhà luyện kim đan là nhà gì?” Hắn muốn biết
“Là một người hiểu được thiên nhiên và thế giới. Nếu muốn, anh ta có thể chỉ dùng sức gió mà tàn phá được doanh trại này”.
Đám người kia phá lên cười. Họ còn lạ gì sự tàn phá của chiến tranh và biết rằng gió không thể nào giết nổi ai. Tuy vậy tim họ vẫn thót lại. Vì là người sa mạc nên họ vẫn sợ các thầy phù thủy.
“Tôi muốn được tận mắt thấy gã làm chuyện đó”, viên chỉ huy nói.
“Anh ta cần ba ngày”, nhà luyện kim đan đáp. “Anh ta sẽ biến thành gió để chứng tỏ năng lực của mình. Nếu như anh ta không làm được thì chúng tôi xin cúi đầu dâng mạng sống cho bộ tộc các người”.
“Bọn mi không thể dâng cái đã nằm sẵn trong tay ta”, viên chỉ huy khinh miệt đáp, tuy nhiên hắn vẫn đồng ý cho họ thời hạn ba ngày.
Cậu hoảng vía như bị tê liệt, khiến nhà luyện kim đan phải nắm tay dìu cậu ra khỏi lều.
“Đừng để họ thấy cậu sợ”, ông nói. “Bọn họ là những kẻ dũng cảm nên rất khinh những ai hèn nhát”.
Nhưng cậu không thốt nên lời. Mãi sau khi đã đi lại một lúc trong khu trại cậu mới mở miệng nổi. Những người Arập thấy không cần giam giữ họ mà chỉ cần tịch thu ngựa là đủ. Thế là một lần nữa thế giới lại cho thấy ngôn ngữ đa dạng của nó: mới đó là sa mạc còn là mênh mông, thoắt giờ đây đã thành một bức tường không vượt qua nổi.
“Ông đã đưa cho họ hết mọi của cải mà cháu đã suốt đời dành dụm”, cậu tức giận nói.
“Ừ, nhưng cậu cần chúng làm gì nữa nếu sắp phải chết?” Nhà luyện kim đan đáp. “Tiền của cậu cho chúng ta sống thêm ba ngày nữa. Không phải lúc nào tiền cũng cứu được mạng người đâu”.
Nhưng vì cậu quá sợ nên không thể nghe lọt tai những lời sáng suốt kia. Cậu không biết phải biến thành gió như thế nào vì cậu có phải nhà luyện kim đan đâu. Nhà luyện kim đan xin một người lính chút ít trà, rưới lên cổ tay cậu, miệng lẩm bẩm những lời cậu không hiểu, song cậu thấy trong lòng tràn dâng cảm giác yên bình
“Đừng để nỗi sợ áp chế mình”, giọng ông dịu dàng khác thường. “Bằng không cậu không thể trò chuyện với tim mình được đâu”.
“Nhưng cháu không biết phải biến thành gió như thế nào”
“Người nào sống trọn đường đời của mình, người đó biết tất cả những gì cần biết. Chỉ có một điều khiến không thể nào đạt được ước mơ: đó là sợ rằng sẽ thất bại”.
“Cháu không sợ thất bại, mà chỉ không biết phải biến thành gió như thế nào thôi”.
“Thế thì cậu phải học. Mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào đó”
“Nếu cháu không làm được thì sao?”
“Thì cậu sẽ chết trong lúc cố sống theo vận mệnh mình. Như thế vẫn hay hơn là phải chết như hàng triệu người không hề biết vận mệnh họ là gì. Nhưng đừng lo”, nhà luyện kim đan nói tiếp. “Khi đứng ở ngưỡng cửa cõi chết người ta thường cảm nhận sâu sắc hơn về cuộc sống”.
Ngày đầu tiên trôi qua. Một trận đánh lớn diễn ra gần đó và nhiều người bị thương được đưa về khu trại. Những người tử trận được thay bằng lính mới và dòng đời vẫn tiếp tục.
“Cái chết chẳng làm thay đổi gì hết”, cậu nghĩ
“Làm gì mà chết vội thế”, một người lính nói với cái xác của bạn gã. “Đợi thanh bình rồi chết cũng được cơ mà. Nhưng mà trước sau gì thì bạn cũng chết thôi”.
Chiều tối cậu đi tìm nhà luyện kim đan. Ông đang định đưa chim ưng đi săn.
“Cháu vẫn chưa biết phải biến thành gió như thế nào” …
“Hãy nhớ lại những gì ta đã nói: thế giới chỉ là phần thấy được của Thượng Đế. Thuật luyện kim đan có nhiệm vụ chuyển sự toàn mĩ của tâm linh sang thế giới vật chất”
“Ông làm gì bây giờ?”
“Nếu cháu không biến nổi thành gió thì cả ba chúng ta đều sẽ phải chết”, cậu nói. “Cho nó ăn làm gì nữa”.
“Chỉ có cậu sẽ chết thôi”, nhà luyện kim đan đáp. “Còn ta biết phải biến thành gió như thế nào chứ”.
46
Ngày thứ hai cậu leo lên đỉnh một khối đá gần khu trại. Lính gác để cậu đi; họ đã nghe nói về một phù thủy có khả năng biến thành gió nên không muốn đến gần cậu. Hơn nữa sa mạc như một bức tường thành không thể vượt nổi. Cậu ngồi đó mãi cho đến chiều, nhìn ra sa mạc và lắng nghe trái tim mình. Cả sa mạc cũng lắng nghe nỗi sợ của cậu. Trái tim cậu và sa mạc vốn nói cùng một thứ ngôn ngữ
47
Sang ngày thứ ba viên chỉ huy triệu tập các sĩ quan của mình.
Hắn gọi nhà luyện kim đan đến rồi nói: “Chúng ta ra xem gã kia biến thành gió như thế nào”.
“Rồi khắc biết”, nhà luyện kim đan đáp .
Cậu dẫn họ đến khối đá hôm qua, yêu cầu mọi người ngồi đó
“Phải đợi khá lâu đấy”, cậu nói
“Đâu có gì vội”, viên chỉ huy đáp. “Chúng ta là dân sa mạc mà”.
48
Cậu nhìn quanh mình. Xa xa phía chân trời kia là núi, đồi cát, đá tảng và các bụi cây leo. Ở một nơi như không thể nào có nổi sự sống mà cây cỏ vẫn cố bám vào đó để sống. Sa mạc này cậu đã đi qua nhiều tháng ròng, thế mà chỉ biết có một phần rất nhỏ của nó. Trong thời gian này cậu đã gặp một người Anh, thấy nhiều đoàn lữ hành, một ốc đảo với năm chục nghìn cây chà là và ba trăm giếng nước; cậu cũng đã chứng kiến cuộc xung đột giữa các bộ tộc.
“Sao bữa nay bạn còn đến đây?” Sa mạc hỏi cậu. “Hôm qua chẳng lẽ mình nhìn nhau chưa đủ à?”
“Bạn giữ người tôi yêu ở một nơi nào đó”, cậu đáp. “Cho nên nhìn ngắm biển cát trải dài vô tận của bạn cũng là ngắm nhìn nàng. Tôi muốn quay về với nàng nên cần bạn giúp tôi biến thành gió”.
“Yêu nghĩa là gì?” Sa mạc hỏi
“Yêu giống như khi chim ưng bay trên biển cát của bạn. Bởi vì đối với chim thì bạn là một cánh đồng xanh màu mỡ và nó chẳng bao giờ quay về mà không săn được gì. Nó rành rẽ các tảng đá, các đồi cát, núi non của bạn, còn bạn thì hào phóng đối với nó”.
“Nó cướp đoạt của tôi thì có”, sa mạc đáp. “Tôi nuôi những con mồi của nó nhiều năm ròng, cho chúng uống số nước ít ỏi tôi có được rồi tôi lại chỉ cho nó con mồi ở đâu. Một ngày kia, khi tôi đang vui sướng thấy con mồi của nó chập chững đi trên bãi cát của tôi thì nó từ trên bầu trời cao bổ xuống, cướp đi công trình tôi đã nuôi”.
“Nhưng bạn nuôi những con mồi cũng chính vì mục đích ấy thôi”, cậu đáp. “Để nuôi chim ưng, rồi chim ưng nuôi người. Và cuối cùng, đến một ngày nào đó con người nuôi lại bãi cát của bạn để các con mồi lại lớn lên. Đó chính là sự vận động của vũ trụ.”
“Yêu là thế à?”
“Phải, yêu là thế đấy. Nó biến con mồi thành chim ưng, chim ưng thành người, rồi đến lượt người biến thành sa mạc. Nó biến chì thành vàng rồi đưa vàng trở về với lòng đất”.
“Tôi chẳng hiểu bạn nói gì cả”, sa mạc nói.
“Nhưng ít ra bạn cũng hiểu được rằng ở một nơi nào đó giữa các đồi cát của bạn có một cô gái đang mong đợi tôi. Chính vì thế mà tôi phải biến thành gió”.
Sa mạc làm thinh một lúc rồi mới nói với cậu: “Tôi sẽ cho bạn cát để gió thổi, nhưng một mình tôi thì chẳng làm gì được đâu. Bạn phải yêu cầu gió mới giúp được”.
Một làn gió nhè nhẹ nổi lên. Những người Arập quay nhìn cậu; họ không hiểu thứ tiếng cậu nói đó. Nhà luyện kim đan mỉm cười. Gió mơn man khuôn mặt cậu. Nó nghe được những gì cậu nói với sa mạc, vì gió biết hết mọi chuyện. Nó đi khắp thế giới nhưng không có chỗ nào là khởi điểm, cũng không có nơi nào để gió dừng lại vĩnh viễn.
“Giúp tôi với”, cậu nói. “Mới gần đây bạn đã đem đến cho tôi giọng nói của người tôi yêu”.
“Ai dạy bạn nói tiếng nói của sa mạc và gió?”
“Trái tim tôi đấy”, cậu đáp.
Gió có rất nhiều tên. Ở vùng này người Arập gọi nó là Sirocco và tin rằng nó mang hơi ẩm từ vùng đất ngập nước, nơi cư trú của người da đen; ở vùng đất xa xôi quê hương của cậu người ta gọi nó là Lavante, vì cho rằng nó mang theo cát sa mạc và tiếng thét xung trận của người Mauren; còn ở những vùng xa nữa, phía sau những đồng cỏ cậu vẫn thả cừu, thì người ta cho rằng gió đến từ Andalusia. Nhưng đúng ra gió chẳng đến từ một nơi nào cả, cũng chẳng đi đâu hết; vì thế mà nó mạnh hơn cả sa mạc. Một ngày nào đó có thể sẽ có người trồng được cây trên sa mạc, thậm chí nuôi được cừu ở đó nữa, nhưng sẽ không ai khống chế được gió.
“Bạn không thể thành gió được, vì thể chất chúng mình khác nhau hoàn toàn”, gió nói.
“Không đúng”, cậu đáp. “Trên đường đi, tôi đã học được những bí mật của thuật luyện kim đan. Trong người tôi tập hợp đủ cả gió, sa mạc, đại dương, sao trời và mọi thứ trong vũ trụ. Chúng ta đều cùng do một bàn tay tạo ra và có cùng một linh hồn. Tôi muốn được như bạn, có thể đến khắp mọi ngóc ngách, vượt biển cả, thổi bay lớp cát che phủ kho báu của tôi và đem đến đây tiếng nói của người con gái tôi yêu”.
“Mấy hôm trước tôi có nghe bạn trò chuyện với nhà luyện kim đan”, gió nói. “Ông bảo mỗi sự vật đều có vận mệnh riêng. Con người không thể biến thành gió được”.
“Bạn hãy dạy tôi cách biến thành gió một vài khoảnh khắc thôi; như thế bạn và tôi có thể chuyện trò và khả năng vô hạn của người và gió”, cậu nói.
Gió thêm hiếu kì; đó là điều chưa từng có. Nó muốn chuyện trò tiếp về những chuyện ấy nhưng không biết phải biến người thành gió ra sao. Thế mà nó vốn làm được khối chuyện cơ đấy! Tạo nên sa mạc này, đánh chìm tàu này, đốn ngã biết bao khu rừng này, thổi qua các thành phố lớn đầy âm nhạc và những âm thanh lạ này. Nó nghĩ rằng mình làm được hết rồi, thế mà một gã trai bảo rằng vẫn còn bao chuyện khác nữa gió có thể làm được.
“Cái đó gọi là tình yêu”, cậu nói khi thấy gió sắp xiêu lòng. “Khi yêu, người ta có thể tạo dựng nên tất cả. Khi yêu thì không cần phải hiểu chuyện gì đang xảy ra vì mọi sự diễn ra trong chính mình. Khi yêu thì ngay cả người cũng có thể biến thành gió được. Tất nhiên phải được gió giúp sức”.
Gió vốn tự cao nên không hài lòng khi nghe cậu nói. Nó bèn thổi mạnh hơn làm cát bay mù. Nhưng rồi nó phải thừa nhận rằng tuy vẫn đi khắp thế giới thật nhưng cũng không biết làm thế nào để biến được người thành gió, và cũng chẳng biết gì về tình yêu cả.
“Trên đường vòng quanh thế giới tôi thường được nghe người ta nhìn lên trời, nói về tình yêu”, gió điên tiết nhìn nhận khả năng hạn chế của mình.
“Có lẽ bạn nên hỏi trời xanh kia xem sao”
“Được, bạn hãy giúp tôi bằng cách tung đầy cát vào không khí, che khuất mặt trời để tôi nhìn thấy mặt trời mà không sợ mù mắt”, cậu đáp.
Gió bèn phùng má thổi. Một đám mây cát che kín bầu trời và mặt trời trông chỉ như cái đĩa vàng. Ở doanh trại người ta không nhìn thấy gì nữa cả. Những người dân sa mạc đã quá quen với thứ gió mà họ gọi là Samum này. Đối với họ thì nó còn ghê gớm hơn bão tố trên biển cả, dù họ không biết biển là gì. Ngựa hí vang, khí giới phủ đầy cát.
Trên mỏm khối đá, một viên sĩ quan quay sang nói với viên chỉ huy: “Có lẽ mình nên chấm dứt thôi!”
Họ không còn có thể nhìn thấy cậu nữa. Mặt họ che bằng khăn màu xanh chỉ để lộ những cặp mắt kinh hoàng.
“Chấm dứt thôi”, một người khác nói.
“Tôi muốn được chứng kiến sự vĩ đại của Allah”, giọng viên chỉ huy đầy thành kính. “Tôi muốn được thấy người biến thành gió như thế nào”.
Nhưng hắn ghi nhớ tên hai người vừa tỏ ra sợ hãi kia. Khi lặng gió hắn sẽ cách chức họ vì đàn ông sa mạc không được phép biết sợ là gì.
“Gió bảo tôi rằng bạn biết về tình yêu”, cậu nói với mặt trời. “Nếu đúng thế thì bạn cũng phải biết về tâm linh vũ trụ vốn được hình thành từ tình yêu”.
“Từ trên cao này”, mặt trời đáp, “tôi có thể trông thấy tâm linh vũ trụ. Chúng tôi vẫn cùng hợp lực làm cho cây cỏ lớn lên, khiến cừu biết tìm bóng mát. Từ chỗ này của tôi – xa mặt đất lắm nhé – tôi học được cách yêu. Tôi biết rằng chỉ cần mình xích lại gần mặt đất một chút xíu thôi cũng đủ khiến mọi vật bị hủy diệt và tâm linh vũ trụ cũng không tồn tại được nữa. Cho nên hai chúng tôi thân ái nhìn ngắm nhau; tôi cống hiến ánh sáng và hơi ấm còn nó cho tôi lẽ sống.”
“Vậy là bạn biết về tình yêu rồi”, cậu nói
“Tôi biết rõ cả tâm linh vũ trụ vì chúng tôi trò chuyện cùng nhau rất nhiều suốt cuộc hành trình bất tận trong vũ trụ. Tâm linh vũ trụ bảo rằng khó khăn lớn nhất của nó là cho tới nay chỉ có thú vật và cây cỏ hiểu được tất cả là một, rằng thật ra sắt chẳng cần gì phải giống như đồng hay đồng giống như vàng. Mỗi loại cứ làm tròn nhiệm vụ của mình thì tất cả sẽ cùng làm thành một bản giao hưởng của hòa bình - nếu như bàn tay đã viết tất cả những điều này ngừng lại vào ngày sáng thế thứ năm. Nhưng mà còn ngày thứ sáu nữa”, mặt trời nói.
“Bạn sáng suốt lắm, bởi vì bạn quan sát sự vật từ xa”, cậu nói. “Nhưng bạn không biết về tình yêu. Nếu không có ngày thứ sáu thì sẽ không có con người, đồng sẽ mãi là đồng, chì chỉ là chì. Đúng là mọi thứ có vận mệnh của nó và sẽ có một ngày vận mệnh hoàn thành. Rồi mỗi sự vật chuyển hóa thành tốt hơn, mang vận mệnh mới cho đến khi tâm linh vũ trụ chỉ còn là một tổng thể duy nhất”.
Mặt trời trầm ngâm một lúc rồi chiếu sáng hơn nữa. Gió rất thú vị với cuộc trò chuyện nên ra sức thổi mạnh hơn để mặt trời khỏi làm mù mắt cậu.
“Chính vì thế mà có thuật luyện kim đan”, cậu nói. “Để rồi ai cũng mơ ước tìm kiếm kho báu của mình, rồi muốn được khá hơn kiếp trước. Chì sẽ giữ vai trò của nó cho đến khi thế giới không cần chì nữa, thế là chì sẽ phải biến thành vàng. Đó chính là việc của các nhà luyện kim đan. Họ cho thấy khi chúng ta ra sức tự hoàn thiện thì mọi sự vật quanh ta cũng hoàn mĩ theo”.
“Vậy tại sao bạn bảo tôi không biết về tình yêu?” Mặt trời hỏi cậu.
“Vì tình yêu không tĩnh tại như sa mạc, cũng không lang thang cùng khắp thế giới như gió, cũng không phải đứng từ xa nhìn sự vật như bạn vậy. Tình yêu là sức mạnh làm chuyển biến và nâng tâm linh vũ trụ lên cao hơn nữa. Lần đầu tiên, khi nhập vào tâm linh vũ trụ, tôi tưởng nó là tuyệt mĩ rồi. Về sau tôi mới biết nó là phản ảnh của tạo vật, nghĩa là cũng mang trong nó chiến tranh và đam mê. Chúng ta nuôi dưỡng tâm linh vũ trụ, và thế giới của chúng ta trở nên tốt hay xấu hơn tùy theo bản thân chúng ta tốt hay xấu hơn. Ở điểm này mới thấy được vai trò sức mạnh của tình yêu, vì khi yêu chúng ta cố trở nên tốt hơn”
“Bạn muốn gì ở tôi?” Mặt trời hỏi
“Tôi muốn bạn giúp tôi biến thành gió”, cậu đáp
“Thiên nhiên công nhận tôi là tạo vật, sáng suốt nhất trong muôn loài”, mặt trời đáp.
“Nhưng tôi không biết cách biến bạn thành gió”
“Vậy tôi phải hỏi ai?” Mặt trời ngẫm nghĩ một lúc.
Ngọn gió kia đang lắng nghe và nhất định sẽ đi rêu rao cùng khắp rằng khả năng của mặt trời cũng hạn chế thôi. Mặt trời không dễ thoát khỏi cái anh chàng nói thứ ngôn ngữ vũ trụ này.
“Bạn hãy hỏi bàn tay đã ghi chép lên mọi sự”, mặt trời đáp.
Gió reo mừng thổi mạnh hơn bao giờ hết, cuốn tung các mái lều, giật đứt dây ngựa buộc. Trên đỉnh tảng đá những người Arập ôm chặt lấy nhau để khỏi bị thổi bay đi. Cậu hướng lòng mình về cái bàn tay đã ghi chép mọi sự. Cậu cảm thấy vũ trụ nín lặng nên cũng nín lặng luôn. Tình yêu trào dâng từ trái tim cậu; lần đầu tiên trong đời cậu lẩm nhẩm một bài kinh không lời, không có cầu xin. Cậu không cám ơn vì lũ cừu đã tìm ra đồng cỏ mượt, không cầu xin bán được nhiều hàng pha lê hơn nữa, hay cầu xin để người con gái cậu yêu chờ đợi cậu trở về. Trong sự yên ắng cậu hiểu rằng sa mạc, gió và mặt trời cũng đang cố hiểu những dấu hiệu được vẽ lên từ bàn tay nọ để tìm ra con đường của mình và để hiểu những gì đã khắc trên phiến ngọc. Cậu biết rằng những dấu hiệu này rải rác trên mặt đất và khắp vũ trụ; nhìn bề ngoài thì chúng chẳng cho thấy một ý nghĩa nào cả nên sa mạc, gió, mặt trời và con người không biết những dấu hiệu ấy được tạo ra để làm gì. Chỉ có bàn tay nọ biết căn nguyên của mọi điều và chỉ riêng nó làm được những phép lạ như thành gió. Bởi bàn tay đó thấu hiểu rằng có một lực siêu phàm đã xoay vần vũ trụ tới mức sáu ngày sáng thế chuyển hóa thành Công trình vĩ đại. Cậu nhập vào tâm linh vũ trụ và nhận biết rằng nó là một phần linh hồn Hóa công và linh hồn Hóa công là linh hồn của chính cậu. Như thế tự cậu cũng có thể làm được phép lạ.
49
Ngày hôm ấy ngọn gió Samum thổi dữ dội chưa từng thấy. Nhiều đời sau người Arập sẽ còn kể về huyền thoại một chàng trai đã không khiếp nhược trước viên chiến tướng sa mạc và đã hoá thành gió, phá hầu như tan hoang cả một doanh trại. Khi lặng gió mọi người nhìn về phía cậu ngồi, nhưng cậu không còn ở chỗ cũ nữa mà đang đứng cạnh môt người lính canh bị cát vùi lấp, tuốt phía bên kia doanh trại. Mọi người khiếp đảm trước trò quỷ thuật này. Nhưng vẫn có hai người cười, đó là nhà luyện kim đan vì ông đã tìm ra được một học trò xuất sắc và viên chỉ huy, vì hắn đã được chứng kiến quyền năng tuyệt vời của Thượng Đế. Hôm sau, viên chỉ huy từ giã nhà luyện kim đan và cậu rồi cho một đoàn lính tháp tùng hai người tới bất kì nơi nào họ muốn.
50
Sau khi đã đi suốt ngày, chiếu tối họ tới được một tu viện Côptic. Nhà luyện kim đan bảo đoàn tháp tùng quay về rồi xuống ngựa.
“Từ đây cậu có thể tự mình đi tiếp được rồi đấy”, ông nói. “Chỉ cần ba tiếng nữa là tới Kim Tự Tháp”.
“Cám ơn ông đã dạy cháu ngôn ngữ vũ trụ”, cậu đáp.
“Ta chỉ gợi cho cậu nhớ lại những gì cậu đã biết từ trước thôi”. Nhà luyện kim đan gõ cổng tu viện.
Một tu sĩ mặc toàn đen ra mở cửa. Họ nói với nhau mấy câu bằng tiếng Côptic rồi nhà luyện kim đan bảo cậu vào.
“Ta vừa mới yêu cầu tu sĩ nọ cho phép sử dụng cái bếp một lúc”, ông nói.
Họ đi vào bếp. Nhà luyện kim đan nhóm lửa còn tu sĩ nọ lo mang chì đến để nhà luyện kim đan nấy chảy trong một thùng sắt. Khi chì đã hóa lỏng, nhà luyện kim đan móc túi ra quả trứng lạ lùng bằng thủy tinh màu vàng. Ông cạo một chút, mảnh như sợi tóc, lấy sáp bọc lại rồi bỏ vào thùng. Chất lỏng biến thành đỏ như máu. Rồi ông bưng thùng khỏi bếp, để nguội. Trong khi chờ đợi ông trò chuyện với người tu sĩ về cuộc xung đột giữa các bộ lạc.
“Sẽ còn kéo dài lâu”, ông nói.
Người tu sĩ tỏ vẻ bực dọc. Từ lâu nay các đoàn lữ hành đã phải nằm ở Gizeh chờ cuộc xung đột kết thúc.
“Nhưng rồi đâu cũng sẽ vào đấy, như ý Thượng Đế muốn cả thôi”, tu sĩ nói.
“Đúng thế”, nhà luyện kim đan đáp.
Khi thùng nguội, người tu sĩ và cậu nhìn vào mà kinh ngạc. Chì đã khô lại dưới đáy thùng hình tròn, song không phải là chì nữa mà là vàng.
“Một ngày nào đó cháu cũng sẽ làm được như vậy chứ?” Cậu hỏi
“Đó là vận mệnh của ta chứ không phải của cậu”, nhà luyện kim đan đáp. “Ta làm chỉ để cho cậu thấy rằng có thể làm được”.
Rồi ông chia chỗ vàng đó làm bốn phần.
“Để cám ơn thầy”, ông nói và đưa tu sĩ một phần.
“Thế là quá nhiều so với những gì tôi đã làm”, tu sĩ nói.
“Thầy chớ nói thế nữa, kẻo Đời nghe thấy thì lần tới thầy sẽ được ít hơn đấy”.
Rồi ông quay sang cậu.
“Phần này để đền cậu số tiền đã trả cho viên tư lệnh”.
Cậu muốn nói rằng như thế là quá nhiều so với số tiền nọ song lại thôi, vì vừa được nghe những gì nhà luyện kim đan nói với người tu sĩ.
“Phần này tôi giữ”, ông nói và cất đi. “Vì tôi còn phải vượt sa mạc và vùng có chiến sự để về nhà”.
Phần thứ tư ông đưa cho tu sĩ “Phần này để phòng khi cậu nhỏ đây cần đến”.
“Nhưng mà cháu sắp tìm thấy kho báu rồi còn gì”, cậu đáp
“Ta tin rằng cậu sẽ tìm thấy”, nhà luyện kim đan nói
“Vậy phần cháu thêm làm gì nữa?”
“Vì cậu đã hai lần mất sạch: một lần bị gã lưu manh bịp, một lần trả thù cho viên chỉ huy nọ. Ta là một lão già Arập mê tín, tin vào châm ngôn nước mình. Châm ngôn đó như thế này: “Những gì đã xảy đến với anh một lần có thể không bao giờ xảy ra nữa; nhưng những gì đã xảy ra hai lần thì nhất định sẽ thêm lần thứ ba”.
Rồi họ lại lên ngựa.
51
“Trước khi chia tay ta muốn kể cho cậu nghe một câu chuyện về giấc mơ”, nhà luyện kim đan nói.
Cậu bèn cho ngựa chạy sát lại gần.
“Ở La Mã cổ đại, vào thời hoàng đế Tiberius, có một ông già kia có hai người con trai. Một người con đi lính và phải đi đến những vùng đất xa xôi nhất của đế quốc. Người con kia là thi sĩ và cả La Mã yêu thích những bài thơ tuyệt vời của anh ta. Một đêm kia ông bố nằm mộng thấy thiên thần hiện đến bảo rằng những câu nói của một trong hai người con ông được cả thế giới biết và được truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người cha thức giấc, thầm cảm tạ Thượng Đế và khóc vì sung sướng bởi cuộc đời quá hào phóng đã cho ông biết những điều mà mọi người cha đều tự hào. Không lâu sau đó ông chết vì muốn cứu một đứa trả khỏi bị xe ngựa cán. Vì ông sống ngay thẳng, đàng hoàng nên được lên ngay thiên đường. Ở đây ông gặp thiên thần báo mộng cho ông.
“Ông là một người tốt”, thiên thần nói. “Ông sống thương yêu người, ông chết vì làm việc phải. Do đó ta sẽ thỏa mãn bất cứ điều gì ông ước muốn”.
“Cuộc đời cũng đã rất ưu đãi tôi”, ông già đáp. “Ngày nọ, ngài đến với tôi trong giấc mơ thì tôi thấy mọi công lao của mình đã được đền bù vì thơ của con tôi sẽ còn được truyền tụng hàng trăm năm sau nữa. Cá nhân tôi không mong muốn gì cả, nhưng người cha nào chẳng tự hào về đứa con mình đã nuôi dạy. Thành ra tôi muốn rằng, trong một tương lai xa, được nghe những câu nói của con tôi”.
Thiên thần bèn vuốt vai ông và hai người bước vào tương lai xa. Cả nghìn người đứng quanh họ ở một quãng trường rộng lớn, nói với nhau bằng một thứ tiếng lạ.
Ông già khóc vì sung sướng “Tôi biết mà! Thơ của con tôi hay và trở thành bất tử mà”, ông xúc động nói với thiên thần.
“Tôi rất muốn biết người ta đọc bài thơ nào của nó ở chốn này”.
Thiên thần âu yếm nắm tay ông già rồi hai người cùng ngồi xuống một trong những ghế dài trên quãng trường.
“Thơ của con trai ông rất được yêu chuộng ở La Mã xưa”, thiên thần đáp. “Nhưng sau triều đại của Tiberius thì thơ của con ông cũng bị rơi vào lãng quên. Những lời mà người ta đang nói đây là của anh con trai đi lính cơ”.
Ông già sửng sốt nhìn thiên thần.
“Anh con trai đó phục vụ ở một nơi xa và lên đến chức tư lệnh. Anh ta cũng là một người tốt và chính trực. Một ngày nọ người hầu của anh ốm nằm chờ chết. Người con ông nghe nói có một tu sĩ Do Thái chữa được bệnh tật nên đi hết ngày này sang ngày khác để tìm tu sĩ đó. Trên đường đi anh được biết người mình tìm đó là con của Thượng Đế. Anh gặp những người đã được tu sĩ nọ chữa lành bệnh và họ dạy anh những điều tu sĩ kia đã truyền dạy. Rồi, tuy là một chiến binh La Mã, anh đã cải đạo. Không lâu sau đó anh gặp nhà tu sĩ. Anh kể ông nghe về bệnh tình của người hầu. Nhà tu sĩ tỏ ý sẵn sàng đi đến nhà anh. Nhưng con trai ông là một người một đạo nên khi nhìn vào mặt nhà tu sĩ anh biết chính đó là con Thượng Đế. Và đây là những lời con trai ông lúc ấy đã nói với tu sĩ và sẽ đời đời được truyền tụng:
“Lạy Chúa, con không xứng đáng để được đón Người vào nhà. Xin Chúa hãy phán truyền cho một tiếng thì kẻ đầy tớ của con sẽ khỏi bệnh ngay.”
“Bất kể giàu hay nghèo, sang hay hèn, ai cũng đều có một vai trò chính trong lịch sử thế giới. Có điều phần nhiều người ta không biết đó thôi”, nhà luyện kim đan nói rồi thúc ngựa đi.
Cậu mỉm cười. Làm sao cậu ngờ được rằng cuộc đời một kẻ chăn cừu lại có thể được xem là quan trọng nhường ấy.
“Vĩnh biệt!” Nhà luyện kim đan nói
“Vĩnh biệt!” Cậu đáp