- 1 -
Tác giả: Quái Đàm Hiệp Hội
Mấy năm trước, tôi có ăn phở ở một thị trấn của huyện nhỏ, không ngờ, bát phở đó đã làm thay đổi cả cuộc đời tôi.
Ông chủ gánh phở rong đi chiếc xe đạp, sau yên xe có đèo thêm chiếc sọt đan bằng cành liễu, cả thức ăn toàn bộ gia sản đều nằm trong chiếc chén nhỏ bằng sứ xanh rồi mang cho tôi. Bát phở đó tôi đã ì à ì ạch ăn trong hơn nửa giờ, ăn xong tôi bắt chuyện với ông lão, rồi tôi đã mua cái bát xanh bằng sứ đó với giá hơn hai mươi đồng.
Ngay hôm đó, tôi không có thời gian để tiếp tục công việc kiếm tiền mà tôi đang thực hiện nữa, lập tức bắt xe trở về. Trong suốt quãng đường đi, tim tôi cứ đập liên hồi. Tuy chưa được xác nhận chính xác, nhưng tôi tin rằng, bảo bối tôi có được đó là cái chén được làm từ đời Nguyên. Chiếc bát đó không những quý vì nó là cổ vật mà nguyên liệu làm ra nó cũng rất hiếm, công dụng chủ yếu là để cúng tế, rất hiếm trong dân gian. Không biết mộ tổ nhà tôi có phải đã mọc cỏ cảo không mà khiến tôi có được chiếc bát này.
Chiếc bát nhỏ đó đã bán với giá tám mươi vạn nhân dân tệ, đó là món thu nhập lớn nhất kể từ khi tôi buôn bán đến nay! Nửa năm sau, khi đọc một tin trên mạng, tôi được biết cũng chiếc bát đó đã được bán với giá hơn hai triệu.
Từ đó, tôi bắt đầu theo định kỳ đi đến các vùng hẻo lánh và những ngôi làng ma, mua lấy những cổ vật vô giá mà người dân ở đó thường xem như đồ bỏ đi. Quả thực, tôi đã trở thành người buôn đồ cổ. Khi bước vào nghề tôi chỉ đặt ra mục tiêu là kiếm tiền, lừa đảo những người nghèo nàn thiếu học, thiếu hiểu biết. Nhưng về sau, tôi đã nghiện cái nghề này. Trước khi hành nghề tôi là một nhà thơ, mấy năm liền trước đó nó khiến tôi không còn lòng dạ nào kinh doanh nữa, đã không kiếm được tiền mà người tôi xem ra bốc lên toàn mùi đồng và mùi đồ cổ. Sau khi trở thành người buôn đồ cổ, tôi đã đi du lịch khắp đó đây trên thế giới, điều đó đã thỏa trí nguyện ngao du sơn thủy, khi tìm được báu vật trong đống đổ nát hoang phế, tôi bỗng thấy tự hào hơn cả Cô_Lôm_Bô khi phát hiện ra châu lục mới.
Hiện nay, trong một năm phải có hơn tám, chín tháng ròng tôi ở trong những ngôi làng hẻo lánh để truy tìm cổ vật. Tuy rằng có lúc suốt cả mấy tháng liền tôi chẳng kiếm được món đồ cổ nào, nhưng trong lòng tôi luôn kiên định niềm tin sẽ có ngày kiếm được bảo bối. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng trên đời này còn có nhiều đồ cổ vật đang khuất lấp sau lớp bụi nhơ bẩn chờ bàn tay tôi mang chúng trở lại trong ánh hào quang của tiền bạc. Mùa hè năm nay, tôi đã ngồi trên xe suốt hơn bốn mươi giờ, đi đến các ngôi làng hẻo lánh vùng Tây Nam Trung Quốc.
Trong huyện lỵ nhỏ bé hẻo lánh nghèo nàn đó, mưa lâm râm suốt ngày suốt tháng, bốn bên đều có núi cao vây chắn, đây quả là một ngôi làng khép kín điển hình. Con đường nhỏ trong huyện sạch bóng sau cơn mưa, những ngôi nhà gỗ và mặt đường lát đá xanh đẹp như tranh thủy mặc.
Ngày ngày, ngoài thời gian đi loanh quanh các con phố, ngõ hẻm ra tôi ngâm mình vào trong một quán trà nhỏ duy nhất trong huyện.
Khách chính trong quán trừ một vài ông lão trong làng ra thì đều là khách vùng khác đến. Người vùng khác rất hiếm khi đến vùng này, người muốn đến quán nhỏ này uống trà càng ít. Trong quán ngoài tôi ra, chỉ còn có hai người trạc tuổi tôi - khoảng hơn ba mươi, thế là tự nhiên chúng tôi ngồi lại với nhau, bàn tán dăm điều ba chuyện mua cười! Trái đất quả là tròn, hóa ra hai người đó cũng là đồng nghiệp với tôi, họ vốn là những người ở thành phố đã quen sống sung túc, được cha mẹ cưng chiều từ nhỏ. Nay phải chịu thiệt thòi, phải chôn mình nơi vùng chó ăn đá gà ăn sỏi này để mong chờ có ngày tìm được báu vật đồ cổ.
Tối hôm đó, chúng tôi ngồi lại với nhau uống rượu.
Lúc đó, tôi mới biết tên đầu trọc là Vương Lỗi, trông hắn vai u thịt bắp, từng lăn lộn trong chốn giang hồ, có lần bị chém phải nằm viện hơn nửa năm, sau khi xuất viện gan hắn bỗng trở thành gan thỏ, không dám cầm dao nữa chứ đừng nói chuyện chém nhau giết người. Ông nội hắn trước từng buôn đồ cổ, ông ta có chút hiểu biết về món chơi này, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, đứa cháu đã kế nghiệp tổ truyền, cũng đi buôn đồ cổ.
Tên nói chuyện cứ lắp ba lắp bắp là Đàm Xuyên, lớn tuổi hơn Vương Lỗi, nhỏ hơn tôi vài tuổi, tên này ít nói, thoạt nhìn cứ tưởng hắn là người mưu sâu kế hiểm, nhưng tiếp xúc lâu thấy hắn là người thật thà. Trước đây hắn ở Cục di sản vì đánh cắp cổ vật nên bị đuổi khỏi cơ quan, từ đó hắn danh chính ngôn thuận trở thành người buôn bán đồ cổ.
Hai tên này đến trước tôi mấy hôm, nhưng công việc làm ăm trong huyện nhỏ nghèo kiệt xác này không ra gì. Ở vùng này tuy là xa xôi hẻo lánh nhưng mỗi năm có đến mấy mươi lượt người đến hỏi mua đồ cổ nên đồ quý giá đã bị họ quét sạch sành sanh.
“Qua mấy hôm nữa, các vùng lân cận và trong vùng này sẽ có buổi chợ phiên ở đây”. - tên Đàm Xuyên nói. Đây cũng là lý do chính khiến chúng tôi ở lại đây.
Nói thực, trong vùng nhỏ tẹo này mà lại đụng hàng thì tôi không thích chút nào và cảm thấy có chút áp lực nào đó! Đồ tốt đã không nhiều lại nhiều người mua, kiểu san sẻ này quả là bất tiện. Nhưng thiết nghĩ. Cái nghề này ngoài vận may ra thì trình độ nghề nghiệp cũng rất quan trọng nên dù nhiều hay ít cũng không thành vấn đề. Nếu thiếu bản lĩnh, thì bảo vật nằm trước mắt cũng không biết.
Trong ngày trời nhiều mây có mưa, cái huyện nhỏ này như ngâm mình trong nước, đâu cũng ẩm thấp, chăn đệm trong quán dường như lúc nào cũng có thể ra nước. Là người bôn ba đã nhiều như tôi vẫn thấy không chịu được, may mà chợ phiên chỉ còn 3 ngày nữa là họp.
Nhiều vùng nông thôn cho đến giờ vẫn còn tiếp tục chợ phiên, mỗi chợ phiên cách nhau càng lâu thì hàng hóa mang ra mua bán càng phong phú. Trong cái huyện này đến nửa năm mới họp một lần nên nhộn nhịp hết sức, quả tôi không ngờ đến. Hơn nữa, hình như trời cũng biết chiều theo lòng người, hơn nửa tháng nay trời hanh ráo, có hôm còn có cả ánh mặt trời. Tôi dạo bước trên đường vào chợ, vừa đi vừa tắm mình trong nắng, vừa phơi “tâm hồn” mình luôn. Đôi mắt cũng như ốc sên ngủ đông, đến hôm trời nắng cứ thế mà bổ lung tung. Chợ tại vùng nông thôn hẻo lánh thông thường người ta chỉ bán những nhu yếu phẩm hàng ngày, thỉnh thoảng các vùng lân cận mang theo những đặc sản của vùng mình. Chợ kéo dài suốt mấy dặm, dường như nó chiếm cả hai con đường giao thông chủ yếu của huyện lỵ này. Nếu nơi đây vẫn còn là một nhà thờ như ngày xưa, thì tôi đã ngất ngây trong cái không khí mang đậm bản sắc văn hóa của từng vùng miền này rồi, nhưng giờ tôi đã là một người buôn đồ cổ, mục tiêu của tôi là mua rẻ mạt những bảo bối bị sự ngu dốt thiếu hiểu biết của người dân che lấp rồi mang chúng lên các thành phố hiện đại để bán kiếm món tiền hời cho nên phiên chợ này, ngược lại tôi thấy mệt lả, chán chường, thất vọng, lưu lại hơn một tuần, tiền trong túi đã hết, hàng cũng không có, chuyến này đành phải gióng trống thu quân, treo cờ trắng thôi!
Quá trưa, tôi ăn qua loa vài miếng cho đỡ đói rồi tiếp tục săn tìm bảo bối. Thời gian đã không phụ lòng người có tâm, chẳng mấy chốc, tôi phát hiện ra một lọ gốm.
“Lọ ngũ Liên”.
Tim tôi như nhảy vọt lên theo đôi mắt, tôi vội quay đầu nhìn dáo dác bốn bể, không phát hiện thấy hai ông bạn “đáng quý” đồng nghiệp kia. Thật hú hồn hú vía! Người xưa nói quả là không sai chút nào: đồng nghiệp tương khắc mà! Lúc đó tôi mới nhìn chàng trai bán lọ kia.
Hắn trạc bốn mươi tuổi, khuôn mặt đen như cột nhà cháy, thô tháp như vẻ ngoài dầm sương dãi nắng đã nhiều. Bây giờ, những người như hắn đi chợ rất nhiều, tuổi thực của họ trẻ hơn nhiều so với hình vóc họ. Họ không nói năng hay chào hàng gì mà cứ ngồi bất động sau sạp hàng chờ người đến hỏi mua đồ. Tôi ngồi xổm trước mặt anh ta, thỉnh thoảng đưa tay hươ hươ mấy chân nấm rừng đã khô trong chiếc sọt tre.
“Món này của anh được đấy, mua về thết bạn bè thì tuyệt đấy!” tôi giả giọng tiếng phổ thông chập chọe để bắt chuyện với anh ta.
Anh ta chẳng nói chẳng rằng, nhưng nhìn vào đôi mắt đầy hy vọng của tôi. Tôi luống cuống hươ mấy cây nấm khô và hỏi: “Bao nhiêu chỗ này?”.
Trên khuôn mặt hắn tỏ ra nét cười gượng gạo. Anh ta vừa ra giá tôi đã biết anh ta là người chất phác nên tôi không trả giá gì cả, cứ thế nhét vào túi đựng. Anh ta đếm một cách cẩn thận, lấy ra tờ năm mươi đồng trả lại, tuy không nói gì nhưng tôi biết đó là số tiền thừa khi mua hàng này nên anh ta trả lại cho tôi. Tôi không cầm tiền mà cầm chiếc lọ lên nói: “Anh cứ cầm đi, tôi mua chiếc bình này nhé?”.
Anh ta cũng không nói gì chỉ ngẩn người nhìn tôi. Tôi cười, trong bụng như hoa xuân đang nở, đoán biết những người trong vùng hẻo lánh này chắc khó lòng cưỡng lại được sức cuốn hút của năm mươi đồng! Ở vùng này giá cả vật dụng rất rẻ, chỉ cần năm mươi đồng đủ mua được khối thứ. Nhưng tôi đã nhầm, anh ta đưa tay giật lấy chiếc lọ trong tay tôi. Lúc đó, trên mặt anh ta nở một nụ cười kỳ quái. Khi bạn thấy trên khuôn mặt chất phác ai đó bỗng nở nụ cười đầy âm mưu, thì bạn sẽ có cảm giác của tôi bây giờ.
“Tiền này trả lại cho anh đấy, vật này không thể cho anh được!” Gã mặt đen nói.
Tôi lấy trong túi ra mấy tờ tiền giấy như kiểu đánh bạc đưa anh ta và bảo: “Thôi thế thì tôi thêm cho anh mấy đồng vậy”.
Gã mặt đen không nói năng gì chỉ cười, bây giờ nụ cười anh ta càng có vẻ quỷ quyệt hơn. Lúc đó, tôi chợt nhớ lại câu chuyện “Bà già mua mèo” rất nổi tiếng. Bà lão lấy cái bát đồ cổ thật quý để cho mèo ăn, trong khi bà ta mang mèo ra chợ bán, chẳng lẽ gã này cũng dùng chiêu mang cái lọ gốm cổ này để chào hàng mong họ mua nấm khô của mình cũng nên.
Nhìn nụ cười trên khuôn mặt của gã mặt đen, tôi thấy mình không thông minh như mình nghĩ.