- I - Ngôi làng thứ hai:
Tác giả: Quái Đàm Hiệp Hội
I.
Ông Trịnh Dung Tân, trưởng phòng lập trình game của tập đoàn phần mềm máy tính họ Trần đột ngột chết ở văn phòng, đã gây xôn xao dư luận. Sau khi khám nghiệm viện pháp y đã đưa ra kết luận ban đầu là ông Tân chết do xơ cứng động mạch tim, đột quỵ!
Với kết quả khám nghiệm đó, Đào Tử phải thở bằng mũi. Ở hiện trường khám nghiệm, Đào Tử đã nhanh nhẹn liên hệ với phía cảnh sát để được tiếp cận tử thi.
Trước hôm ông Tân chết, cô Đào Tử có phỏng vấn ông. Khi đưa những ghi chép trong cuộc phỏng vấn đó cho phía cảnh sát xem, cô Đào nhắc đi nhắc lại rằng, trong khi phỏng vấn, ông Tân không có chút biểu hiện nào của người mắc bệnh cả. Những người hoài nghi cũng cho rằng ông Tân không phải chết vì bệnh.
Mấy hôm nay, các đối thủ cạnh tranh về lập trình phần mềm trò chơi đã nêu ra một số câu hỏi cho tập đoàn viết phần mềm họ Trần. Phần nhiều họ cho rằng, cái chết của lập trình viên Trịnh Dung Tân có khả năng là do ông ta đã tiếp xúc quá nhiều với các trò chơi cảm giác mạnh và lo sợ cao độ. Đồng thời, qua cái chết đó, họ công kích các trò chơi cảm giác mạnh của công ty này. Ông ta muốn thoát ra khỏi cái trò chơi quỷ quái của “Sơn thôn” nhưng không có cách nào thoát ra được, cuối cùng đột quỵ mà chết. Đứng trước dư luận, ông chủ tịch tập đoàn Trần Hoa không tán thành cũng không phản đối, ông ngầm tổ chức một đội ngũ luật sư giỏi, để có thể ứng phó với cơ quan pháp luật bất cứ lúc nào.
Cái chết của ông Trịnh có quá nhiều điểm nghi vấn, đặt cây bút trong tay mình xuống, cô phóng viên Đào Tử nhấc điện thoại lên… “A lô! Xin hỏi đây có phải là phòng lập trình trò chơi của tập đoàn phần mềm game họ Trần không”.
Phía bên kia đầu dây đã được kết nối, trả lời điện thoại là một người đàn ông, giọng còn rất trẻ.
“Xin chào ông, tôi là phóng viên báo “Thân báo”, Đào Tử, xin hỏi khi ông Trịnh không còn nữa, công việc của quý công ty có ảnh hưởng gì không? Và…”
- “Xin lỗi, cô phóng viên Đào”. Lại một điện thoại khác cướp lời nói: “Đang trong giờ làm việc, tôi không tiện trả lời cô được. Nhưng tôi có thể cho cô biết, với một công ty tầm cỡ thì việc thêm hay mất đi một người sẽ không có vấn đề gì cả”.
Bất giác, cô Đào nắm chặt điện thoại, cô hỏi: “Ông có thể cho tôi biết ông là ai?”.
- Tạ Phi, một trong những lập trình viên của công ty. Hiện nay tôi là quyền trưởng phòng lập trình của công ty thay ông Trịnh. - Ông ta vừa dứt lời thì phía bên kia đầu dây cũng cắt điện thoại luôn.
Tạ Phi? Cô phóng viên cố nhẩm đi nhẩm lại cái tên này để đưa vào bộ nhớ khi phỏng vấn công ty. Thế rồi, cô yêu cầu người đồng nghiệp cạnh bàn làm việc của mình cho xem lại cảnh chụp hiện trường vụ án.
Tuy là một phóng viên vừa tốt nghiệp trường báo chí hệ chính quy nhưng Hồ Tử đã có tác phong và kinh nghiệm làm việc như người đã lâu năm trong nghề. Cậu ta nhanh nhẹn mang đến cho cô Đào xem lại toàn bộ ảnh chụp được ở hiện trường và nói: “Chị ạ, chị còn dám xem lại cảnh chụp ở hiện trường vụ án này sao, ghê chết đi được!”.
Cô Đào không đáp, chỉ lặng lẽ lật xem lại từng tấm ảnh hiện trường vụ án. Cô không thể quên được cái chết với khuôn mặt đầy vẻ run sợ của ông Trịnh, khuôn mặt tuy đã chết song vẻ khiếp sợ vẫn còn hằn lại rõ nét, các bộ phận trên khuôn mặt người chết đều nhăn nhúm, miệng há hốc đến nỗi như thể nhìn thấy cả yết hầu. Đôi mắt đờ đẫn trừng trừng lồi ra như muốn rơi xuống khỏi khuôn mặt.
Đột nhiên, dạ dày cô quặn lên, cô muốn nôn oẹ, nhưng vẫn cố gắng kiềm chế, nói với Hồ Tử: “Lát nữa em bảo với ông tổng biên tập là bản thảo chị đã viết xong, chị có việc gấp xin về trước nhé”.
Cô chạy khỏi phòng biên tập như thể bị ma đuổi, tiếng gót giày cao gót nện xuống tầng hầm để xe rộng rãi, vắng teo cứ “bong” “bong” làm cô rất phản cảm.
Một cảm giác ghê sợ vô căn cứ bỗng dấy lên trong tâm trí cô, cô có cảm giác như có hàng vạn đôi mắt trong căn hầm vắng vẻ này đang theo dõi bước chân cô. Lúc đó, cô hơi hối hận vì đã về trước các đồng nghiệp để đến nỗi…
Cô vội lấy chìa khoá ra mở cửa xe rồi nhảy thót vào ghế ngồi, đợi đến khi xe tự động đóng cửa cô mới thấy nhẹ đi phần nào. Nhưng cô không vội đi ngay mà lấy chiếc USB từ trong túi ra.
Đây là USB bị rơi khi chụp ảnh hiện trường vụ án. Khi cô chụp hình hiện trường, thì chiếc USB này rơi ngay xuống bên chân cô như thể nó có linh cảm với cô vậy. Cô cúi xuống nhặt lên rồi giấu đi không cho các điều tra viên biết, và giấu luôn cả Hồ Tử. Không biết nguyên nhân cụ thể thế nào, nhưng cô linh cảm rằng, chiếc USB này đã bị yểm bùa, hễ ai nhặt nó là cuộc đời từ đó bắt đầu chuyển sang vòng đời sống trong sự sợ sệt. Cô không muốn nhiều người biết đến điều đó là vì như thế.
Bôn ba vất vả mấy hôm, cô Đào hạ quyết tâm phải xem thử nội dung trong chiếc USB này. Mở máy tính xách tay ra, Đào Tử cắm USB vào máy, bên dưới màn hình lập tức hiện lên “Tìm thấy bộ nhớ mới”
Đối với Đào Tử, việc nhặt được chiếc USB bị xem như là bước đầu cô rơi vào vực sâu, còn việc muốn xem nội dung của nó cũng giống như đôi bàn tay vô hình sau lưng cô đẩy cô rơi nhanh xuống vực. Chắc chắn rằng, nội dung trong chiếc USB này là một trò chơi trong seri “Sơn thôn” mà trước khi chết ông Trịnh đã copy vào. Trên thị trường mới đưa ra trò chơi đời thứ sáu của seri trò chơi “Sơn thôn” thế mà tập đoàn này đã cho ra đời trò chơi đời thứ bảy. Phát hiện này làm Đào Tử kinh ngạc, cô vội vã mở trò chơi ra. Lối vào “Sơn thôn” lập tức hiện ra một cách kỳ quái… chiếm hết toàn bộ màn hình máy tính.
- “Xin nhập mật mã!” - Trên màn hình hiện ra mấy chữ lạnh lùng!
Không lạ lẫm gì với trò chơi nhập vai này nữa, Đào Tử nhập tên và mật mã một cách thành thạo.
Tên tuổi của người mạo hiểm: Đào Tử
Giới tính: Nữ
Sau khi các yêu cầu của trò chơi được thực hiện, lập tức hiện ra một giấu vân tay của ngón cái khiến Đào Tử phải rợn hết cả người. Hệ thống yêu cầu cô chọn hoàn cảnh xuất thân: 1, Tội phạm bị truy nã. 2, phóng viên. 3, học sinh. 4, buôn hàng lậu. 5, thăm người thân. 6, nhà thám hiểm. 7, người trốn đò.
Trong bảy phương án lựa chọn đó, Đào Tử chọn “2” một cách máy móc, bởi vì bản thân cô là một phóng viên thật ngoài đời mà! Hơn nữa Đào rất yêu nghề. Thế là, trên màn hình dần dần cảnh vật biến mất, rồi từ từ hiện ra một ngôi làng, khi Đào muốn đi vào làng, đột nhiên vào tầm mắt cô một hàng chữ như để nhắc nhở cảnh báo: Lòng đố kỵ không cần phải có đất đai mới sinh sôi nảy nở. Chỉ cần một lý do đơn giản thì đã có thể làm cho lòng đố kỵ nảy mầm, sinh trưởng nuốt chửng cả thân xác và tâm hồn.
“Đố kỵ”, Đào tự nói một mình. Trước mắt cô, một bản đồ kỳquái xuất hiện, trong trùng điệp núi rừng, đang thấp thoáng một ngôi làng không tên.
* * *
Đó là một ngôi làng nằm ở vị trí hẻo lánh, thâm u kỳ bí, trong một thung lũng cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, vây quanh là trùng trùng núi non hiểm trở.
Rừng cây già bạt ngàn tỏa ra một màu âm u, đằng đằng sát khí, như muốn nuốt hết từng mạng sống của các cư dân trong làng. Tư liệu trên tay cho biết, đó là ngôi làng nằm ở phía đông của một ngọn núi lớn. Tôi lật một bản đồ được vẽ bằng tay, chốc chốc lại nhìn sang hai cánh rừng xanh đen rậm rịt hai bên đường.
Tuy là ban ngày, nhưng vẫn có thể nghe tiếng chim kêu một cách quái đản, cứ chíp chíp trong bụi rậm, dưới các gốc đại thụ, chốc chốc lại thấy cái bóng đen của những con quái thú chạy qua. Ở nơi rừng sâu núi thẳm, không có được cái cảm giác thư thái như khi ở dưới bóng cây, hay ở cánh đồng mà ngược lại, chỉ có những cơn kinh hoàng cứ hết đợt này đến đợt khác…
Có lẽ vì ngôi làng phía trước quá hẻo lánh, khuất lấp, tôi đã tra lại bản đồ của khu vực rừng núi tỉnh Sơn Đông, phát hiện thấy sự miêu tả rừng rậm trong bản đồ bất quá chỉ là đánh vài con số vào đấy, nó chỉ chứng minh cho biết đấy là vùng núi hẻo lánh mà thôi. Người cùng đi với tôi trong chuyến này là Thạnh Quân Mỹ - một đồng nghiệp của tôi.
Làm việc với cô ta chẳng có gì là hay ho cả, nếu không nói là chán ngắt. Suốt quãng đường, chúng tôi đều cẩn thận đề phòng, đề phòng đối phương sẽ giết mình rồi vùi thây nơi đồng vắng.
Con lừa của chúng tôi cứ kêu ré lên từng tiếng, tiếng kêu không giống tiếng quạ nhưng nghe rất khét tai, khiến ông đánh xe phải quay đầu lại, nói với giọng đặc khẩu âm Sơn Đông: “Cô gái, đến rồi, tôi chỉ chở cô đến đây thôi”.
Nhìn phía trước, tôi thấy một cây gỗ mục cắm vào trong đá núi, bên trên có ghi dòng chữ màu đỏ: “Thôn Đỗ”.
Gió bỗng thổi vù vù, con lừa cứ chốc lại nhảy rống lồng lên rồi đột ngột quay đầu chạy tít một mạch về phía sau. Chưa kịp xuống, nó đã lồng lên chạy quá nhanh khiến tôi và đồng nghiệp Thạnh Quân Mỹ ngã sụp xuống đất. Trực giác mách bảo tôi rằng, con lừa đó đã thấy cái mà chúng tôi không thể thấy được, nó hoảng quá nên mới lồng lên tháo chạy như thế.
Nghĩ đến điều đó, tôi thấy rùng mình.
Lão đánh xe cầm chặt dây cương, vừa kéo con lừa lại vừa chửi rủa nó, cuối cùng ông ta cũng lôi được nó về.
Sau đó, ông ta nhảy xuống xe, vội vàng đỡ tôi và Quân Mỹ dậy, và nói: “Xin lỗi hai cô, thực tình xin lỗi! Không thể đưa hai cô đi được nữa, trong ngôi làng có nhiều điều tà quái; trước đây, trong làng này có một trận đại dịch, người chết nhiều đến nỗi thiêu không kịp”.
Thạnh Quân Mỹ không chút để ý gì đến lời nói của lão đánh xe, mở hành lý ra, kiểm tra thử có vật gì bị vỡ khi ngã lúc nãy không. Tôi chau mày một cách bất mãn, làm thế nào để thể hiện là một phóng viên đạt tiêu chuẩn, xem ra về vấn đề này cô ta còn quá thiếu kinh nghiệm.
Trước mắt, khi chưa có đối tượng nào để phỏng vấn, thì việc đầu tiên là thu thập những tư liệu có liên quan đến ngôi làng này. Nhìn lại chiếc cọc gỗ ghi tên làng, tôi không khỏi kinh ngạc, nó giống như là cái mốc phong thuỷ đánh giấu hết đất bình yên, phía sau cái cọc đó là lãnh địa của quái dị.
- Biết có đại dịch hoành hành, thế tại sao không đặt các trạm phòng dịch? - Tôi hỏi.
- Ai nói là không chứ? Cứ hết lượt nhân viên này đến lượt nhân viên khác của trạm phòng dịch đều lần lượt mắc bệnh và qua đời, họ chết oan sạch sành sanh không còn một ai.
- Chuyện lớn thế sao không thấy thông báo gì trên các phương tiện thông tin đại chúng? Chẳng lẽ ở Trung Quốc cố giấu thôn mắc bệnh Sida? - Cô Quân Mỹ nói.
Giọng nói của Quân Mỹ tỏ ra thờ ơ lãnh đạm, kể từ ngày cô ta bước chân vào phòng biên tập của tòa báo chúng tôi, tôi đã không hài lòng về thái độ làm việc của cô ta. Câu nói vừa rồi của cô rất dễ bị người ta từ chối phỏng vấn, cứ như thế thì không có cách nào để tìm hiểu kỹ vấn đề, thu thập tư liệu.
Quả nhiên, ông lão phu xe đó không trả lời. Ông ta nhảy phắt lên lưng lừa, lẩm bẩm: “Ngôi làng này kể từ mấy năm trở lại đây ít thấy ai ra vào, người ta đồn rằng, trong làng này có mầm dịch, hễ dính vào người là toi mạng như chơi”. Nói xong ông lão đánh xe chạy một mạch không dám ngoái đầu nhìn lại rồi từ từ mất hút sau rừng cây…
Tôi và Quân Mỹ đi bộ đến phía cọc gỗ có ghi “Đỗ thôn”. Đỗ thôn, có phải là người trong làng đều mang họ Đỗ nên mới đặt tên là Đỗ thôn? Quân Mỹ hỏi. Nếu thế thật thì nên gọi là “Đỗ gia thôn” mới đúng. Tôi sờ lên cọc gỗ bám đầy bụi: “Vừa rồi ông lão đánh xe bảo đã mấy năm rồi không có người nào ra vào làng này, vậy tôi nghĩ rằng chữ “Đỗ” trong Đỗ thôn này có nghĩa là tuyệt đường qua lại?”
Đương nhiên, cách nghĩ của cô Quân Mỹ không giống tôi, cô ta cười khẩy có vẻ mỉa mai, rồi một mình tiến vào trong thôn.
Lần phỏng vấn này là để đăng tải tập tin “Tìm hiểu những ngôi làng ẩn giấu không tên” của tòa báo chúng tôi. Vì hiện nay, những thông tin chuyên về làng mạc rất được độc giả quan tâm chú ý. Thế là tòa báo chúng tôi quyết định phân cử hai người thành một tổ để đi tìm hiểu phong tục tập quán, phương thức sinh hoạt của những ngôi làng bị lãng quên này. Tôi đi theo sau Quân Mỹ tiến sâu vào làng, đây là một ngôi làng bị xã hội quên tên, bỏ rơi. Đi khoảng năm phút, đâu đâu cũng là một cảnh tiêu điều, đất đường mọc đầy cỏ hoang rậm rạp, chen cả lối đi, điều đó cũng chứng minh được rằng, đã lâu ngôi làng này rất ít người qua lại. Xa xa, cả tôi và Quân Mỹ đều nhìn thấy một mái nhà tranh khá hoàn chỉnh.
Đó là một ngôi nhà khác hẳn với những ngôi nhà xiêu vẹo khác trong làng. Từ ngoài nhìn vào, tôi có cái cảm giác là ngôi nhà này quá ẩm thấp, nóc nhà trầm ngâm trong điêu tàn, nó dường như không chịu được cái cảnh tiêu điều đó và có thể sập đổ bất cứ lúc nào. Thấy tôi đứng lại không đi, Quân Mỹ “Hậm” một tiếng tỏ ra bất mãn, rồi một mình tiến vào trước cổng ngôi nhà. Tôi cũng rất muốn đi cùng song hai chân như bị cắm sâu xuống đất, không thể bước lên được. Một dự cảm bất thường bỗng chiếm lĩnh cả tâm hồn và thể xác tôi, tôi muốn gọi tên Quân Mỹ, nhưng cổ họng cứ nghẹn lại như có bàn tay vô hình nào bóp chẹt lấy, không thể lên tiếng được.
Đột nhiên có một tiếng thét lên vọng ra từ mái nhà tranh vọng lại, đanh như thép đó làm vang vọng cả núi rừng, tiếng kêu ghê rợn như tiếng rống cuối cùng của quỷ dữ trước khi tiêu tan vĩnh viễn trong vũ trụ vô cùng, nó chứa đựng cả khối tàn dư của sự độc ác… Tiếng thét đanh quá như cắt vào từng mạch máu trong cơ thể khiến người nghe như vỡ gan vỡ mật. Trong khoảnh khắc đó, tim tôi bỗng ngừng đập, một nỗi kinh hoàng ghê gớm chiếm lấy tâm hồn tôi…
Cảnh vật xung quanh tôi dường như đang xoay chuyển, tôi bắt đầu tự trách, tại sao lại để một mình Quân Mỹ đi vào nơi bí hiểm đó? Hai chân tôi bắt đầu có cảm giác, tôi nhào vào ngôi nhà tranh đó. Vừa lọt vào trong, cả thân mình bỗng có cảm giác như rơi vào một nơi âm u, hoang lạnh… Rõ ràng là giữa mùa nóng nhất trong năm - tháng sáu, thế mà tôi bỗng cảm thấy mình như đang ở trong động băng, cái lạnh đó cứ thấm dần vào xương tuỷ.
Điều khiến tôi bàng hoàng nhất là, Quân Mỹ vẫn ở trong đấy một cách bình an như hoàn toàn không hay biết chuyện gì đã xảy ra. Thấy tôi chạy bán mạng vào nhà, cô ta cất cao giọng nói: “Nếu chị sợ thì cứ đứng ngoài mà chờ!”.
Câu nói đó không phải xuất phát từ sự quan tâm, từ tình cảm mà là để chế giễu châm chọc, tôi quay đầu lại nói: “Như thế nghĩa là thế nào, cô gọi to như thế để hù dọa ai chứ?”.
Quân Mỹ không nói, chỉ ném lại phía tôi ánh mắt khinh miệt.
Lần đi công tác này cả hai chúng tôi đều không có ý định hợp tác mà mỗi người lại theo đuổi một mục đích riêng. Dù cô ta và tôi chưa từng hợp ý nhau, nhưng hành động vừa rồi của Quân Mỹ làm tôi thấy sự việc quá ư nhiêu khê.
Tiếng gọi thất thanh kinh thiên động địa kia vẫn còn vang vọng mãi trong tâm trí tôi. Nếu không phải sự kinh hoảng tột độ thì chắc không thể phát ra thứ âm thanh đó được. Với thời gian tôi chạy từ ngoài vào thì nếu Quân Mỹ thực sự sợ hãi thì chắc chắn cô ta sẽ không trấn tĩnh lại nhanh như thế được. Trừ phi có kẻ thứ ba nào đó giấu mặt!
Ý nghĩ đó khiến một cảm giác rờn rợn cứ trào lên trong tâm trí tôi, bất giác khắp người tôi sởn hết cả gai ốc. Trong căn nhà ẩm thấp, đầy vẻ âm u, chẳng có chút biểu hiện gì là đang có người cư trú. Trên mặt đất, loang lổ những tấm chiếu cói đã rách nát cũ kỹ khiến người ta liên tưởng đó là những tấm chiếu bọc thây người.
Đồng nghiệp của tôi không tin có tà ma, lại gần vén chiếu lên, một mùi xác thối hừng hực bốc lên, vô số ruồi xanh vo vo ập đến.
Trong cơn hoảng loạn, tự nhiên ruột gan tôi như muốn lộn hết ra ngoài, tôi vẫy tay đuổi đám ruồi trước mặt. Dù dưới chiếu chẳng có gì nhưng cũng khiến cho người ta chán ngấy cái căn nhà bẩn thỉu này. Tôi không dám suy nghĩ gì nhiều, chỉ vội vã kéo đồng nghiệp thoát ra khỏi căn nhà.
“Làm cái gì vậy?” Vừa ra khỏi cửa Quân Mỹ vội vùng giật tay khỏi tay tôi, mắng: “Chị chẳng có lòng yêu nghề tí nào, mới chỉ có thế mà đã khiếp vía thế cơ à? Trông bộ dạng chị kìa!”.
Tôi chửi thầm, nếu mày có gan thì đừng để tao kéo mày ra chứ, như thế mới là người có gan chứ, làm ra vẻ…! Tôi nghiêng mình toan ném trả cô ta mấy câu thì bỗng nhiên khựng lại không nói được. Tim tôi bỗng như ngừng đập.
Trong khi tôi đảo mắt về phía Quân Mỹ, thì cánh cửa ngôi nhà tranh sau lưng cô ta bỗng thấp thoáng như có người đang đẩy cửa ra và bên trong căn nhà mập mờ tối sáng, tôi thoáng thấy hai đốm sáng lấp loáng như đôi mắt ai chứa đầy thù hận đang trừng trừng nhìn vào tôi. Dường như có vật không tên gì đó đang đăm đăm nhìn về phía cánh cửa. Lúc đó, tôi thấy hơi thở mình dồn dập, thân thể nhũn ra và run lên bần bật. Ngoài ra tôi còn nghe tiếng thở hổn hển của ai nữa, tuy mơ hồ, xa xôi nhưng nó tồn tại thực sự.
* * *
“Có người”. Quân Mỹ la lên, lại một lần nữa làm tôi giật mình, chẳng lẽ cô ta cũng có cảm giác đó? “Đào Tử, chị xem sau lưng chị kìa!” Cô ta vừa dứt lời, toàn thân tôi co rúm lại, tôi vội quay đầu nhìn, thì ra đó là một bà lão gầy đét, nước da vàng võ đang đứng sau lưng tôi. Bà lão mặc áo quần trông rách rưới tả tơi, không còn phân biệt được là màu gì nữa. Đầu tóc rối bù sợi trắng sợi đen, trên mặt đầy những nếp nhăn sâu như vết dao cắt.
Trước đây tôi từng nghe một câu chuyện cười có một bà lão đã lăn chết con ruồi bằng những nếp nhăn trên trán mình, nay liên tưởng lại những gì xảy ra trong căn nhà vừa rồi cộng với sự xuất hiện thêm bà lão trước mặt, câu chuyện cười đó khiến tôi buồn nôn.
Bà lão trừng mắt đờ đẫn, hai con ngươi mờ đục như muốn rơi ra khỏi mắt, đôi tay gầy gò co quắp như dây cát đằng khô, mồm lẩm bẩm điều gì cứ như là đang đọc những câu thần chú nguyền rủa độc ác nhất trên thế gian này. Quân Mỹ tiến lại gần chìa tay ra phía bà lão, tôi đoán chắc là cô ta muốn bắt tay bà ta.
“Chúng cháu đến đây để tìm hiểu, xin hỏi…”, nói chưa dứt lời. Quân Mỹ bỗng nhiên khựng lại, cánh tay trắng nõn của cô đã bị bà lão cào xước chảy đầy máu.
“Cháu chỉ hỏi thăm thôi mà bà đã làm gì dữ vậy?”. Quân Mỹ có thói quen là khi nào phỏng vấn ai, nếu bị cự tuyệt, cô ta thường mang máy ảnh ra chụp lấy khuôn mặt đối phương. Thông thường, với hành động đó cô thường bị đối phương đuổi đánh.
Nay cô cũng vội vàng lấy máy ảnh ra, quả đúng như tôi dự đoán. Tôi chưa kịp ngăn cản thì cô ta đã bật nút chớp nhanh…
Cái thoáng chớp của máy ảnh dường như đã làm bà lão nổi trận lôi đình, bà nhảy xổ về phía chúng tôi. Khi bà lão nắm chặt lấy đầu tóc Quân Mỹ, thì cái bốn bề vắng ngắt như đồng hoang bỗng hàng hàng lớp lớp người xuất hiện, bọn họ già có trẻ có, ai nấy đều có đôi mắt hung hãn, đờ đẫn giống nhau, họ cứ xông lên như bị ma làm, ngăn cản tôi và Quân Mỹ.
“Dừng tay lại, chúng tôi là phóng viên, chúng tôi không có ác ý gì cả”, tôi nhắc đi nhắc lại thân phận mình cho họ nghe nhưng ngược lại, họ càng làm dữ hơn. Họ giống như những người chết bị thầy phù thủy điều khiển, cứ thế mà xông lên cướp lấy hành lý của chúng tôi, họ huơ chân múa tay, giã cho chúng tôi một trận như vũ bão.
Trong tầm nhìn lay lắt, tôi thấy Quân Mỹ đang lấy máy di động ra, không biết giờ này cô còn gọi điện cầu cứu ai nữa đây. Nước xa không cứu được lửa gần!
Chúng tôi lạc vào tình cảnh dở người dở quỷ của bọn họ, tuy trông giống người nhưng thực ra họ là những con thú.
Chiếc di động trong tay Quân Mỹ chẳng biết do ai đâm rơi ngay xuống đất tách một tiếng, rồi họ dẫm đạp lên làm nó tan tành. Quân Mỹ gào thét hết cả hơi, nhưng những người trong thôn không tha cứ lôi bừa cô ra giữa đất. Tôi chỉ biết trân mắt nhìn Quân Mỹ trong cơn khủng hoảng, chiếc áo trên mình cô đã bị xé toạc. Mấy người trong thôn cùng loạt tiến lên, kéo thẳng Quân Mỹ vào sâu trong làng.
Tầm nhìn đã mơ hồ không còn thấy gì nữa, mặt đầm đìa nước mắt, tôi bó tay đứng nhìn đồng nghiệp bị bắt, không còn chút sức lực và ý chí chống trả nữa.
Chạy trốn, điều duy nhất bây giờ là chạy trốn, như thế mới có cơ may sống sót.
Thời gian không cho phép tôi suy nghĩ nhiều, tôi liều mạng cắn cho kẻ đang nắm chặt tay tôi một miếng, nó kêu thét lên rồi nhân lúc nó vừa buông tay, tôi tháo chạy thoát thân.
Tiếng reo hò đuổi theo cứ bám theo sau tôi, tôi chạy như điên cuồng, lao đi như thể để kết thúc một sinh mạng. Đến khi dừng lại, tôi không biết mình đã ở đâu trong ngôi làng này. Trước mặt tôi là một con suối nhơ nhuốc, tôi ngồi xổm xuống bên suối, ngắm nhìn lại khuôn mặt đang cơn kinh hãi của mình. Từng cơn gió lạnh thổi buốt tim gan, nhắm mắt thiếp đi, hai điểm sáng như đôi mắt đầy thù hằn trong ngôi nhà lúc nãy lại hiện về trong tôi. Tôi tin trăm phần rằng, đấy chính là hai con mắt!
Màu trời đã chuyển từ vàng nhạt hoàng hôn sang màu đen sẫm rồi màn đêm đen ụp đến. Côn trùng, thú dữ, chim muông ẩn nấp sau những lùm cây cất tiếng kêu thảm thiết ghê hồn không dứt, không khí bức bối ngột ngạt sắp làm tôi phát điên lên mất. Hai tay tôi giờ đã run như cầy sấy. Đột nhiên sau lưng vọng lại tiếng bước chân người, tôi quay ngoắt đầu, bỗng có một đôi tay lạnh buốt chộp lấy vai tôi.