Chương 4
Tác giả: Rafael Sabatini
Xông vào cuộc hải chiến với "Arabella" chiếc tàu ba cột buồm Tây Ban Nha "Atrevida" rõ ràng là tỏ ra dũng cảm phi thường nhưng đồng thời cũng điên rồ quá sức tưởng tượng nếu lưu ý đến nhiệm vụ của nó cũng như ưu thế đáng nể về hỏa lực của địch thủ.
Vậy "Arabella" là tàu nào thế? Đó chính là chiếc "Cinco Llagas" từ Cadiz đã bị thuyền trưởng Blood đánh chiếm một cách táo bạo và đổi tên này để kỷ niệm một giai nhân ở Barbados - Arabella Bishop, mà những ký ức về nàng đã luôn luôn là ngôi sao dẫn đường của chàng và kìm bớt những cuộc chinh phạt cướp bóc của chàng.
"Arabella" đang băng băng lướt về phía tây đuổi theo các tàu trong hải đội của thuyền trưởng Blood đã đi trước hẳn một ngày trời. "Arabella" đang ở trong khu vực 19o vĩ Bắc 66o kinh Đông thì bị tàu chiến "Atrevida" phát hiện. Chiếc tàu chiến quay mũi cắt ngang hướng đi của "Arabella" và mở màn trận đánh bằng một loạt pháo nhằm vào các cỗ pháo của tàu địch. Chỉ huy chiếc tàu chiến Tây Ban Nha là Don Vicente Casanegra, người chưa bao giờ ý thức được sự hạn chế của chính mình nên lần này cũng giống như mọi lần, ngài nhảy ngay vào cuộc vì tin chắc là thắng.
Kết quả diễn ra đúng như dự kiến của Blood. "Arabella" lập tức đổi hướng từ tây sang nam và chiếm lĩnh phía trên gió của tàu "Atrevida", do đó đã triệt tiêu cái ưu thế về chiến thuật lúc ban đầu của chiếc tàu chiến này. Sau đó, vì vẫn nằm ngoài tầm pháo mũi của đối phương, "Arabella" dội một trận bão lửa vào kẻ địch và bước đầu đã định đoạt kết quả trận đấu, rồi sau đó nó sáp lại gần hơn, dùng đạn ria xé toạc lỗ chỗ buồm dây của "Atrevida" khiến chiếc tàu chiến này không còn sức mà chạy trốn nữa, dù sự khôn ngoan mách bảo Don Vicente cách ấy. Rốt cuộc khi đã đến gần ở cự ly một tầm súng lục, "Arabella" nã một loạt pháo mạn biến chiếc tàu Tây Ban Nha đẹp đẽ thành một con tàu bất lực xoay tròn trên sóng. Rồi khi con tàu bị áp mạn, bọn Tây Ban Nha vội vàng hạ vũ khí để bảo toàn tính mạng và Don Vicente tím mặt vì nhục nhã đã phải nộp gươm cho thuyền trưởng Blood.
- Việc này sẽ dạy cho ông chớ cắn ẩu tôi khi tôi đi qua không gây gổ gì với ông, - thuyền trưởng Blood nói. - Theo tôi thì ông là kẻ càn rỡ chứ chẳng phải gan góc gì.
Ý kiến này của thuyền thưởng Blood không hề thay đổi chút nào khi xem xét đến các tài liệu trên tàu. Chàng phát hiện thấy bức thư của đô đốc Tây Ban Nha Don Miguel De Espinosa y Valdez và biết được những nhiệm vụ mà Don Vicente được giao phó.
Bức thư lệnh cho Don Vicente đến hội quân càng nhanh càng tốt với hải đội của đô đốc trong vịnh Spanish Key gần Bieque nhằm tấn công lên dinh điền của Anh trên đảo Antigua . Rất may là các ý đồ của Don Miguel được trình bày trong thư chẳng chút úp mở:
"Tuy lúc này Hoàng thượng không tranh chiến với nước Anh, song nước Anh không hề động tay động chân tí nào nhằm chặn đứng hoạt động bỉ ổi của tên cướp biển Blood trong hải phận Tây Ban Nha. Vì lẽ đó chúng ta buộc phải áp dụng quyền trấn áp và lấy lại một khoản đền bù nhất định cho tất cả những thiệt hại mà tên cướp biển ma quỷ kia đã gây ra cho Tây Ban Nha".
Dồn hết bọn Tây Ban Nha bị tước vũ khí xuống hầm tàu, chỉ trừ Don Vicente khinh suất sau khi đã thề danh dự là được đưa sang "Arabella" vá víu tạm các lỗ thủng và đưa cả hai tàu nhằm hướng đông nam đến eo biển nằm giữa Anegada [1] và quần đảo Virgin.
Sau khi đổi hướng một cách đột ngột như vậy, ngay tối hôm đó Blood phải giải thích việc này. Một cuộc họp đã được triệu tập trong gian buồng thuyền trưởng rộng rãi gồm có thuyền phó Wolverstone, hoa tiêu Pitt, pháo thủ Ogle và hai đại diện thủy thủ, trong số đó có một gã người Pháp là Albin, vì lúc này khoảng một phần ba đội thủy thủ của "Arabella" là người Pháp.
Thông báo của thuyền trưởng Blood về ý định hành quân đến đảo Antigua bị phản đối ầm ầm.
Sự phản đối đó được Wolverstone tóm tắt lại một cách ngắn gọn. Đấm nắm tay to như cái vồ đập đất xuống mặt bàn, Wolverstone tuyên bố thẳng thừng:
- Mặc mẹ thằng vua James với cả lũ bợ đít của nó! Mình không tấn công các tàu bè và các thuộc địa Anh là phúc cho nó rồi. Còn tự dưng lại đi bảo vệ cho những đứa chẳng bao giờ tử tế với mình thì có mà trời tru đất diệt tao đi.
Thuyền trưởng Blood giảng giải:
- Bọn Tây Ban Nha đang sửa soạn cuộc tập kích này nhằm đền bù lại những tổn thất mà chúng bảo ta đã gây cho Tây Ban Nha. Chính vì vậy nên tôi mới coi việc đó ít nhiều liên quan đến mình. Dù chẳng ái quốc ái quần hay khoan dung độ lượng gì như ý anh Wolverstone nói, ít ra anh cũng có thể báo trước cho dân chúng và giúp họ với tư cách là đánh thuê mà thể nào đồn binh ở đây cũng phải trả tiền bởi vì chắc chắn chúng mà thuê được bọn mình thì mừng húm. Như vậy là ta vừa thực hiện được bổn phận mà lại không bỏ qua món lợi.
Cái lý lẽ cuối cùng này đã kết thúc cuộc tranh cãi có lợi cho Blood.
Sáng sớm hôm sau, khi đã vượt qua eo biển, hai con tàu thả trôi ở ngoài mũi nam đảo Virgen Gorda, cách mạn bên phải chưa đầy bốn năm dặm. Biển đang lặng. Thuyền trưởng Blood ra lệnh thả xuồng từ tàu "Atrevida" xuống, rồi đội thủy thủ tàu Tây Ban Nha được phép bơi vào bờ, sau đó cả hai tàu tiếp tục lên đường đến quần đảo Dưới Gió.
Xuôi theo gió nhẹ đến phía nam Saba, sáng sớm hôm sau họ đã đến gần bờ tây đảo Antigua, rồi kéo cờ Anh, thả neo ở cạnh phía bắc bãi bồi chia đôi lối vào Fort Bay chừng mười sải.
Xế trưa hôm đó, khi đại tá Courtney, viên toàn quyền quần đảo Dưới Gió đóng dinh tại Antigua, vừa mới ngồi vào bàn ăn cùng với bà Courtney và đại úy Macartney thì ngài ngạc nhiên không ít khi nghe báo cáo rằng thuyền trưởng Blood đã đổ bộ lên bến Saint John và muốn tiếp kiến ngài.
Đại tá Courtney, một người cao gầy, mặt đầy tàn nhang, trạc bốn nhăm tuổi, chớp chớp đôi mi mắt đỏ quạch, hướng cặp mắt vô hồn vào viên thư ký của ngài là mister Ives, người vừa đem tin đến.
- Thuyền trưởng Blood, ông bảo thế à? Thuyền trưởng Blood? Thuyền trưởng Blood nào nhỉ? Hy vọng đó không phải là cái thằng cướp biển khốn kiếp, thằng tử tù sổng từ Barbados ra đấy chứ?
Thấy quan toàn quyền xúc động không yên, mister Ives trẻ tuổi đánh bạo mỉm cười.
- Chính hắn đấy thưa ngài.
Đại tá Courtney liền ném khăn ăn xuống bàn, đoạn vẫn chưa tin ở tai mình, ngài đứng hẳn dậy.
- Ông bảo rằng hắn đang ở đây à? Sao, hắn điên đấy à? Hay là hắn bị say nắng? Thề có Chúa, ta phải cùm tay hắn lại rồi mới ăn được, sau đó giải về Anh trước khi ... - Ngài không nói hết câu, quay sang viên lãnh binh của mình: - Mẹ khỉ, dù sao ta cũng nên tiếp hắn mới được.
Bộ mặt tròn xoe của Macartney cũng đỏ chẳng kém bộ quân phục của y và cũng tỏ ra sửng sốt không thua gì ngài toàn quyền. Việc một tên đạo tặc khét tiếng đã bị treo giải lấy đầu nay lại to gan dám mò đến gặp quan toàn quyền của một thuộc địa Anh giữa ban ngày ban mặt, - một tin như vậy đã khiến đại úy Macartney ngớ người, ngồi ngay đơ chẳng biết đằng nào mà nghĩ nữa.
Mister Ives đưa người đàn ông cao dong dỏng, xương xương, ăn mặc cực kỳ hào hoa, khoác áo gấm màu nâu nhạt vào gian phòng rộng rãi mát mẻ, bài trí khá sơ sài. Một viên kim cương to quý giá lóng lánh trong cổ áo đăng ten lồng bồng tuyệt mỹ, chiếc mũ đính ngù lông cầm trên tay lấp lóa chiếc khóa kim cương, một viên ngọc trai hình quả lê lắc lư dưới tai trái lờ mờ tỏa ánh sáng giữa những búp tóc giả đen nhánh. Ông khách còn cầm một cây can cán nạm vàng. Trông ông khách hào hoa chẳng giống tí gì một tên cướp biển, đến nỗi tất cả đều lặng thinh dán mắt vào khuôn mặt đồng hun với cái mũi diều, khóe môi giễu cợt và cặp mắt xanh lạnh lùng ấy. Mỗi lúc một thêm sững sờ và ngày càng thêm ngờ vực các giác quan của mình, sau cùng đại tá ngọ nguậy trên ghế lên tiếng hỏi:
- Ông là thuyền trưởng Blood?
Ông khách cúi chào. Đại úy Macartney ú ớ cầu sấm sét vật chết hắn đi. Đại tá Courtney cất giọng:
- Bố khỉ! - Cặp mắt vô vị của ngài như lồi ra khỏi tròng. Ngài liếc sang bà vợ tái ngắt của mình, sau đó lại nhìn Macartney rồi lại trố mắt ngó chòng chọc thuyền trưởng Blood. - Ông là một tên vô lại gan liều tướng quân. Một tên vô lại cóc tía, mẹ kiếp!
- Tôi thấy là ngài đã được nghe nói về tôi.
- Có nghe, nhưng ta không ngờ ngươi lại dám thò mặt ra đây. Ngươi đến không phải là để nộp mình chịu trói đấy chứ?
Chàng cướp biển thong thả bước đến bên bàn. Macartney bất giác nhổm dậy.
- Xin ngài hãy đọc thư này, nó sẽ giải thích cho ngài hiểu nhiều điều. - Blood nói và đặt bức thư của viên đô đốc Tây Ban Nha trước mặt quan toàn quyền. - Số phận run rủi cho nó lọt vào tay tôi cùng với người nhận.
Đại tá Courtney đọc xong thất sắc chìa nó cho Macartney. Sau đó ngài lại nhìn Blood, và như đáp lại cái nhìn của ngài, chàng nói:
- Phải, tôi đến đây để báo trước cho ngài rõ và nếu cần thì phụ giúp ngài một tay.
- Phụ giúp ta? Giúp cái gì?
- E rằng ngài sẽ cần giúp đỡ đấy. Cái pháo đài dở hơi của ngài sẽ không chịu nổi một giờ pháo kích của bọn Tây Ban Nha đâu, sau đó thì các quý ngài xứ Castile sẽ lên chơi thành phố của ngài đấy. Các vị ấy tác oai tác quái thế nào trong các trường hợp tương tự thiết tưởng ngài đã biết rồi. Nếu không thì để tôi kể cho nghe.
- Nhưng mà ... sét cứ đánh chết tôi đi! - Macartney kêu lên. - Ta có chiến tranh với Tây Ban Nha đâu!
Đại tá Courtney giận điên lên, lạnh lùng quay sang thuyền trưởng Blood:
- Ngươi là nguyên nhân của mọi tai họa! Những cuộc cướp bóc của ngươi đã đưa chúng ta đến vực thẳm này đấy.
- Có thế tôi mới đến đây chứ. Tuy vậy tôi nghĩ rằng những cuộc tập kích của chúng tôi chẳng qua chỉ là cái cớ hơn là nguyên nhân. - Thuyền trưởng Blood buông người xuống ghế. - Theo chỗ tôi được biết, các ngài đã tìm được vàng trên đảo này và chắc Don Miguel cũng đã được biết tin. Đồn binh của các ngài chỉ vẻn vẹn có hai trăm lính, còn pháo đài thì như tôi đã nói, chỉ là một đống đổ nát hoang phế. Tôi có đưa đến đây một con tàu lớn được trang bị tốt và hai trăm chiến binh mà khắp vùng biển Caribe này không có ai sánh kịp, chưa biết chừng còn trên cả hoàn cầu nữa là khác. Dĩ nhiên tôi là một tên cướp biển đáng nguyền rủa và đầu tôi đã được treo giải, cho nên nếu ngài quá kỹ tính thì hẳn ngài không thèm nói chuyện với tôi. Nhưng nếu ngài có một chút lý trí lành mạnh nào - tôi hy vọng là thế, - thì chắc ngài sẽ cám ơn trời đất vì tôi đã đến đây và sẽ chấp nhận các điều kiện của tôi.
- Điều kiện nữa?
Thuyền trưởng Blood bèn giải thích. Người của chàng không định tỏ ra anh hùng rơm liều thân mà chẳng được gì. Ngoài ra trong số này có rất nhiều người Pháp. Chúng dĩ nhiên chẳng có chút tình cảm ái quốc nào đối với một thuộc địa Anh hết! Chúng chỉ muốn một vài đền bù, dù nhỏ bé cũng được, để đổi lại sự trợ lực đáng giá mà chúng sẵn sàng ra tay giúp.
- Vả lại, thưa đại tá, - thuyền trưởng Blood nói thêm để kết luận, - đây còn là vấn đề danh dự của ngài nữa. Liên minh với chúng tôi có lẽ ngài thấy bất tiện, còn thuê chúng tôi thì lại khác. Bao giờ mọi việc xong xuôi, không ai cấm ngài lại săn đuổi chúng tôi như bọn tội phạm cả.
Đại tá cau có nhìn chàng.
- Bổn phận của ta là phải gô cổ ngươi lại và giải về Anh, nơi mà giá treo cổ đã chờ đợi ngươi từ lâu kia.
Thuyền trưởng Blood vẫn ung dung như cũ.
- Bổn phận trước hết của ngài là cứu thuộc địa này khỏi bị tấn công vì ngài là toàn quyền của nó. Ngài đã được báo trước rằng nó đang lâm nguy. Và hiểm họa đó đã gần rồi, ngài phải biết quý từng giây từng phút mới được. Xin thề ngài sẽ tỏ ra khôn ngoan nếu như không bỏ phí những giây phút đó.
Quan toàn quyền liếc nhìn Macartney. Ánh mắt của Macartney cũng trống rỗng giống hệt cái đầu gáo dừa của y. Nhưng thình lình bà đại tá phu nhân bỗng đứng vụt dậy - nãy giờ bà chỉ âm thầm lo lắng chứng kiến mọi chuyện. Bà này cũng cao và xương xẩu giống ông chồng. Khí hậu nhiệt đới đã làm bà già trước tuổi và hút khô nhan sắc của bà. Tuy vậy, Blood nghĩ thầm rằng rất may là nó không hút kiệt được đầu óc của bà.
- James, sao ông còn đắn đo gì nữa nhỉ? Thử nghĩ xem rồi phụ nữ sẽ ra sao? ... Cả phụ nữ lẫn trẻ con, một khi bọn Tây Ban Nha tràn vào đây. Thử nhớ lại xem chúng đã làm gì với Bridgetown kia kìa.
Quan toàn quyền đứng cúi đầu, trầm ngâm nhíu mày.
- Dù vậy tôi cũng không thể liên minh với ... Tôi không thể dây dưa gì với bọn tội phạm ngoài vòng pháp luật được. Bổn phận tôi tôi biết. Biết quá đi chứ. - Đại tá nói quả quyết, ngài không còn do dự nữa.
- Kẻ tự do được tùy ý, kẻ được cứu rỗi thì hưởng thiên đàng, - thuyền trưởng Blood thốt lên bằng giọng triết lý. Chàng thở dài và đứng dậy. - Nếu đó là lời tối hậu của ngài thì cho phép tôi được chúc ngài vui vẻ cả ngày. Về phần tôi, tôi không muốn lọt vào tay hải đội Caribe cho lắm.
- Ngươi sẽ không ra khỏi đây được đâu, - đại tá gằn giọng. - Đối với ngươi ta rõ bổn phận của ta lắm. Macartney, gọi lính mau!
- Ấy, ấy chớ đùa, đại tá, - Blood ra hiệu ngăn Macartney lại.
- Đừng có mà dạy ta. Ta phải làm trọn bổn phận của mình.
- Chẳng nhẽ bổn phận của ngài là đòi ngài trả ơn tôi một cách hèn hạ như vậy cho cái việc tôi giúp ngài báo trước nguy cơ sắp đến ư? Hãy nghĩ cho kỹ đi, đại tá.
Và một lần nữa bà đại tá đóng vai trò trạng sư cho thuyền trưởng Blood - bà bảo vệ chàng một cách hăng hái và quyết liệt, hiểu rõ cái gì là điều duy nhất quan trọng trong lúc này. Tuyệt vọng quá, ngài đại tá lại ngồi phịch xuống ghế.
- Nhưng tôi đã bảo là không thể được mà! Tôi không thể bắt tay với một tên phản tặc, một kẻ cặn bã, một thằng cướp biển được! Danh dự quân nhân của tôi ... Không ... Không, tôi không thể!
Thuyền trưởng Blood rủa thầm trong bụng lũ vua chúa ngu ngốc đã đưa những người như thế này đi cai trị các thuộc địa hải ngoại.
- Ngài có cho rằng danh dự quân nhân đòi hỏi ngài phải đánh trả thích đáng tên đô đốc Tây Ban Nha không?
- Còn phụ nữ nữa, James? - bà vợ lại nhắc ngài. - Trong tình thế bức bách thế này, nguyên một hải đội sắp sửa tấn công mình, quả thực, ông James ạ, tôi chắc Hoàng thượng sẽ tán thành quyết định của ông thu nhận bất cứ một sự trợ lực nào.
Bà đại tá nói đại để như vậy và nhắc lại các lý lẽ của mình cho đến khi cả Macartney cũng phải ủng hộ bà mà cố gắng đè bẹp sự ương gàn như lừa của quan toàn quyền. Rốt cuộc, dưới sức ép nhân đôi này quan toàn quyền đành gạt bỏ thể diện của mình mà nghe theo lẽ phải, ngài cau có và miễn cưỡng hỏi xem những điều kiện mà chàng cướp biển đưa ra là gì.
- Tôi không xin gì cho riêng mình hết, - thuyền trưởng Blood nói - Tôi ra tay bảo vệ các khu dân cư của ngài chỉ vì trong huyết quản của tôi cũng là dòng máu Anh mà thôi. Nhưng sau khi đánh đuổi được bọn Tây Ban Nha xong, ngài phải giao cho mỗi người của tôi tám trăm real , mà tôi có cả thảy hai trăm người.
Quan toàn quyền chết điếng.
- Một trăm sáu chục ngàn! - Ngài nghẹn họng và chẳng còn kể gì thể diện lên tiếng cò kè mặc cả.
Nhưng thuyền trưởng Blood một mực lạnh lùng không lay chuyển và rốt cuộc những điều kiện của chàng đã được chấp thuận.
Ngay chiều hôm ấy Blood bắt đầu dựng công sự phòng thủ thành phố.
Fort Bay là một vịnh nhỏ ăn sâu vào hai dặm và rộng không quá một dặm ở đoạn lớn nhất - về hình dáng nó giống một cái chai. Một cồn cát dài chạy dọc theo cổ chai, lúc nước sông mới nhô lên và chia cái vịnh ra làm hai. Phần vịnh phía nam chỉ có những tàu bè đáy rất nông mới qua lại được, còn phần phía bắc nhỏ hẹp, nơi "Arabella" đang bỏ neo, thì sâu ít nhất đến tám sải, lúc nước lên thậm chí còn hơn nữa và đó là lối ra vào bến tàu.
Vịnh được bảo vệ bởi một pháo đài trên một gò thấp ở phía bắc mũi đất. Đó là một công sự hình vuông xây bằng đá xám thấp tè với những lỗ châu mai. Vũ khí ở đây gồm một tá pháo cổ lỗ và nửa tá thần công, bắn xa nhất chỉ được khoảng 2000 mét - những khẩu pháo mà thuyền trưởng Blood lúc nãy đã khinh ra mặt. Trước tiên chàng cho thay toàn bộ bằng pháo hiện đại hơn lấy từ tàu "Atrevida" lên.
Không những thế, chàng còn lấy từ chiếc tàu Tây Ban Nha lên bờ thêm một tá pháo nữa, trong đó có hai khẩu trọng pháo bắn đạn 5 kilô. Nhưng số pháo này chàng dành cho mục đích khác. Cách pháo đài năm chục mét về phía tây, ở ngay chóp mũi đất, chàng cho đắp các lũy đất và làm nhanh đến nỗi đại tá Courtney có dịp học lấy cách thức phòng ngự của bọn cướp biển và nguyên nhân khiến chúng giành được phần thắng.
Thuyền trưởng Blood lấy một trăm người của mình đi dựng lũy đất và bọn này cởi trần trùng trục lăn ra làm dưới ánh nắng gay gắt. Chàng còn lùa ra đây chừng ba trăm da trắng và cũng chừng ấy da đen trong số dân cư của Saint John - nghĩa là toàn bộ số đàn ông đủ sức lao động - và bắt họ đào hào, đắp lũy và lèn đất vào các sọt mà chàng đã ra lệnh cho đám đàn bà đan bằng cành mây. Số người còn lại của mình, chàng phái đi xắn cỏ, chặt cây rồi kéo hết về bức lũy mới đắp. Công việc sôi nổi mãi đến chiều tối và mũi đất trông giống như một tổ kiến. Lúc lặn mặt trời mọi việc đã đâu vào đấy. Quan toàn quyền cứ ngỡ phép thần hiển hiện trước mắt ngài. Theo ý muốn của Blood và các mệnh lệnh của chàng, chỉ trong vòng sáu giờ một pháo đài mới đã mọc lên mà giá như bình thường muốn làm được cũng phải mất ít nhất hai tuần lễ.
Và thế là pháo đài không những chỉ được đắp xong mà còn được bố trí đủ mười hai khẩu pháo còn lại lấy từ "Atrevida" và nửa tá pháo mạnh của tàu "Arabella", - hơn nữa nó còn được ngụy trang rất khéo, đến nỗi từ phía biển nhìn vào khó có ai ngờ được rằng ở đó lại có một pháo đài. Các lũy đất đều được phủ các tấm cỏ và ăn nhập với nền xanh của cây cối trên bờ nhờ những cây dừa trồng ngay trên lũy và xung quanh đấy, còn các khẩu pháo thì ẩn kín sau các lùm keo trắng, đứng cách nửa dặm cũng không thể nhận ra.
Song đại tá Courtney lại cho rằng việc này chỉ mất công vô ích. Một chiến lũy chỉ cần trông thấy đã đủ khiếp đảm rồi việc gì lại còn phải ngụy trang cơ chứ?
Thuyền trưởng Blood giải thích.
- Như thế ta sẽ làm địch đề phòng, không tấn công ngay mà đợi tôi đi rồi không có ai bảo vệ các ngài chúng mới đánh. Không, tôi chỉ muốn hoặc thanh toán chúng cho xong hẳn đi hoặc phải dạy cho chúng một bài học để từ nay về sau chừa cái thói ăn cướp các khu dinh điền của Anh.
Đêm hôm đó Blood ở lại trên tàu "Arabella" đang bỏ neo ngay sát một vách đá cao dựng đứng đâm thẳng xuống nước. Rồi sáng sớm hôm sau dân chúng Saint John bị tiếng pháo ầm ầm đánh thức. Quan toàn quyền vẫn mặc áo ngủ, từ trong nhà nhảy bổ ra, tưởng rằng bọn Tây Ban Nha đã tấn công lên đảo. Té ra đó là pháo đài mới tập bắn: tất cả các cỡ pháo của nó nhằm thẳng chiếc "Atrevida" mà đổ đạn, còn chiếc tàu này thì buồm dây cuốn gọn, đứng ngay giữa luồng tàu chạy, chắn ngay lối đi, mũi hướng vào bờ, đuôi ghếch lên doi cát.
Quan toàn quyền vội vàng đóng bộ, nhảy lên yên và cùng Macartney phóng ra đầu mũi đất. Khi ngài đến gần thì tiếng súng cũng ngừng. Con tàu bị đạn xuyên lỗ chỗ đang từ từ chìm xuống. Lúc ngài toàn quyền điên tiết đến được pháo đài mới thì con tàu đã chìm hẳn, nước cuồn cuộn phủ kín nó. Quay sang thuyền trưởng Blood lúc đó đang cùng một lũ lâu la đứng xem "Atrevida" chìm, quan toàn quyền nổi khùng đòi chàng nhân danh trời đất quỷ thần giải thích cho ngài rõ tại sao lại làm một việc điên rồ như thế. Thuyền trưởng Blood có hiểu rằng làm như vậy ông ta đã khóa kín lối vào đối với tất cả tàu bè, trừ những tàu đáy rất vuông hay không?
- Chính tôi muốn làm thế mà, - thuyền trưởng Blood nói. - Tôi đã chọn chỗ nông nhất trong luồng. Con tàu bị đánh đắm ở độ sâu sáu sải, thành thử chỉ còn lại hai sải nước nữa thôi.
Quan toàn quyền chắc mẩm người ta giễu mình. Giận tái người, ngài tiếp tục đòi giải thích: tại sao lại ra một mệnh lệnh ngu xuẩn như thế, mà lại không cho ngài biết.
Thuyền trưởng Blood bực mình giảng giải cho quan toàn quyền nghe cái mà chàng nghĩ đã rõ như ban ngày rồi. Ngài hơi nguôi giận, nhưng sự ngờ vực không tránh khỏi đối với một bộ óc hạn chế đã không cho phép ngài chịu thôi.
- Nhưng nếu mục đích của ngươi chỉ là đánh chìm tàu thì việc gì phải phí đạn vào đấy? Sao không đục cho nó một lỗ là khắc chìm chứ gì?
Thuyền trưởng Blood nhún vai.
- Chẳng qua chỉ là một cuộc dượt pháo thôi mà. Chúng tôi muốn một công đôi ba việc luôn.
- Tập bắn ở cự ly thế này? - Quan toàn quyền sôi tiết. - Thế nào, ngươi định nhạo ta đấy chăng?
- Bao giờ Don Miguel đến đây ngài sẽ rõ.
- A, xin lỗi, ta muốn biết ngay bây giờ kia, ngay lập tức, quỷ tha ma bắt ta đi! Xin ông nhớ cho, tôi vẫn cầm quyền trên đảo này đấy.
Thuyền trưởng Blood hơi cáu. Đối với những lũ ngu ngốc chàng không thể nể nang cũng như nhẫn nại cho lắm.
- Xin thề rằng nếu ngài vẫn chưa rõ ý định của tôi thì nghĩa là ham muốn cầm quyền của ngài đã vượt quá khả năng trí tuệ của ngài rồi đấy. Nhưng còn quá ít thời gian, còn những việc quan trọng hơn không thể trì hoãn được nữa. - Đoạn chàng quay phắt người bỏ đi, để mặc quan toàn quyền hò hét chửi bới.
Sau khi đi khảo sát bờ biển, thuyền trưởng Blood tìm được một cái vụng nhỏ có trên là Willogby Cay cách pháo đài hai dặm. "Arabella" có thể ẩn ở đây không sợ bị nhòm ngó, lại vừa gần nên cả thuyền trưởng lẫn đám lâu la của chàng có thể ở luôn trên tàu được. Điều đó rất hợp ý ngay cả đối với đại tá Courtney vì ngài rất ngại đưa bọn cướp biển vào thành phố. Thuyền trưởng Blood yêu cầu cung cấp lương thực cho chàng và đòi năm chục đầu gia súc cùng hai chục heo. Quan toàn quyền lại định đôi co nhưng thuyền trưởng Blood đã chặn họng ngài bằng những lời rất gay gắt khó mà giúp cải thiện được quan hệ giữa hai người. Gia súc đã được đưa đến đủ số và bọn cướp bắt đầu chè chén, tạm thời thì chưa có gì đáng ngại: những đống lửa được nhóm lên trên bờ vịnh, gia súc bị ngả thịt và xẻ ngay tại chỗ rồi cùng với các chú rùa tóm ở ngay đấy bị lên xiên quay.
Ba ngày trời trôi qua trong những việc hiền lành kiểu ấy và ngài toàn quyền lại bắt đầu day dứt ngờ vực: không biết có phải thuyền trưởng Blood cùng bọn cướp biển lỡm mình để giấu tung tích sau một việc ám muội gì đó không đây? Nhưng sự chậm trễ ấy không làm thuyền trưởng Blood ngạc nhiên. Chàng giải thích rằng Don Miguel còn chưa kéo buồm chừng nào chưa hết hy vọng Don Vicente De Casanegra đưa tàu "Atrevida" đến hội quân.
Thêm bốn ngày ăn không ngồi rồi nữa. Quan toàn quyền hôm nào cũng phóng ngựa đến vụng Willogby Cay, tha hồ tỏ ý nghi kỵ, dồn hàng lô câu hỏi móc mói vào đầu Blood. Những cuộc gặp gỡ ấy càng ngày càng trở nên khó chịu cho cả hai bên. Thuyền trưởng Blood mỗi ngày lại nói rõ hơn cho quan toàn quyền hiểu rằng chàng chẳng hy vọng gì ở thành công trong việc chinh phục thuộc địa của một đất nước tỏ ra ít lý trí lành mạnh trong việc lựa chọn người cai trị các lãnh địa hải ngoại của mình đến thế. Rốt cuộc, chỉ nhờ có hải đội của Don Miguel xuất hiện ở bờ đảo Antigua mới ngăn chặn được sự tan vỡ hoàn toàn của quan hệ giữa quan toàn quyền với kẻ đồng minh cướp biển của ngài.
Tin hải đội này kéo đến được một tên lính canh của pháo đài mới đưa đến vụng Willogby Cay vào lúc tờ mờ sáng thứ hai.
Thuyền trưởng Blood lập tức lên bờ, đem theo một trăm thủ hạ. Wolverstone được để lại chỉ huy tàu. Tay pháo thủ đáng gờm Ogle cùng bọn lính pháo của mình đã nấp sẵn trong pháo đài mới.
Cách bờ sáu dặm, ngay trước mắt lối vào cảng Saint John, bốn chiếc tàu thong thả giương hết buồm nương theo ngọn gió tây bắc thổi mạnh xua tan cái nóng của nắng mai tiến vào, trên cột buồm giữa của mỗi tàu đều phấp phới lá cờ xứ Castile.
Đứng trên chóp lũy của pháo đài cũ, thuyền trưởng Blood dùng ống nhòm quan sát các con tàu. Đứng cạnh chàng là quan toàn quyền lúc này đã thấy tận mắt rằng hiểm họa bị bọn Tây Ban Nha tấn công không phải là chuyện bịa đặt. Macartney vẫn lẩn quẩn sau lưng ngài như thường lệ.
Kỳ hạm của Don Miguel là tàu "Virgen del Pilar" - một trong những con tàu đẹp nhất và đáng sợ nhất trong các tàu của Tây Ban Nha. Đô đốc đã lên tàu này cách đây chừng mấy tháng, kể từ khi thuyền trưởng Blood đánh đắm chiếc "Milagrosa" của hắn. "Virgen del Pilar" là một chiếc galleon sơn đen có bốn mươi pháo, trong số đó có mấy khẩu hạng nặng bắn xa được đến 3000 mét. Trong ba chiếc còn lại thì có hai chiếc tuy nhỏ hơn nhưng vẫn là những tàu chiến ba cột buồm có ba mươi pháo hùng mạnh và chỉ có chiếc thứ tư là một xà lúp chở theo có mười pháo thôi.
Thuyền trưởng Blood buông ống nhòm và hạ lệnh cho pháo đài cũ sẵn sàng chiến đấu. Pháo đài mới tạm thời không tham dự vào việc phòng thủ đảo.
Trận đánh nổ ra sau đó nửa giờ.
Don Miguel hành động mãnh liệt không kém gì trước đây trong các cuộc tấn công mà thuyền trưởng Blood đã quen biết từ lâu. Hắn chưa vội cuốn bớt buồm cho tới khi đã vào gần đến cự ly 2000 mét, chắc hẳn hắn nghĩ rằng cuộc tập kích này khiến địch thủ không kịp trở tay, mà những khẩu pháo cổ lỗ của pháo đài thì đã hoàn toàn vô dụng. Hắn thấy cần thiết phải đập tan toàn bộ pháo đài trước khi vào vụng tàu và để đạt được mục đích này một cách nhanh chóng và chắc chắn, hắn vẫn tiếp tục tiến cho đến khi theo tính toán của thuyền trưởng Blood tàu chỉ còn cách lối vào cảng chưa đến 1000 mét.
- Đúng là lão ta định mò vào đến tầm súng lục đây - Blood lên tiếng - hoặc có lẽ lão cho rằng pháo đài này không thể kháng cự gì được cũng nên. Nào Ogle, anh mở mắt cho lão đi! Làm một loạt chào ngài đô đốc đi.
Nhóm pháo thủ của Ogle đã nạp đạn xong xuôi từ lâu, mà mười hai họng pháo lấy từ "Atrevida" lên nãy giờ vẫn dõi theo đội tàu đang tiến gần. Bọn pháo thủ lăm lăm con cúi, gậy nhồi và xô nước đã chực sẵn bên pháo.
Ogle phát lệnh - loạt đạn từ mười hai khẩu pháo dội lên như sấm sét trên mặt biển. Ở cự ly gần thế này thậm chí những viên đạn hơn 2 kilô của các khẩu pháo không lấy gì làm to lớn kia cũng gây được một số thiệt hại cho hai chiếc tàu của hải đội Tây Ban Nha. Tuy nhiên, tác động tâm lý của loạt đạn bất ngờ này đối với những kẻ đang định đánh úp mà lại bị đánh phủ đầu còn lớn hơn nhiều. Tên đô đốc lập tức hạ lệnh cho các tàu ngoặt gấp hướng gió. Vừa quay mũi, các tàu vừa nối đuôi nhau nã vài loạt pháo mạn vào pháo đài và trong chốc lát đã biến nó thành một ngọn núi lửa. Từng đoạn lũy bắn tung lên trời, khói bụi đặc sệt bốc lên cuồn cuộn. Qua bức màn mịt mù dày đặc ấy, bọn cướp biển không còn trông thấy các tàu Tây Ban Nha giở trò gì. Nhưng dù không trông thấy, thuyền trưởng Blood vẫn hình dung khá rõ nên trong lúc xả hơi ngắn ngủi ngay sau loạt pháo mạn đầu tiên chàng đã ra lệnh cho bọn cướp biển rời khỏi pháo đài rút ra sau ẩn nấp.
Khi các loạt đạn tiếp theo đã ngừng lại, Blood đưa tất cả trở về pháo đài đổ nát và tranh thủ thời gian nghỉ giữa hai đợt pháo kích sai mọi người lôi các khẩu pháo cũ ra bắn. Loạt đạn này chỉ bắn hú họa vào màn khói xám với mục đích duy nhất là cho bọn Tây Ban Nha thấy rằng pháo đài vẫn chưa bị triệt hạ hoàn toàn. Rồi khi khói đã loãng ra, bụi đã lắng xuống, hai ba khẩu một cứ thay nhau nhè vào những con tàu đang trở xuôi theo gió mà nã những viên gang 2 kilô vào. Lần này thiệt hại cũng không có gì đáng kể nhưng mục đích chính là không để cho bọn Tây Ban Nha xả hơi đã đạt được.
Trong lúc đó các khẩu pháo chuyển từ "Atrevida" lên lại vội vã nã đạn. Chúng được xối nước làm nguội, rồi thông nòng, bàn chải các thứ lại rối rít làm việc.
Không tham dự gì vào khung cảnh tất bật đó, quan toàn quyền hỏi xem lôi mấy khẩu pháo cũ rích nọ ra bắn làm gì cho phí thuốc súng trong khi bên pháo đài mới vẫn còn những khẩu pháo tầm xa có thể bắn vào bọn Tây Ban Nha những viên đạn nặng mười một, thậm chí cả mười lăm kilô. Bị trả lời loanh quanh mãi, ngài thôi không hỏi nữa và bắt đầu ra lệnh, thế là được đề nghị đừng làm quẩn chân người khác. Việc phòng thủ đã có kế hoạch cặn kẽ cả rồi.
Các tàu Tây Ban Nha đã chấm dứt cuộc cãi vã. Chúng lại lao vào tấn công và tất cả lại bắt đầu từ đầu. Pháo từ tàu lại nã vào pháo đài và lần này đã giết chết mấy người da đen và làm dăm tên cướp bị thương vì đá văng vào tay, thuyền trưởng Blood đã ra lệnh rút khỏi pháo đài trước khi các tàu nổ súng.
Khi đợt tấn công thứ hai bị đẩy lùi và các tàu lui ra để nạp đạn, thuyền trưởng Blood ra lệnh rút hết pháo từ pháo đài, bởi vì chỉ cần vài loạt đạn từ tàu bắn vào là đủ để chôn vùi những khẩu pháo này dưới đống gạch vụn. Bọn cướp biển, người da đen và dân cảng Antigua - hết thảy đều được huy động xúm vào bệ pháo. Tuy vậy vẫn phải mất ít nhất một giờ mới lôi được pháo từ đống đổ nát ra và bố trí ở phía sau pháo đài, lùi sâu vào bờ, nơi Ogle cùng đám thủ hạ lại bắt tay vào hiệu chỉnh và nạp đạn. Việc này được tiến hành ở phía sau pháo đài nên khi bọn Tây Ban Nha xông vào lần thứ ba chúng đã không hề hay biết. Lần này thì bên phòng thủ không nổ súng để mặc cho cơn lốc gang ập xuống tàn tích của tòa pháo đài khi đó đã không còn ai. Khi cơn mưa đạn đã lắng đi, tại nơi trước đây là pháo đài chỉ còn lại một đống đất ngổn ngang không ra hình thù gì và tốp quân bảo vệ pháo đài ẩn nấp phía sau nghe thấy bọn Tây Ban Nha hò hét khoái trá, bởi vì không còn thấy một tiếng súng nào đáp lại cuộc oanh kích của chúng nữa.
Ngạo mạn, tự tin, Don Miguel thừa thắng xốc tới. Giờ thì không cần phải lui lại nạp đạn nữa. Đã quá ngọ từ lâu, hắn sẽ kịp đưa quân lên Saint John trước khi trời tối. Tuy nhiên màn khói bụi che chở cho quân phòng thủ và che kín vị trí đặt pháo của họ để khỏi bị kẻ thù phát hiện nhưng vẫn không ngăn được con mắt tinh tường của bọn cướp biển vì chúng đứng rất gần ngay sau đấy. Chiếc kỳ hạm chỉ còn cách lối vào vụng tàu chừng 500 mét thì sáu khẩu pháo nhồi đạn ghém quét một trận cuồng phong chết chóc trên các mặt boong của nó làm hư hại nặng buồm dây. Rồi hầu như ngay lập tức lại sáu khẩu nữa bồi tiếp một loạt đạn ghém và dù không hiệu quả bằng nhưng ít ra nó cũng làm tăng thêm sự lúng túng và hoảng sợ do bị tập kích bất ngờ dường ấy.
Giữa lúc ngừng tiếng súng, bên phòng thủ nghe thấy tiếng kèn từ kỳ hạm rúc lên truyền lệnh của đô đốc sang các tàu còn lại trong hải đội. Vội vã ngoặt gấp hướng gió, các tàu Tây Ban Nha trong một khoảnh khắc đã chìa mạn về phía địch và thế là, theo hiệu lệnh của thuyền trưởng Blood, những khẩu pháo còn chưa khai hỏa lại nhất tề nã một loạt đạn pháo vào buồm dây của các tàu Tây Ban Nha. Hầu như không phát nào trượt, một viên may hơn cả còn phạt gãy cột buồm giữa của chiếc tàu chiến. Bị hư hại như vậy, chiếc tàu chiến không còn điều khiển được và chúi vào chiếc xà lúp, buồm dây hai tàu xoắn tít vào nhau, rồi trong lúc cả hai đang cố sức gỡ dây để rút theo các tàu khác thì những khẩu pháo địch vừa được dội nước làm nguội và nạp đạn xong lại liên tiếp dội lửa dọc theo mặt boong của chúng.
Khi những khẩu pháo đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và tạm thời ngừng bắn, thuyền trưởng Blood đang cắm cúi bên khẩu pháo cạnh gã pháo thủ bèn đứng thẳng dậy nhìn vào bộ mặt dài thượt trang trọng sa sầm của ngài toàn quyền và phá lên cười. Chàng nói:
À, mẹ kiếp, lại như mọi khi, chỉ khổ những người vô tội.
Đại tá Courtney cười khẩy đáp:
- Nếu anh chịu làm theo cách tôi cho là hợp lý thì ...
Thuyền trưởng Blood ngắt lời ngài không chút nể nang:
- Trời đất ơi! Xem ra ngài lại còn không hài lòng nữa đấy, đại tá? Nếu tôi làm theo lời khuyên của ngài thì tôi phải ngả hết chủ bài của mình ra từ lâu rồi. Nhưng tôi lại không muốn để lộ chủ bài của mình trước khi tên đô đốc đi đúng nước cờ mà tôi đã tính cơ.
- Thế nếu như lão đô đốc không chịu đi nước ấy thì sao?
- Đi chứ! Thứ nhất là vì tính hắn thế rồi, hai nữa là vì hắn không còn nước nào khác. Tóm lại, bây giờ ngài có thể cứ việc về nhà nằm khểnh, đặt mọi hy vọng vào tôi và tạo hóa đi.
- Tôi cho rằng không thể đánh đồng ông với tạo hóa được, thưa ông. - Quan toàn quyền lạnh lùng nhận xét.
- Dù vậy ngài vẫn đành phải chịu thế thôi. Tôi thề là đúng thế đấy. Bởi vì cả tạo hóa, cả tôi, chúng tôi có thể làm được những phép màu nếu chịu thông đồng với nhau.
Một giờ trước khi mặt trời lặn, các tàu Tây Ban Nha thả trôi án binh bất động cách đảo hai dặm. Tất cả dân cư Antigua - cả đen lẫn trắng - được thuyền trưởng cho về nhà ăn uống. Chỉ còn lại chừng bốn chục người được chàng giữ lại đề phòng có gì đột xuất. Sau đó bọn cướp biển ngồi xuống giữa trời bồi bổ sức khỏe bằng hàng lô đồ ăn và chút ít rượu rum.
Vầng mặt trời ngụp xuống mặt nước cẩm thạch của biển Caribe và chốc lát màn đêm đã buông dày dường như có ai thổi tắt phụt ngọn nến - màn đêm đen mượt như nhung giữa bầu trời không trăng điểm vô vàn vì sao nhấp nhánh.
Thuyền trưởng Blood đứng lên hít một hơi dài. Gió tây bắc trong lành lúc chiều vừa ngưng giờ đã lại nổi lên. Chàng ra lệnh dập tắt hết đèn lửa, không để lộ ánh sáng để khỏi đánh động những kẻ chàng đang chờ đợi.
Còn ở ngoài khơi, trong một gian buồng rộng rãi xa hoa trên kỳ hạm Tây Ban Nha, tên đô đốc lừng danh, kiêu hãnh, quả cảm và mù tịt đang chủ tọa họp bàn quân cơ. Nhưng thực ra đâu có họp bàn gì bởi vì vị hải soái kia mời các thuyền trưởng trong hải đội đến chỉ để áp đặt cho họ ý muốn của mình. Kế hoạch là vào nửa đêm tịch mịch trong khi quân phòng thủ Saint John đã ngủ yên lành, tin chắc rằng từ giờ đến sáng không sợ bị tấn công, các tàu Tây Ban Nha sẽ vượt qua pháo đài, tắt hết đèn lửa, âm thầm lọt vào vụng tàu. Sáng ngày ra chúng đã buông neo ở bên trong cảng, cách pháo đài chừng một dặm, nòng pháo đã nhằm thẳng vào thành phố.
Vậy là dân Antigua chỉ còn có nước bó tay chịu chết!
Bọn Tây Ban Nha đã làm theo kế đó: thả buồm đón gió thuận, thu bớt buồm để lướt êm từ từ tiến qua màn đêm đen thẫm. Chiếc kỳ hạm dẫn đầu và chẳng mấy chốc cả hải đội đã đến gần lối vào vụng, nơi màn đêm càng dày đặc hơn và trên luồng đường giữa hai vách đá dựng đứng thì tối đen như mực. Im lặng như trong mồ. Không một tia sáng. Chỉ ở đằng xa, nơi sóng tràn lên bờ là còn lờ mờ một dải lân tinh của bọt sóng và trong cái tịch mịch chết lặng ấy chỉ còn nghe thấy tiếng sóng vỗ vào mạn tàu êm đềm. Chiếc galleon kỳ hạm còn cách pháo đài chừng 200 mét và cách chỗ "Atrevida" bị đánh chìm cũng chừng ấy. Thủy thủ đoàn tập trung bên mạn cao trong im lặng căng thẳng, Don Miguel đứng trên boong sau, chống can cúi xuống, bất động như một pho tượng. Chiếc galleon đến ngang pháo đài và bụng Don Miguel đã thầm mở cờ ăn mừng thắng lợi thì bỗng dưng sống đáy tàu đâm vào cái gì đó cưng cứng, rít lên ken két: con tàu rung lên bươn tới thêm một quãng trong tiếng cọ xát càng tăng rồi dừng lại - dường như móng vuốt của một con thủy quái gì đó đã kẹp cứng lấy thân tàu. Những cánh buồm căng gió của con tàu bất động cứ đập phành phạch, cột buồm rít lên, dây nhợ kêu răng rắc.
Bấy giờ, trước khi tên đô đốc kịp hiểu tai họa gì đã đến với hắn, một vầng lửa soi rọi sáng mạn trái con tàu và thinh không rung lên trong tiếng pháo gầm, tiếng cột xà đổ gãy, tiếng buồm dây rách đứt: những khẩu pháo từ tàu "Arabella" chuyển lên đến giờ vẫn im lặng náu mình sau các lũy đất được ngụy trang rất khéo, đồng loạt phun ra những hòn gang nặng 15 kilô vào chiếc kỳ hạm Tây Ban Nha từ cự ly sát sạt. Những đường đạn chính xác ghê người hẳn phải cho đại tá Courtney hiểu ra tại sao thuyền trưởng đã không tiếc đạn để đánh chìm tàu "Atrevida" - nhờ vậy mà bây giờ không cần ngắm nghía gì chàng vẫn có thể bắn mò được như thường.
Chiếc kỳ hạm chỉ bắn trả được một loạt loạn xạ vào bóng tối rồi sau đó tên đô đốc phải rời khỏi con tàu vỡ toác của mình và chỉ còn nổi trên mặt nước vì sống đáy của nó đã cắm chặt vào khung của chiếc tàu đắm mà thôi. Cùng đám tàn quân sống sót, tên đô đốc chuyển sang tàu "Indiana " - chiếc tàu chiến này không kịp giảm tốc độ nên đã đâm vào đuôi kỳ hạm. May mà tốc độ không lớn nên chiếc tàu không bị hư hại gì nghiêm trọng, vả lại viên thuyền trưởng cũng tỉnh, lập tức hạ lệnh thu nốt mấy cánh buồm đang thả.
Phúc cho bọn Tây Ban Nha là lúc đó các khẩu pháo trên bờ đang nạp lại đạn. Nhân lúc ngừng chiến ngắn ngủ đó "Indiana" đã đón bọn tàn quân từ kỳ hạm kéo sang, chỉ còn chiếc xà lúp theo sau cũng đã kịp phán đoán tình hình, vội vàng thu hết buồm rồi chèo đến gần "Indiana", kéo đuôi nó rời khỏi chiếc kỳ hạm và đưa ra chỗ trống, nơi chiếc tàu chiến thứ hai đã kịp thả trôi bắn bừa lên những bức lũy im lìm trên bờ.
Nhưng làm thế nó chỉ tổ để lộ cho đối phương biết vị trí của mình và chẳng mấy chốc các khẩu pháo lại ầm ầm nhả đạn. Một viên trong số đó đã hoàn tất công việc - nó đập vụn bánh lái của chiếc "Indiana " nên chiếc tàu chiến còn lại đành phải dắt nó ra.
Chẳng bao lâu cả hai bên đều ngừng bắn và cái im lặng yên bình của một đêm nhiệt đới đáng lẽ đã trùm xuống Saint John, nếu dân chúng thành phố không trở dậy, chạy nhanh ra bờ biển để xem chuyện gì.
Khi vừng đông vừa rạng, trên mặt nước mênh mông của biển Caribe chẳng còn thấy một con tàu nào ngoài "Arabella" đang buông neo dưới vách đá dựng đứng đón những khẩu pháo đã được chuyển lên bờ sang mạn phải một nửa đã bị ngập nước. Một đoàn thuyền nhỏ đang lâu nhâu xung quanh xác chiếc kỳ hạm - bọn cướp vội vàng khuân đi những của quý có trên tàu. Chúng chuyển hết chiến lợi phẩm lên bờ: pháo và vũ khí, nhiều thứ rất đáng giá, bát đĩa vàng bạc, một bộ đồ ăn bằng bạc, hai rương nẹp sắt, chắc là kho bạc của hải đội - chừng gần năm chục ngàn real Tây Ban Nha, - ngoài ra còn vô số đá quý, thảm phương đông, quần áo và các tấm rèm gấm sang trọng lấy từ buồng đô đốc ra. Tất cả được dồn đống bên cạnh lũy để chuẩn bị chia đều theo luật lệ của giới "Hải hồ huynh đệ".
Lúc việc bốc dỡ chiến lợi phẩm từ chiếc tàu đắm lên bờ đã xong, bỗng đâu một đàn la xuất hiện và dừng lại cạnh đống của.
- Gì thế này? - thuyền trưởng Blood đang đứng gần đó bèn hỏi.
- Quan lớn toàn quyền gửi đến đấy ạ, - gã da đen dắt la đáp. - Nghĩa là để chở các thứ này về đấy mà.
Thuyền trưởng Blood lấy làm lạ, sau một hồi ngạc nhiên, chàng nói:
- Đa tạ! - Rồi chàng ra lệnh chất đồ đạc lên lưng la chuyển ra mép nước, cho xuống xuồng để đưa lên boong "Arabella".
Sau đó chàng đi đến dinh toàn quyền.
Chàng được mời vào một căn phòng hẹp mà dài, một bên treo chân dung của tiên vương Charles II đã quá cố đang cười nhạo hình bóng của chính mình trên bức tường đối diện.
Trong phòng có một chiếc bàn cũng hẹp và cũng dài, bên trên có vài cuốn sách và một cây đàn ghi ta, mấy nhánh xiêm gai trắng thơm lừng cắm trong chiếc lọ pha lê. Quanh bàn là những chiếc ghế bằng gỗ mun, lưng tựa dựng đứng và đệm ngồi cứng.
Quan toàn quyền xuất hiện, có Macartney tháp tùng. Qua một đêm mặt quan lớn dường như càng dài thêm ra.
Ống nhòm cắp nách, tay cầm chiếc mũ rộng vành cắm lông chim lồng bồng, thuyền trưởng Blood cúi chào.
- Tôi đến từ biệt ngài đây, thưa đại tá.
- Còn tôi thì cũng định gọi cho ông đấy. - Cặp mắt nhạt nhẽo của đại tá bắt gặp cái nhìn thẳng thắn, rắn rỏi của thuyền trưởng Blood liền vội vàng tránh đi. - Tôi được biết số lượng lớn của cải đã bị ông dỡ từ chiếc tàu Tây Ban Nha vỡ. Sau đó tôi lại nhận được báo cáo rằng ông đã chất chỗ của cải đó lên tàu của mình rồi. Ông có nhận thấy rằng số chiến lợi phẩm này là tài sản của Đức Hoàng thượng không?
- Cái đó tôi không rõ, - thuyền trưởng Blood đáp.
- Thật à? Nếu vậy tôi xin báo để ông rõ.
Thuyền trưởng Blood mỉm cười kẻ cả, lắc đầu.
- Đó là chiến lợi phẩm.
- Đúng vậy. Nhưng cuộc chiến được tiến hành nhân danh Hoàng thượng và nhằm bảo vệ thuộc địa của Người.
- Có thế thật, nhưng tôi có phụng sự đức vua đâu.
- Khi tôi chấp nhận lời khẩn cầu của ông, đồng ý thuê ông và người của ông bảo vệ đảo đương nhiên phải hiểu là ông tạm thời phụng sự đức vua rồi.
Thuyền trưởng Blood ngạc nhiên nhìn quan toàn quyền, xem ra câu chuyện đã khiến chàng thích thú.
- Vậy chứ trước khi được cử ra tiếp nhận chức toàn quyền quần đảo Dưới Gió ngài làm nghề gì, thưa ngài? Có phải là thầy cãi không?
- Thuyền trưởng Blood, ông đã tự cho phép mình ăn nói với tôi bằng giọng xấc xược rồi đấy!
- Có thế thật, nhưng ngài còn đáng bị xử tệ hơn nữa kia. Vậy ra ngài đã hạ cố thuê tôi đấy? Rộng lượng quá nhỉ! Chuyện gì đã xảy ra với ngài lúc này nếu tôi không ra tay giúp ngài cái việc mà ngài đã rộng lòng chấp nhận ấy?
- Yêu cầu ông chớ lảng tránh đề tài ta đang nói. - Đại tá phán một cách lạnh lùng và cao ngạo. - Lãnh trách nhiệm phụng sự đức vua, ông đã nhận lấy nhiệm vụ phục tùng các điều lệnh hiện hành trong quân đội của Người. Việc ông chiếm đoạt các của cải trên chiếc kỳ hạm Tây Ban Nha là hành động cướp bóc và theo các điều lệnh nói trên ông phải bị nghiêm trị.
Thuyền trưởng Blood nhận thấy tình thế mỗi lúc một thêm khôi hài. Chàng nhếch mép cười.
- Bổn phận của tôi rõ ràng là đòi hỏi tôi phải bắt giữ ông. - Quan toàn quyền nói tiếp.
- Nhưng tôi hy vọng là ngài sẽ không làm thế đâu.
- Tôi sẽ không làm nếu như ông biết lợi dụng sự khoan nhượng của tôi và rời khỏi đây không chậm trễ.
- Tôi sẽ rời khỏi đây sau khi nhận đủ một trăm sáu chục ngàn real , số tiền mà ngài đã thuê tôi.
- Ông lại thích được trả công bằng hình thức khác cơ, thưa ông. Hơn nữa lại còn vi phạm điều lệnh. Cuộc nói chuyện đến đây là chấm dứt, thuyền trưởng Blood!
Blood nheo mắt nhìn ngài. Chả nhẽ thằng cha này lại đần độn đến thế! Hay chẳng qua hắn chỉ là đứa bất tín?
- Ra ngài cũng chắc lép gớm! - Blood bật cười. - Chắc tôi từ giờ đến hết đời chỉ còn có mỗi một việc là đi cứu viện các thuộc địa Ănglê mất thôi! Nói thế chứ chừng nào còn chưa nhận được một trăm sáu chục ngàn của mình đừng hòng tôi chịu đi. - Chàng ném mũ lên bàn, kéo ghế và ngồi duỗi dài cẳng. - Trời hôm nay bức quá, đại tá nhỉ?
Mắt ngài đại tá long lên giận dữ.
- Đại úy Macartney, vệ binh đang chờ ngoài hành lang đấy. Ông làm ơn gọi vào đây cho tôi.
- Ngài làm sao thế, tính bắt tôi chăng?
- Dĩ nhiên, thưa ông, - đại tá sầm mặt đáp. - Đó là nghĩa vụ thiêng liêng của tôi. Đáng lẽ tôi đã phải làm việc đó ngay từ lúc ông đặt chân lên bờ kia. Hành động của ông chứng tỏ rằng tôi phải bắt giữ ông bất chấp mọi thứ! - Ngài khoát tay cho tên lính thập thò ngoài cửa. - Đại úy Macartney, ông hãy lo việc này cho.
- Ồ, gượm đã, đại úy Macartney! Chớ vội thế, đại tá! - Blood đưa tay ngăn lại. - Thế này coi như tuyên chiến rồi còn gì.
Ngài đại tá khinh khỉnh nhún vai.
- Ông muốn gọi thế nào tùy ông. Cái đó không quan trọng.
Thuyền trưởng Blood không còn một chút băn khoăn nào về chuyện tín nghĩa của ngài toàn quyền nữa. Đại tá Courtney chỉ là một thằng ngốc thảm hại nên không thể nhìn xa hơn mũi mình được.
- Trái lại, cái đó quan trọng lắm. Một khi các ngài đã tuyên chiến thì ta sẽ đánh nhau đàng hoàng. Nhưng xin cảnh cáo trước: nếu là địch thủ của ngài tôi cũng sẽ không chút nương tay, giống như hôm qua tôi đã không nương tay đối với bọn Tây Ban Nha để bảo vệ các ngài đấy.
- Mẹ kiếp! - Macartney kêu lên. - Chết đến đít rồi mà nó còn nói thánh nói tướng!
- Lắm kẻ đã thử đe tôi thế rồi đấy, đại úy Macartney. Vì vậy ông cũng chớ nên bốc đồng quá. - Blood mỉm cười, sau đó nói thêm - may cho hòn đảo của các ngài là cuộc chiến tranh mà các ngài vừa tuyên chiến với tôi đây có thể sẽ kết thúc mà không đổ máu. Thực ra các ngài đáng lẽ phải hiểu là nó đang được tiến hành, hơn nữa tôi lại giành được ưu thế chiến lược áp đảo thành thử các ngài chỉ còn mỗi một cách là đầu hàng đi cho sớm.
- Ông nói sao tôi không hiểu đấy, thưa ông.
- Chẳng qua là ngài không nhìn thấy ngay cả điều đã sờ sờ trước mắt đó thôi. Tôi kết luận rằng hình như cái phẩm chất này ở đất nước chúng ta được coi là không bắt buộc đối với một viên khâm sứ ở thuộc địa. Kiên nhẫn tí đã nào, đại tá. Xin ngài nhớ cho rằng tàu của tôi đang nằm ngoài bến cảng. Trên tàu có hai trăm chiến binh sắt đá đã trải qua chiến đấu, chỉ cần một đòn là họ đủ diệt sạch cái đồn binh thảm hại của các ngài, còn bốn chục khẩu pháo của tôi chỉ cần một tiếng đồng hồ là đưa được hết lên bờ, rồi quay qua, quay lại đã thấy Saint John chỉ còn là một đống gạch vụn sau một tiếng đồng hồ nữa. Việc nơi đây là thuộc địa của Anh sẽ không ngăn cản được ai đâu, chớ có hy vọng hão. Xin phép được nhắc ngài rằng người của chúng tôi một phần ba là người Pháp, còn lại thì toàn loại cặn bã như tôi đây cả. Chúng sẽ rất sung sướng được cướp phá thành phố này, thứ nhất là vì nó được mang tên lão ma mà tất cả bọn chúng đều ghét, hai nữa là vì quấy nhiễu Antigua một phen cũng bõ công, ít ra là để tìm chỗ vàng mà các ngài đào được ở đây.
Macartney nổi giận bừng bừng nắm vội đốc kiếm, nhưng đến đó thì ngài đại tá không kìm được nữa. Tái người vì tức, ngài vung bàn tay xương xẩu đầy tàn nhang mà hét toáng lên:
- Tên khốn kiếp vô sỉ! Đồ cướp biển! Thằng tù sổng! Mày quên rằng sẽ không có chuyện đó vì chúng tao sẽ không thả mày về với lũ kẻ cướp chết toi của mày đâu!
- Có lẽ ta nên cám ơn nó đã báo trước chăng thưa ngài - Đại úy Macartney châm chọc.
- Trời đất ơi, các ngài thật chẳng có tí đầu óc nào cả, đúng như hôm qua tôi đã nhận thấy! Chỉ cần nhìn qua mấy con la của ngài là tôi hiểu ngay các ngài định chơi trò gì và đã có biện pháp đề phòng cả rồi. Đúng thế! Tôi đã ra lệnh cho phụ tá của tôi đến chính ngọ cứ coi là đã bắt đầu chiến tranh, chuyển ngay pháo lên bờ bố trí trong pháo đài hướng nòng vào thành phố. Tôi đã giao những con la của ngài cho hắn sử dụng rồi. - Liếc nhanh đồng hồ trên lò sưởi, chàng nói tiếp. - bây giờ đã gần mười hai rưỡi. Từ cửa sổ của ngài trông rõ pháo đài đấy, - chàng đứng dậy và đưa ống nhòm của mình cho quan toàn quyền, - ngài thử nhìn xem sẽ thấy rằng những điều tôi vừa nói đã được triển khai cả rồi.
Im lặng trùm xuống. Quan toàn quyền bầm gan tím ruột nhìn Blood. Sau đó, vẫn không thèm hé răng, ngài giật ống nhòm và bước ra cửa sổ. Khi trở vào, mặt ngài méo xệch vì tức tối.
- Nhưng ông tính cũng có chỗ sót đấy. Chính ông thì vẫn còn trong tay chúng tôi đây thôi. Tôi sẽ báo cho cái đám cướp biển của ông rằng chúng mà bắn một phát nào là ông bị treo cổ tức thì. Gọi vệ binh đi, Macartney. Ba hoa thế đủ rồi!
- Chờ tí nữa đã, - Blood nói. - Sao mà ngài xét đoán vội vàng quá thế! Wolverstone đã nhận lệnh của tôi và không có gì, không một lời đe dọa nào của ngài có thể buộc hắn làm sai lệnh đó mảy may. Ngài cứ việc treo cổ tôi, tùy ngài. - Chàng nhún vai. - Nếu tôi tiếc mạng sống thì há tôi lại theo nghiệp cướp biển? Nhưng ngài nhớ lấy: sau khi ngài treo cổ tôi, bọn thủ hạ của tôi sẽ phá tan thành phố này không còn hòn gạch nào lành đâu. Để báo thù cho tôi chúng sẽ không thương xót người già, phụ nữ lẫn trẻ con đâu. Hãy nghĩ kỹ đi, hãy nhớ tới bổn phận của ngài đối với đức vua và đối với thuộc địa được giao phó cho ngài - cái bổn phận mà ngài nói rất đúng là bổn phận hàng đầu đấy.
Cặp mắt xanh nhạt nhẽo của quan toàn quyền nhìn xoáy vào Blood như muốn xuyên suốt tim gan chàng. Blood đứng trước mặt ngài vẫn ung dung không chút sợ sệt và vẻ ung dung của chàng thật là đáng sợ.
- Ồ, quỷ bắt ta đi! Đáng đời cho ta, ai bảo dây vào bọn cướp biển làm gì! Ta sẽ trả cho ngươi một trăm sáu chục ngàn cho rảnh nợ, rồi ngươi phải xéo ngay khỏi đây! Vĩnh biệt!
- Một trăm sáu chục ngàn à? - Thuyền trưởng Blood ngạc nhiên nhướng mày. - Đó là số tiền ngài trả cho tôi trên danh nghĩa là đồng minh. Cái đó đã được thỏa thuận đàng hoàng trong giao ước trước khi khai chiến kia.
- Thế chứ ngươi còn đòi quái gì nữa?
- Vì ngài đã hạ vũ khí đầu hàng và tự nhận là thua nên bây giờ ta có thể chuyển sang thảo luận các điều kiện hòa ước được rồi.
- Lại còn điều kiện gì nữa? - Cơn bực bội của quan toàn quyền mỗi lúc một tăng.
- Để tôi nói ngài nghe. Trước hết, ngài phải trả chúng tôi một trăm sáu chục ngàn cho sự giúp đỡ của chúng tôi. Sau đó trả thêm hai trăm bốn chục ngàn để chuộc thành phố khỏi bị tàn phá.
- Sao? Hừ, trời đất quỷ thần ơi! ...
- Tiếp theo, - thuyền trưởng Blood vẫn nói tỉnh khô, - tám chục ngàn để chuộc chính ngài, tám chục ngàn nữa để chuộc gia quyến ngài và bốn chục ngàn chuộc tất cả các nhân vật có vai vế khác của thành phố, kể cả đại úy Macartney đây nữa. Tổng cộng là sáu trăm ngàn, số tiền này phải trả trong thời hạn một giờ, nếu không thì sẽ muộn đấy.
Nhìn quan toàn quyền mà phát khiếp. Ngài lắp bắp định nói gì đó nhưng không được, đành rơi phịch xuống ghế. Rồi khi đã nói ra lời, giọng ngài run rẩy và lạc hẳn đi.
- Ông ... ông trêu gan ta quá đấy. Ông tưởng tôi điên chắc?
- Cứ treo cổ nó lên, ngài đại tá, thế là rảnh chuyện, - Macartney không nhịn được thốt lên.
- Và san bằng luôn cả thành phố, cái thành phố mà bổn phận của ngài là phải cứu bằng mọi giá, nhớ đấy, bằng mọi giá! - Thuyền trưởng Blood kết luận.
Quan toàn quyền đưa tay lau cái trán đẫm mồ hôi và rên lên.
Cứ như thế họ lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần những điều đã nói, mãi sau đại tá Courtney thình lình phá lên cười điên loạn.
- Ma bắt tôi đi! Kể cũng lạ là ông khiêm nhường quá đấy. Sao ông không đòi hẳn chín trăm ngàn hay thậm chí chín triệu cho chẵn ...
- Đúng đấy, - thuyền trưởng Blood đáp. - Nhưng tôi vốn là người khiêm nhường, hơn nữa tôi cũng có chút khái niệm về tầm cỡ kho bạc của ngài.
- Nhưng ông không cho tôi đủ thời gian mà! - quan toàn quyền tuyệt vọng thốt lên, chứng tỏ là ngài đã chịu thua. - Làm sao tôi kiếm đủ ngần ấy tiền trong một giờ được?
- Tôi không đòi hỏi điều gì không làm nổi đâu. Ngài hãy nộp đủ tiền cho tôi trước khi mặt trời lặn rồi tôi sẽ đưa tàu đi khỏi đây ngay. Còn bây giờ xin phép cáo từ, tôi còn phải ngăn mọi người không cho họ mở màn trận đánh. Chúc các ngài ở lại bình an!
Họ đành phải để chàng đi, chẳng còn làm thế nào được. Rồi khi hoàng hôn buông xuống, đại úy Macartney cưỡi ngựa đến pháo đài của bọn cướp biển. Đằng sau y là một gã đày tớ da đen dắt một đàn la thồ các túi vàng.
Thuyền trưởng Blood một mình ra đón.
- Phải tay tôi thì đừng có hòng. - Gã đại úy bụng dạ hẹp hòi rít qua kẽ răng.
- Tôi sẽ cố ghi nhớ để đề phòng trường hợp chẳng may ông được cử ra cai trị thuộc địa nào. Giờ thì ta vào việc. Những túi này là gì vậy?
- Mỗi túi chứa bốn chục ngàn đấy.
- Thế thì dỡ xuống cho tôi bốn túi - đó là một trăm sáu chục ngàn trả cho tôi công bảo vệ đảo. Còn lại thì ông có thể đưa về cho ngài toàn quyền và cho tôi gửi lời chào ngài. Hãy coi đó là bài học cho ông ta, và cả cho ông nữa, đại úy thân mến ạ, để ông hiểu rằng cái bổn phận hàng đầu, bổn phận chính nhất của mỗi người - đó là bổn phận đối với chính mình, đối với lương tâm và danh dự của chính mình chứ không phải đối với chức vụ và vừa trung thành với bổn phận nhưng lại vừa thất hứa là không được đâu!
Đại úy Macartney sửng sốt kêu lên.
- Quỷ tha ma bắt tôi đi! - Y lẩm bẩm lạc cả giọng. - Nhưng ông là cướp biển cơ mà!
- Tôi là thuyền trưởng Blood. - Giọng nói nghiệt ngã của chàng cướp biển lạnh lùng đáp lại.
Chú thích:
[1] Eo biển Anegada là một trong những ngõ biển lớn ở vùng Caribe, nối biển Caribe và Đại Tây Dương. Eo biển này nằm ở tọa độ: 18°30′00″N 63°40′00″W, ngăn cách quần đảo Virgin thuộc Anh và đảo Sombrero thuộc Anguilla.