NGÀY THỨ BẢY
Tác giả: Sái Tuấn
0 giờ 0 phút 01 giây.
Tôi lại nghe thấy tiếng mưa ngoài cửa sổ, nhưng sân khấu này vẫn không có gì biến đổi, chỉ là cảnh nền phía sau biến thành bờ biển hoang vu - ở giữa biển và nghĩa trang, đây chính là Hoang thôn.
Người đàn bà phục sinh đứng trên vách núi cheo leo của Hoang thôn, cô ta dang rộng đôi tay tiến về phía tôi, ánh mắt được tôn lên trong bóng đen lóe sáng.
Rút cuộc, cô ta mấp máy môi, giọng hát kỳ lạ phát ra từ kẽ răng.
Đó hình như là giọng của một gô gái khác, cất lên giai điệu chậm rãi, văng văng bay ra từ miệng cô ta – cô ta đang hát bài gì?
Giai điệu này lập tức cuốn lấy thân thể tôi, theo chuyển động của môi cô ta đập vào màng nhỉ tôi, giống như thủy triều đang dần dâng lên trong đêm tối, như thủy triều đang dần dâng lên trong đêm tối, tràn ngập sức mạnh.
Vẫn là giai điệu tôi nghe thấy trong DV, giờ đây đang hiện lên toàn bộ trước mặt tôi. Không cần phải thông qua loa máy tính nữa, hơi thở cô ấy hát có thể trực tiếp phả vào mặt tôi – đây là một sự thật đáng sợ, là điều mà bất cứ giả thiết nào cũng không thể đặt cạnh nhau để bàn luận, bất cứ người hoặc vật nào cũng không thể hư cấu ra được, chỉ có duy nhất người đàn bà sống lại từ thế giới cổ địa này mới có thể cất lên câu ca dao cổ xưa đã hóa thạch này.
Đúng vậy, tôi vẫn không sao hiểu được bất cứ ca từ nào của cô ta. Không biết đây là ngôn ngữ của người Lương Chử năm nghìn năm trước, hay là ngôn ngữ thông dụng của người Trái đất thế kỷ nào đó trong tương lai.
Tiếng hát biến đổi theo ánh mắt của cô ta, lúc thì trầm ngâm ai oán, lúc lại vút cao vồn vã, giống như đang tỉ tê trút bầu tâm sự về một câu chuyện nào đó…
Đột nhiên, tôi loáng thoáng nghe thấy thứ âm thanh khác, hình như là ống tiêu, ống sáo, đàn tranh và cả khèn, những nhạc khí này đang vang lên trong đêm sâu, làm nhạc đệm cho tiếng hát du dương của cô ta.
Ảo ảnh trước mắt lại hiện lên: cô ta mặc một chiếc áo gấp nếp thêu hoa của mấy trăm năm trước, phía dưới là chiếc váy bằng lụa tơ tằm màu xanh biếc, hai tay đang múa điệu múa tay áo, bước từng bước khoan thai trên sân khấu như dáng liên hoa Bồ Tát, đồng thời miệng vẫn ngân nga bài ca dao cổ xưa.
Đây chính là đòn cuối cùng cô ta dành tặng cho tôi?
Tên của nó là lẳng lơ.
Lúc này đây, tôi không cảm thấy hoảng sợ nữa, trước mắt tôi chỉ còn lại một chữ - đẹp, đẹp tới nỗi khiến người ta quên mất bản thân mình, đẹp tới nỗi khiến người ta cuồng dại trong đêm thâu.
Tôi thậm chí quên mất sự tồn tại của chiếc nhẫn ngọc.
Đây đồng thời cũng là một tấm gương, duy mỹ và khủng hoảng chính là hai mặt của tấm gương này.
Cô ta phất ống tay áo trên sân khấu, giống như cầu vồng bay múa trong ánh sáng ảo ảnh. Biểu cảm buồn bã mà dịu dàng của cô ta như đang trong giấc mộng, phối hợp hoàn mỹ với giai điệu trong miệng cô ấy.
Lúc này tôi đã hoa hết cả mắt, giống như sắp bị cô ta đưa tới một thế giới khác.
Không, lý trí của tôi âm thầm nhắc nhở tôi, có lẽ cảnh tượng này đã diễn lại lần thứ hai ở đây rồi. Vào sáu bảy đêm trước, giây phút mà Tô Thiên Bình nhắn tin cầu cứu tôi, lẽ nào cậu ấy cũng nghe thấy và nhìn thấy tất cả những thứ này?
Lẽ nào – linh hồn họ cũng bị đưa đi như thế này sao?
Tôi đã biết tại sao Tô Thiên Bình xảy ra chuyện rồi!
Trời ơi, tôi run rẩy muốn nhắm mắt bịt tai lại, nhưng mắt và tai tôi đều đã phản bội lại tôi, chúng đang tập trung thưởng thức màn biểu diễn này, nào có biết sợ người biểu diễn sẽ cướp đoạt mất linh hồn của chủ nhân chúng.
Khi tôi đang tuyệt vọng đối diện với ánh mắt hung tợn của cô ta, trên không trung ngàn mét đột nhiên vang lên lời phúc âm của tôi.
Đó là sự phẫn nộ của tầng mây hay là sự quở trách của ông trời?
Ở nơi xa xăm đó, một cơn sấm động rền vang lên, phát ra tiếng nổ kinh thiên động địa, phút chốc chấn động cả nửa thế giới.
Còn tiếng hát u hồn trên sân khấu cũng đột ngột im bặt trong giây phút đó.
Khi tôi đối diện với một u hồn, là lại có thể nghe thấy tiếng sấm giữa mùa đông!
“Thượng tà” của nhạc phủ đời Hán hát thế nào nhỉ?
Sơn vô lăng, giang thủy vị kiệt, đông lôi chấn chấn, hạ vũ tuyết, thiên địa hợp…
(Sông cạn núi mòn, mùa đông sấm dậy, mà hạ tuyết rơi, trờ đất hợp một…)
Kỳ diệu! Hiện giờ “đông lôi” đang “chấn chấn” sấm dậy tới mức kính cửa sổ cũng rung lên bần bật, dậy tới mức hồn của nữ vương sống dậy cũng không nhập được vào xác.
Dưới “đông lôi chấn chấn” này, tôi buột miệng thốt ra câu cuối cùng trong “Thượng tả”:
Nãi cảm dữ quân tuyệt!
(Thì ta mới chịu cùng người biệt ly)
Ánh mắt cô ta thê lương nhường vậy, giống như đang đối dện với một kết cục vô tình, có lẽ đấy là số trời đã định sẵn cho cô ta.
Trước số phận tàn khốc, bất cứ ai cũng bình đẵng như nhau, bao gồm cả nữ vương phục sinh.
Khi tiếng sấm cuối cùng từ từ cuốn đi, tai và tâm hồn tôi rút cuộc cũng không chống đỡ được nữa, tôi như kẻ thất bại thảm hại ngã nhào ra đất.
Mưa to trong đêm tối lại trút xuống, từng hớp, từng hớp nuốt chửng mộng cảnh và linh hồn của tôi. Mọi thứ đều trở nên mờ ảo, trong giây phút trước khi mất đi tri giác, hình như tôi nhìn thấy mắt cô ta.
Một đôi mắt đáng thương.
Ngày
Tôi vẫn còn sống.
Dần dần tỉnh dậy trong mộng cảnh bị nuốt chửng, hình như có tiếng phụ nữ văng vẳng bên tai. Cô ta chính là yêu nữ của Hoang thôn bên bờ biển hay là nữ vương của Cổ Ngọc quốc năm nghìn năm trước?
Nhưng tôi vẫn không mở to mắt được, dường như nửa thân thể vẫn đang ngắm chìm trong nước biển, cho tới khi có một đôi tay ra sức lắc lắc tôi, kéo toi ra khỏi nước biển lạnh buốt.
Mí mắt rút cuộc đã cảm nhận được tia sáng rồi, đây là ánh bình minh rọi vào cửa sổ sao? Tôi từ từ mở mắt, nhìn thấy một khuôn mặt mờ ảo.
Lông mi hình như còn dính vào nhau, tôi chỉ biết thều thào hỏi: “Cô là ai?”
“Anh không nhận ra tôi sao? Tôi là Xuân Vũ mà, anh mau tỉnh dậy đi!”
Giọng nói quen thuộc này chui tọt vào tai, khiến đầu óc tôi bị kích thích – hóa ra là Xuân Vũ? Sao cô ấy lại đến bên cạnh tôi?
Giọng nói của Xuân Vũ rút cuộc đã “kích hoạt” cơ thể tôi, giúp tôi nhìn rõ đôi mắt của cô ấy.
Đúng là cô ấy! Lúc này tôi mới thở từng hớp lớn, giống như sống lại lần nữa vậy.
Tôi khó nhọc xoay người thì phát hiện ra toàn thân mình đã tê cứng rồi, mãi lâu sau mới phục hồi được tri giác, chỉ có ngón trỏ trên tay trái vẫn âm ỉ đau.
Đây là đâu? màu đỏ trên kính cửa sổ vẫn nghiễm nhiên chói mắt, tia sáng xuyên qua màn mưa sớm mai rọi vào.
Đúng, đây là phòng ngủ của Tô Thiên Bình, hình như vẫn còn mùi vị tàn dư của “Hoàn”.
“Anh sao rồi? Rút cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
Xuân Vũ tỏ ra vô cùng lo lắng,c ô ấy ra sức đỡ tôi dậy, cuối cùng thì tôi cũng bò được dậy khỏi sàn nhà.
Nhưng tôi lập tức ngã nhào ra ghế, mờ ảo nhìn chăm chăm vào mặt cô ấy. Chắc cô ấy không tưởng rằng tôi giống như Tô Thiên Bình, vào một sớm nào đó bỗng dưng biến thành người thực vật đâu nhỉ?
“Bây giờ mấy giờ rồi?”
Nghe thấy giọng tôi thốt lên câu nói này, Xuân Vũ rút cuộc cũng đã yên tâm trở lại, cô ấy rặn ra một nụ cười đáp: “7 giờ 20 rồi”.
Tôi ra sức lắc đầu, hồi tưởng lại mọi chuyện xảy ra đêm qua – chính trong căn phòng này, bảy tiếng đồng hồ trước, quá 12 giờ đêm một chút, “Hoàn” đã hát bài ca dao cổ xưa cho tôi nghe, đúng lúc tôi đang hoảng sợ cực độ thì trên trời bỗng vang lên tiếng sấm ầm ầm giựa mùa đông, đúng thật là người may mắn tự có thiên tướng, tiếp theo đó là tôi ngã ra sàn rồi ngất lịm đi.
Đúng rồi, A Hoàn đâu? Cô ta đi đâu rồi? Tôi căng thẳng nhìn xung quanh thì chỉ thấy khuôn mặt u buồn của Xuân Vũ. Trong phòng gần như không có gì biến đổi, chỉ có máy tính vẫn bật.
Cuối cùng, tôi nhìn vào mắt Xuân Vũ hỏi: “Sao cô lại ở đây?”
“Anh biết không? Bộ dạng ban nãy của anh làm tôi sợ quá đi mất!” Cô ấy sờ lên ngực, hít hơi thật sâu rồi nói, “Tối qua tôi gọi điện cho anh, nhưng điện thoại anh kêu mãi mà chẳng thấy bắt máy nên tôi vô cùng lo lắng. Sáng nay lại gọi điện cho anh, nhưng anh vẫn không nghe máy, vậy là tôi đột nhiên nhớ tới Tô Thiên Bình”.
“Thế nên cô đã tự đến đây?”
“Đúng. Tôi tới trước cửa căn hộ này bấm chuông, nhưng bên trong không thấy động tĩnh gì. Tôi đứng ngoài cửa gọi điện cho anh, quả nhiên nghe thấy tiếng chuông điện thoại của anh bên trong vọng ra, tôi nghĩ anh nhất định ở trong này”. Xuân Vũ lại lần nữa bịt miệng mình lại, run rẩy một lúc nói. “Tình huống đó giống hệt lần đầu tiên tôi và anh tới đây, tôi lo lắng hôm nay cảnh tượng đó lại lặp lại lần nữa, vậy là tôi vội vàng gọi bà hàng xóm chủ nhà ra”.
“Bà Tư béo?” tôi gọi thẳng tên nhân vật trong phim “Kungfu”, “Sáng sớm ngày ra cô gọi bà ấy, không sợ bị bà ấy chửi à?”
“Đã đến lúc này rồi mà anh vẫn còn đùa được?” Xuân Vũ tỏ vẻ trách mắng tôi, cô ấy lắc lắc đầu nói, “Không sao cả, bà ấy bảo tối qua đi đánh mạt chược cả đêm bên ngoài, vừa mới về đến nhà”.
“Vậy thì tiếng hát lúc nửa đêm chắc chắn bà ấy không nghe thấy”.
Xuân Vũ không buồn để ý lời tôi nói, tiếp tục kể: “Bà chủ nhà bán tính bán nghi mở cửa cho tôi, tôi vừa mới xông vào phòng ngủ thì nhìn thấy anh nắm bất tỉnh nhân sự trên sàn nhà”.
“Sau đó cô lay tôi tỉnh dậy?”
Cô ấy gật gật đầu, xem ra tâm trạng bình tĩnh hơn ban nãy nhiều rồi.
Tôi cũng đã hồi phục lại chút thể lực: “Cảm ơn cô, Xuân Vũ, xem ra vẫn là cô cứu tôi?”
“Đừng nói chuyện này nữa, nói cho tôi biết rút cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
Nhưng tôi không trả lời ngay, mà móc điện thoại ra xem. Quả nhiên từ 10 giờ tối qua tới giờ có rất nhiều cuộc gọi nhỡ và tin nhắn, cho mãi tới tận mười phút trước, toàn là số điện thoại của Xuân Vũ.
Nhưng tôi không nhớ là đã nghe thấy bất cứ tiếng chuông điện thoại nào. Có lẽ khi tôi đối diện với A Hoàn, tất cả những âm thanh khác đều không nghe thấy, chỉ còn lại âm thanh tuyệt diệu phát ra từ miệng cô ấy – trừ tiếng “đông lôi chấn chấn”.
Cuối cùng, tôi thẳng người lên được, nói: “Cô có tin tất cả những gì tôi nói không?”
“Ít nhất tôi cũng tin mắt anh”.
“Tốt rồi, tôi vừa trải qua một đêm không thể tưởng tượng nổi…”
Sau đó, tôi kể hết lại toàn bộ những gì mình vừa trải qua cho Xuân Vũ nghe, bao gồm tất cả những lời mà A Hoàn nói với tôi không sót một chữ.
Cuối cùng tôi thẫn thờ hỏi: “Cô có tin không?”
Cô ấy bất động chằm chằm nhìn tôi, mím môi đáp: “Đúng thật là chuyện ly kỳ, khó tin như trong ‘Nghìn lẻ một đêm’”.
“Không sai, có lẽ đêm nay chính là đêm thứ 1001”.
“Tôi tin tất cả những gì anh nói với tôi đều là sự thật, nhưng đối với cái thế giới này mà nói thì lại có thể là hư ảo”.
“Ý của cô là - ảo giác?” Tôi lập tứ lắc lắc đầu, “Cô xem cái này đi!”
Tôi giơ tay trái của mình lên, chiếc nhẫn ngọc đang thít chặt lên ngón trỏ trái của tôi.
“Đây là cái gì?”
Xuân Vũ ngô nghê nhìn chằm chằm lên ngón trỏ tay trái tôi, vệt đỏ đun trên nhẫn ngọc đang nhìn cô ấy.
“Nhẫn ngọc?”
Mặt cô ấy lập tức biến sắc, sự trấn tĩnh tự tin vốn có cũng đã tan thành mây khói, cô ấy mím chặt môi không thốt nên lời, chả mấy chốc môi dưới trở nên tím tái.
“Cô biết nó, đúng không?” Tôi vẫn giơ tay trái của mình lên, chiếc nhẫn ngọc đưa qua đưa lại trước mặt cô ấy, “Nếu như cô không tin, sờ thử lên nó sẽ biết ngay”.
Xuân Vũ lập tức xoay người, vai quay về phía tay tôi, hình như lúc nào cũng có thể bỏ chạy ngay được. Nhưng sau một hồi do dự, cô ấy vẫn đưa tay ra, nhẹ nhàng chạm vào chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay tôi.
Khi ngón tay như mỡ đông chạm vào vệt đỏ đun trên chiếc nhẫn ngọc, thì giống như xảy ra một phản ứng hóa học mãnh liệt vậy, trước mắt tôi phút chốc bỗng lóe lên một tia sáng, ngón tay của Xuân Vũ nảy ra như bị điện giật, cả người bị đẩy vào góc tường, gần như là co rúm lại.
“Cô sao thế?”
Tôi giơ tay ra định kéo cô ấy lại, nhưng cô ấy run rẩy né tránh. Tôi lúc này mới nhận ra, cô ấy vô cùng hoảng sợ khi nhìn thấy chiếc nhẫn ngọc trên tay tôi, tôi đành phải thò tay kia ra mới kéo được cô ấy ra khỏi góc tường.
Nhưng dù sao cô ấy cũng là một cô gái kiên cường: “Không sai, chính là chiếc nhẫn ngọc này! Nửa năm trước, chính tôi đã đem nó từ địa cung Hoang thôn về”.
“Đúng vậy, tôi biết là nhất định cô sẽ nhận ra nó, bởi vì lúc đầu chính tôi đã lấy nó từ trong người cô”.
Cô ấy nhìn chằm chằm vào chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay tôi, gần như nghiến răng nghiến lợi nói: “Kể cả nó có vợ thành ngọc vụn tôi cũng nhận ra”.
“Vậy bây giờ cô tin lời tôi rồi chứ?”
Xuân Vũ cúi đầu trầm tư hồi lâu, đau khổ lắc đầu: “Không, tôi không biết. Anh nói rằng A Hoàn chính là nữ vương cuối cùng của Cổ Ngọc quốc đã chết năm nghìn năm trước, nửa năm trước nhờ chiếc nhẫn ngọc được đeo vào ngón tay anh nên cô ta đã phục sinh, và mỗi lần phục sinh đều chỉ có thể kéo dài bảy ngày, bắt buộc phải cướp đi linh hồn của một người nào đó mới có thể tiếp tục sống”.
“Bảy ngày”.
Hai từ này đã nhắc nhở tôi, đến sáng sớm hôm nay đã là ngày thứ bảy rồi, chỉ còn lại mười mấy tiếng đồng hồ - đến 12 giờ đêm vừa vặn là bảy ngày bảy đêm, A Hoàn bắt buộc phải cướp đi một linh hồn vô tội, nếu không sự phục sinh của cô ta sẽ kết thúc tại đây.
“Anh sợ rồi?”
“Không, chỉ là tôi la cho A Hoàn, cũng là lo cho một người nào đó trên thế giới này”.
“Giả thiết nếu cô ta thực sự là nữ vương phục sinh!”.
Xuân Vũ lại thêm vào cho tôi một câu giả định.
Đến giờ phút này quả thật đã không còn đường nào thoát nữa rồi. Mọi việc xảy ra đêm qua thật không thể tưởng tượng nổi, nếu như tôi đem kể cho bất cứ ai nghe, đều sẽ bị coi là kẻ thần kinh mất. Mặc dù chiếc nhẫn ngọc đang thắt chặt trên ngón tay tôi đích thực đến từ lòng đất Hoang thôn, vệt đỏ đun trên nhẫn chính là máu của “Hoàn” – nữ vương Cổ Ngọc quốc năm nghìn năm trước tự sát trên tế đàn chảy xuống. Và hội bốn sinh viên Xuân Vũ cũng đúng là đã mơ thấy “Hoàn” trong đêm ở lại Hoang thôn, đó chính là cảnh tượng cô ấy cắt yết hầu tự sát.
Còn cả Lâm U, cô gái thân thế bi thảm này, cô ấy chính là con gái của giáo sư tâm lý học Hứa Tử Tâm, thân xác cô ấy còn có cả nữ vương “Hoàn” sống lại ký sinh trong đó, tấm thân nhỏ bé của cô ấy đồng thời phải chứa đựng hai linh hồn, xem ra giống như một người mà có hai nhân cách.
“Hoàn” đã cướp đi linh hồn của rất nhiều người, bao gồm cả Tô Thiên Bình đã từng sống trong căn phòng này, chỉ để duy trì bảy ngày phục sinh của cô ta. Đã có rất nhiều lần của bảy ngày qua đi, tương lai vẫn sẽ còn có vô số bảy ngày nữa, người tiếp theo bị cướp mất linh hồn sẽ lại là ai? Có lẽ mười mấy tiếng sau tôi sẽ tỏ tường.
Không, tất cả những điều này rút cuộc là ảo giác của tôi, hay là hư cấu để khống chế sự tiến triển của cuốn tiểu thuyết này đây, cậu chàng đang ngồi trước màn hình máy tính gõ chữ như bay kia, cậu có nghe thấy tiếng gọi của nhân vật trong tiểu thuyết cậu viết đang kêu gọi cậu không? Xin hỏi rút cuộc cậu còn muốn dày vò tôi tới mức nào? Không mau cho tôi biết kết cục đi? Tôi nghĩ rất nhiều bạn độc giả, lúc này đây cũng đang kiến nghị với cậu như thế đấy!
Ngón trỏ trên tay trái lại bắt đầu đau nhức, tôi giơ ngón tay nhìn chiếc nhẫn ngọc, lật qua lật lại, thật thật giả giả đều khiến thần kinh tôi như muốn nổ tung.
Tôi nhớ có một câu chuyện cổ tích như thế này: Truyện kể rằng, có một người Sudan xây một tòa cung điện diễm lệ, bốn bức tường quanh cung điện đều được nạm kín những tấm gương nhỏ muôn hình vạn trạng, bất cứ ai bước vào tào cung điện này cũng sẽ phát hiện ra bản thân mình biến thành vô số người. Một hôm, có một con chó xông vào cung điện, nó nhìn thấy vô số những con chó giống hệt mình đang hướng về nó sủa hung tàn nên đã vô cùng hoảng sợ, rồi lao vào hình bóng trong những tấm gương cắn xé, cuối cùng nó đã tự đâm đầu vào tường chết tươi.
Khi tôi đang tưởng tượng về con chó đáng thương đó, thì đột nhiên nhìn thấy màn hình máy tính lóe sáng, ban nãy màn hình máy tính ở chế độ bảo vệ màn hình, giờ thì cửa sổ của hệ thống giám sát đã hiện ra.
Chuyệt gì vậy? Tôi nhớ là tôi không bật máy tính, tại sao hệ thống giám sát lại tự nhiên xuất hiện? Xuân Vũ rõ ràng cũng giật thót mình, cô ấy chau mày nhìn lên cửa sổ giám sát trên màn hình máy tính, giống như lại nhìn thấy ma vậy.
Tôi lắc lắc đầu ngồi trước màn hình máy tính, camera hiển thị lên phòng ngủ này, góc máy quay hiện rõ là do đầu dò trong khung cửa sổ quay lại. Tôi ngẩng đầu nhìn lên khung cửa sổ, không biết “con mắt” đó quay lại cảnh này lúc nào.
Phòng ngủ trong camera hiện lên ánh đèn sáng trắng, dưới chân màn hình hiển thì thời gian là 8 giờ tối bảy ngày trước – đó chính là trước hôm tôi từ Bắc Kinh trở về, là thời gian mà tôi uống rượu nếp cùng em gái biện tập trong “Trà mã cổ đạo” cạnh bờ biển Hậu Hải.
Và chính trong giây phút này, trong căn phòng ngủ ở Thượng Hải này, lay động một bóng người màu trắng. Cô ta từ từ bước tới trước cửa sổ nhìn lên đầu dò, đôi mắt trong camera biến dạng như ngọn đuốc, nhìn chằm chằm vào chúng tôi trước màn hình máy tính, khiến Xuân Vũ không kìm chế nổi rùng mình một cái.
Tuy khuôn mặt trong hình ảnh camera vừa mờ ảo vừa biến dạng, nhưng tôi vẫn có thể nhận ngay ra cô ta – A Hoàn, không, đó là mắt của Lâm U, ánh mắt phức tạp và u buồn, trong con người cô ta phản chiếu hình ảnh những người đã từng làm hại cô ta, và những người này đều đã mất đi linh hồn từ lâu rồi.
Cô ta đột nhiên lắc đầu rồi cúi đầu ôm lấy vai mình, sau đó ngồi xuống sàn nhà, dáng vẻ giống như trong ki ốt bưu thiếp. Đầu dò chỉ có thể quay được lưng và tóc cô ấy, những sợi tóc đen rối bời, giống như bờm ngựa cái Mông Cổ, hỗn tạp thẻ trên áo trắng.
Hình ảnh lúc này xuất hiện Tô Thiên Bình, đây e rằng là lần cuối cùng khuôn mặt cậu ấy xuất hiện trong camera. Khuôn mặt này trong camera biến dạng xấu xí, tôi rõ ràng không nhận ra cậu ta còn có hình “người” nào nữa, hình như còn giống ma quỷ hoặc dã thú hơn.
Xuân Vũ cũng khẽ thốt lên một tiếng: “Trời ơi, tôi thật sự không nhận ra cậu ấy nữa rồi!”
“Có lẽ con người trước khi mất đi linh hồn đều có mức độ ‘biến dị’ nào đó?”
Tôi vẫn căng thẳng nhìn vào hình ảnh giám sát, chỉ thấy Tô Thiên Bình cẩn thận rón rén lại gần Lâm U, mắt cậu ta phát ra ánh sáng xanh lét âm u dưới đầu dò – giống như một con sói đực trên hoang nguyên, tôi lập tức liên tưởng tới đôi mắt sâu hun hút như giếng cổ của cậu ta nửa năm trước trong kí ức mình.
Xuân Vũ cũng không kìm chế được hét lên: “Sao Tô Thiên Bình lại biến thành con sói thế này?”
“Sói?”
“Đúng vậy, anh không thấy đây là một con sói to đùng sao?” Xuân Vũ dùng ngón tay run rẩy chỉ lên màn hình, “Còn… còn có cả đuôi nữa này…”
Nhưng tôi không hề nhìn thấy “đuôi” của Tô Thiên Bình, lẽ nào là ảo giác của Xuân Vũ nhìn người thành sói? Hay là ảo giác của tôi nhìn sói thành người?
Rút cuộc là cô ấy điên hay tôi điên?
Không, tôi thực sự không nhìn rõ sinh vật dưới đầu dò kia rút cuộc là cài gì, tôi chỉ có thể dùng ba từ “Tô Thiên Bình” để thay thế cho “nó”.
“Tô Thiên Bình” vòng ra phía sau lưng Lâm U, đột nhiên thò tay ra ôm lấy cô ấy, cảnh tượng này khiến tôi và Xuân Vũ đều không thể ngờ tới. Lâm U lập tức giãy giụa kịch liệt, nhưng “Tô Thiên Bình” vẫn đè lên người cô ấy, đề cô ấy ra sàn nhà. Dưới hình ảnh giám sát mờ ảo, chỉ nhìn thấy cô gái dưới đất đang ra sức phản kháng, một sinh vật quái thai dị dạng đang đè lên người cô ấy, trong miệng còn chảy ra rất nhiều dãi rớt bẩn thỉu.
Camera không thể ghi lại âm thanh, bởi vậy những cảnh này đều là hình ảnh câm, cộng thêm hình ảnh mờ ảo gần như đen trắng, cảm giác giống như đang xem một bộ phim câm của thập niên 20, đến cả phụ đề cũng không thấy. Nhưng tai tôi dường như có thể nghe thấy rõ tiếng kêu xé gan xé ruột phát ra từ miệng Lâm U. Hình ảnh cô ấy trong giây phút hoảng sợ và đau khổ này đã xuyên thấu thời gian và màn hình máy tính, in đậm trong trí óc tôi.
Đúng vậy, tôi và Xuân Vũ đều đã kinh ngạc tới độ ngây người ra, Xuân Vũ còn vô thức lùi lại phía sau một bước, lấy tay ôm lấy bờ vai, giống như cô gái trên sàn nhà chính là cô ấy vậy. Cô ấy còn lấy tay bịt tai lại, lẽ nào cô ấy cũng nghe thấy tiếng thét thất thanh từ bảy hôm trước?
Hình ảnh đáng sợ đó vẫn đang tiếp diễn trên màn hình máy tính, mọi thứ trong đầu dò đều biến dạng: “Tô Thiên Bình” đang đè lên người Lâm U, đôi mắt trợn to của Lâm U, và cả phòng ngủ gộp với thế giới nảy hình như đều đang bị đè bẹp.
Cuối cùng, một vật gì đó rơi ra từ trong cổ áo của Lâm U, “Tô Thiên Bình” nhìn thấy vật đó liền lập tức sợ hãi “nảy” người ra và dần dần hồi phục lại hình dạng con người.
Lâm U từ sàn nhà đứng dậy, tay cô ấy cằm một vật gì đó giống như sợi dây leo, tỏa ra ánh sáng mờ ảo dưới ánh đèn trăng.
“Chiếc nhẫn ngọc!”
Xuân Vũ kêu lên trước tiên. Tôi cúi đầu nhìn lên tay trái mình, đúng vậy, chiếc nhẫn bé nhỏ đó giờ đây đang đeo trên ngón trỏ tay trái tôi.
Vào cái đêm của bảy hôm trước, Lâm U đã đung đưa chiếc nhẫn ngọc trong tay, giống như quả lắc đồng hồ trong tay nhà thôi miên, còn “Tô Thiên Bình” phục hồi lại “hình người” đã sợ hãi tới nỗi hồn xiêu phách lạc.
“Không, cô ta là A Hoàn!”
Tôi nhận ra trong hình ảnh camera, đó chính là ánh mắt của “Hoàn” – nữ vương phục sinh, lạnh lẽo tàn khốc, thấy rõ mọi thứ, khiến người ta run rẩy.
Linh hồn của A Hoàn đã trở lại rồi, tay cô ta đung đưa chiếc nhẫn ngọc, từ từ sát lại gần Tô Thiên Bình.
Giờ thì tới lượt dã thú bẩn thỉu thét lên thất thanh.
Khi Tô Thiên Bình ngoác miệng dưới đầu dò, lộ ra răng nanh trắng nhởn hung ác hơn cả tôi, hình ảnh camera đột nhiên biến thành màu đen sì.
Giống như phim kinh dị đang chiếu tới thời khắc quan trọng nhất thì đột nhiên mất điện, lòng dạ tôi như lửa đốt kiểm tra lại hệ thống giám sát thì thấy phía sau quả thực hết rồi. Có khả năng lúc đó vốn dị không ghi hình lại, cũng có thể sau đó bị người ta cắt đi mất.
Tôi thoát khỏi cửa sổ giám sát này, rồi nhìn lại các thư mục giám sát khác, nhưng đều đã không còn gì cả, chỉ còn lại đoạn hình ảnh này.
Tới giờ tôi mới phát hiện ra vẫn còn một phần mềm bật tự động, có thể hẹn giờ để bật một đoạn hình ảnh giám sát. Lẽ nào là A Hoàn đã hẹn giờ trước khi rời khỏi đây, để nó nhảy ra đúng thời điểm đó rồi bật cho tôi xem một lượt?
Kể cả ai hẹn giờ đi chăng nữa, nhưng tôi ít nhất cũng đã biết được sự việc phát sinh trong căn phòng này của Tô Thiên Bình bảy hôm trước – Cậu ta đã đưa A Hoàn (Lâm U) về đây, khi cậu ta nhìn thấy cô gái xinh đẹp đáng thương này, bèn nhân cơ hội cô ấy đang khóc thút thít để mưu đồ vượt rào, đè Lâm U ra sàn nhà để ức hiếp cô ấy. Kết quả là Lâm U đã biến thành A Hoàn, cô ta lấy chiếc nhẫn ngọc của Hoang thôn từ trong người ra, khiến Tô Thiên Bình sợ chết khiếp.
Nhưng tại sao Tô Thiên Bình trong hình ảnh camera lại biến thành một con dã thú? Xuân Vũ nói như đinh đóng cột với tôi, cô ấy nhìn thấy một con sói đực hung ác, có chiếc đuôi dài, mắt lóe xanh, còn có cả răng nanh sắc nhọn khiến người ta khiếp sợ.
Tôi chỉ biết lắc đầu nói: “Có lẽ Tô Thiên Bình là một con sói ẩn giấu rất sau – ý tôi nói là linh hồn cậu ta. Trước đây chúng ta đều không phát hiện ra linh hồn của cậu ấy, cho rằng cậu ta chỉ là một sinh viên bình thường, nhưng trong hình ảnh ban nãy, tôi lại nhìn thấy một con dã thú háo sắc”.
“Đây chính là linh hồn cậu ấy, một linh hồn háo sắc”.
“Đúng. Và chiếc đầu dò này có lẽ có một sức mạnh đặc biệt nào đó có thể soi ra linh hồn con người trong ống kính biến dạng, và từ đó bại lộ nguyên hình của Tô Thiên Bình khi bắt nạt phụ nữ, phoi bày ra linh hồn dã thú của cậu ta”.
Xuân Vũ run lẩy bẩy hồi lâu, hình như đột nhiên nhớ ra điều gì đó: “Đúng rồi, nghe nói là hơn một năm trước, khoa của Tô Thiên Bình có một cô gái uống thuốc ngủ tự tử, lúc đó nghe đồn là Tô Thiên Bình đã xâm hại cô ấy, nhưng không ai có chứng cứ gì cả, sự việc đó chẳng mấy chốc đã bị quên lãng. Năm ngoái, khi cả hội chúng tôi tới Hoang thôn, tôi vẫn không biết chuyện đó, vào tháng 3 tôi mới biết chuyện, nếu như hồi đó mà biết, chắc chắn tôi sẽ không tới Hoang thôn cùng cậu ấy đâu!”.
“Ồ, hóa ra cậu chàng này đầy rẫy những tì vết, thật là nhìn không ra cậu ta lại là loại người đấy, vậy mà tôi vẫn phải đi tìm chân tướng nguyên nhân cậu ấy xảy ra chuyện, khiến bản thân mình cũng chìm sâu trong đó. Vì loại dã thú này quả thật không đáng, biết trước như vậy thì thà để linh hồn cậu ta sớm về trời còn hơn”.
Có lẽ trên thế giới này vẫn còn rất nhiều người giống cậu ta, thảo nào linh hồn họ đều đã bị A Hoàn đem đi. Tôi quay đầu lại nhìn phòng ngủ của Tô Thiên Bình, sự ác cảm chán ghét tự đáy lòng bỗng trào dâng.
Nhưng rút cuộc sao Tô Thiên Bình lại xảy ra chuyện? Trong camera không hề quay lại, chỉ thấy A Hoàn lấy ra chiếc nhẫn ngọc, có trời mới biết được sau đó là chuyện gì.
Đầu óc tôi vẫn mông lung mịt mùng, và thời gian còn lại chỉ còn mười mấy tiếng đồng hồ nữa thôi – đúng 12 giờ đêm hôm nay, sự phục sinh của A Hoàn sẽ kết thúc, cô ấy nhất định phải cướp thêm một linh hồn của ai đó, người đó sẽ là ai? Nhưng bất luận anh ta có tội hay không có tội, tôi đều bắt buộc phải ngăn chặn sự việc này phát sinh.
Vậy là tôi vô thức nhìn đồng hồ, hiện giờ là 8 giờ 30 phút sáng. Tôi đang chạy đua với thời gian mất đi linh hồn, nhưng chết tiệt ở chỗ, tôi thực sự không biết mình nên chạy theo hướng nào.
Ngẩng đầu lên một cái là nhìn thấy màu đỏ trên cửa sổ, tôi lẩm bẩm: “Ngày thứ bảy, cô đã sống tới ngày thứ bảy rồi”.
Khi tôi đang như một con ruồi mất đầu điên cuồng bay lượn vòng tròn thì nghe thấy giọng điệu bình tĩnh của Xuân Vũ: “Đến Hoang thôn đi”.
Đến Hoang thôn?
Mọi thứ bắt đầu từ đó, mọi thứ cũng phải kết thúc từ đó.
Tôi cúi đầu nhìn chiếc nhẫn ngọc trên tay mình nói: “Giống như tôi nửa năm trước? Tuy nói là người nào gây ra rắc rối người đấy phải tự đi giải quyết, nhưng tôi đã từng nói tôi sẽ không bao giờ tới nơi đó nữa, cũng không muốn để bất cứ ai đến đó”.
“Nhưng tình hình bây giờ không như vậy nữa, chiếc nhẫn ngọc đã trở về trên ngón tay anh, ác mộng của Hoang thôn lại giáng xuống đầu, anh chỉ có cách quay trở lại tìm hiểu một lần nữa, có lẽ còn có thể phát hiện ra bí mật cùa A Hoàn đấy”.
“Bí mật của A Hoàn?” Cảm xúc của tôi lại được khơi dậy, nhưng tôi chỉ lắc đầu nói, “Bây giờ chỉ còn lại mười mấy tiếng đồng hồ, mọi thứ đều đã quá muộn rồi”.
“Vẫn chưa muộn, chỉ cần chúng ta xuất phát bây giờ, trước khi hoàng hôn sẽ tới được Hoang thôn. Cứ cho là ở đó có nguy hiểm tiềm ẩn đi chăng nữa, thì cũng còn hơn ở đây trợn mắt lên nhìn vô ích”.
Những lời này của cô ấy khiến tôi phát ngượng, tôi thẫn thờ hỏi: “Sao cô lại trở nên dũng cảm như thế?”
Xuân Vũ nhẹ nhàng đáp: “Bởi vì tôi đã từng trải qua sự sợ hãi thấu tận xương tủy”.
Tôi im lặng nhìn vào mắt cô ấy, sau đó quay đầu nhìn ra màn mưa phùn lất phát ngoài cửa sổ, nói như định đóng cột: “Đến Hoang thôn, xuất phát ngay thôi!”
Hai tiếng sau.
Mưa tạnh rồi.
Bầu trời ngoài cửa kính xe vẫn âm u, nhưng cảnh sắc sau mưa hiện lên ủy mị hơn nhiều. Xe khách đường dài đã rời khỏi nội thành, những thửa ruộng vùng ngoại ô mùa đông bao trùm trong hơi nước như một bức tranh thủy mặc.
Chiếc xe khách từ Thượng Hải hướng đến thị trấn Tây Lãnh thành phố K tỉnh Chiết Giang, khoảng hơn 3 giờ chiều thì sẽ tới nơi. Tôi ngồi ở hàng ghế cuối xe, còn Xuân Vũ ngồi ghế sát cửa sổ cạnh tôi.
Ánh mắt tôi nhìn chăm chăm ra phía cửa sổ, lan can cạnh đường cao ốc lao như bay lùi lại phía sau, nhưng tất cả những thứ này đều nhanh chóng mờ ảo, chỉ còn lại khuôn mặt Xuân Vũ bên cạnh cửa sổ. Cô ấy bất giác quay lại nhìn tôi, rồi lại quay mặt ra phía cửa sổ.
“Cô đang nghĩ gì vậy?”
Tôi hỏi cô ấy. Trên ngón trỏ tay trái tôi, chiếc nhẫn ngọc đang dần trở nên lạnh lẽo, có lẽ khoảng cách đang gần lại với cố hương của nó.
Xuân Vũ nghiêng đầu nói: “Đang nhớ lại cảnh tượng mà hơn nửa năm trước, tôi, Hoắc Cường, Hàn Tiểu Phong và Tô Thiên Bình, cũng nhau tới Hoang thôn”.
“Cảnh tượng vẫn vậy mà con người đã đổi thay rồi. Hai bên đường vẫn là ruộng vườn này, còn ba người kia nếu không chết thì cũng đã mất đi linh hồn, hiện giờ cô mới thực sự là người may mắn duy nhất còn sống sót”.
Cô ấy vẫn nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ, giọng chán nản nói: “Mọi thứ đều giống như hôm qua, thời gian trôi qua thật nhanh. Trong thời gian đó tôi đã trải qua ‘Địa ngục tầng thứ 19’ rồi, tại sao dưới ngòi bút của những nhà viết tiểu thuyết tôi lại luôn bi thảm đến vậy?”
“Bởi vì cô là vật khác thường mà thần thánh sáng tạo ra – bất cứ tiểu thuyết nào cũng cần phải có một đối tượng để cho độc giả đồng cảm và thương xót, và cô – Xuân Vũ chính là nhận vật đấy”.
“Vậy là trong ‘Trở lại Hoang thôn’ anh đã để tôi theo anh tới Hoang thôn sao?”
Lúc này đây tôi không biết mình đang nói chuyện với danh phận của tiểu thuyết gia, hay là danh phận của nhân vật trong sách: “Ơ, không phải cô kiên quyết muốn tới Hoang thôn sao? Khi chúng ta rời khỏi căn phòng của Tô Thiên Bình, tôi đã muốn cô mau mau quay lại trường học, để mình tôi tới Hoang thôn là được rồi”.
“Không được! Tôi nhất định phải cùng anh, không chỉ vì anh”.
“Bởi vì cô còn muốn nhìn thấy Hoang thôn lần nữa?”
Xuân Vũ bối rối gật đầu: “Đúng. Tuy nơi đó đối với tôi đầy rẫy những khủng hoảng, nhưng đó là nơi đầu tiên đã cho tôi dũng khí, giúp tôi trải qua những đau khổ khốn cùng trong 19 ngày đêm, tôi nghĩ mình cần phải tới đó xem sao”.
Mắt cô ấy cứ hướng mãi về phía cửa sổ, tôi cũng ngại không nói chuyện nữa, nên đành lấy cuốn "Hủy diệt mộng cảnh" ra, lật tới chương 6 trong sách, tên của chương sách này còn đáng sợ hơn, gọi là “Phân tích tinh thần của ác mộng”.
Hứa Tử Tâm tại sao lại thảo luận đi thảo luận lại những vấn đề này trong sách? Lẽ nào bản thân ông ấy cũng là nạn nhân của ác mộng? Có lẽ ông đang âm thầm quan sát tôi từ một chỗ tối nào đó, tôi vô thức nhìn ra ngoài cửa sổ, trên cửa kính thấp thoáng một khuôn mặt xa lạ.
Tôi vội vàng cúi đầu đuổi những suy tưởng đi, trong chương 6 của "Hủy diệt mộng cảnh" Hứa Tử Tâm không tường thuật lại văn minh cổ đại giống phần trước, mà trực tiếp trình bày chi tiết sự lý giải của ông về mộng cảnh:
Mộng là sự giãy giụa vô thức.
Hứa Tử Tâm lại lần nữa nhắc đến kiến giải của ông, nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại sự vô thức – dục vọng mãnh liệt và sự bốc đồng, nếu như chúng muốn đạt tới giai đoạn ý thức, thì bắt buộc phải trải qua hai lần thẩm tra giữa vô thức và tiềm thức, giữa tiềm thức và ý thức. Sự thẩm tra này do tự thân và siêu thân hoàn thành.
Dục vọng và sự bốc đồng trong vô thức tượng trưng cho sức mạnh của bản năng, bởi vậy nó chứa đựng năng lượng to lớn, tuy liên tiếp gặp phải những áp lực từ chúng ta, nhưng luôn rục rịch, ẩn giấu trong bóng tối. Trong lúc ngủ, công năng của siêu thân sẽ giảm đi rất nhiều, dục vọng của vô thức sẽ thông qua việc nằm mơ để giải phóng ra ngoài, bởi vậy trong mộng cảnh của chúng ta thường có rất nhiều bóng tối và những điều đáng sợ.
“Mộng là sự đạt được của nguyện vọng” – đây chính là khái quát kinh điển của Signmund Freud đối với bản chất của mộng trong “Phân tích giấc mơ”, và “Mộng là sự giãy giụa vô thức” lại là quy nạp kinh điển của Hứa Tử Tâm về đặc tính của mộng trong "Hủy diệt mộng cảnh".
Tiếp theo đó, Hứa Tử Tâm trình bày chi tiết về mộng càng khiến tôi thêm hồn xiêu phách lạc, chiếc nhẫn ngọc trên ngón trỏ tay trái hình như cũng đang thắt lại…
Mộng có thể được khống chế không?
Sức mạnh bên ngoài có thể khống chế mộng không? Tôi cho rằng có thể được. Sức mạnh này dưới một số điều kiện nào đó sẽ trở nên vô cùng lớn mạnh, thậm chí có thể tạo ra ác mộng hủy diệt mạng sống của con người – đây chính là “sự kiện ác mộng giết người” trong truyền thuyết!
Trên thực tế, trong văn hiến cổ đại, thực sự có ghi chép về ác mộng giết người, chỉ là những ghi chép này thường bị người ta coi là truyền thuyết hoặc là vu thuật. Nhưng nghiên cứu “tâm lý học thần bí” đương đại đã chứng minh: thông qua loại phương thức trung gian đặc biệt nào đó, ví dụ như ngôn ngữ, văn tự, âm nhạc, hình ảnh… phàm là tất cả những việc hoặc vật có tác dụng ám thị tâm lý, đều có thể có tác dụng khống chế cá thể mộng cảnh.
Khi loại mộng cảnh bị khống chế này xuất hiện, thì sẽ sản sinh ra hiệu quả của tính hủy diệt, bởi vì – hủy diệt mộng cảnh, chính là hủy diệt nhân loại.
"Hủy diệt mộng cảnh, chính là hủy diệt nhân loại?”
Tôi không kìm chế được nên đã đọc thành tiến câu này khiến Xuân Vũ lo lắng quay đầu lại: “Anh đang nói gì thế?”
Xe khách đường dài tiến vào địa phận Chiết Giang, cảnh sắc ngoài cửa sổ cũng có chút biến đổi, chỉ có bầu trời vẫn âm u dị thường, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ nói: “Cô báo ác mộng có thể giết người không?”
Câu nói này rõ ràng cũng đã chạm tới ác mộng của Xuân Vũ, cô ấy cúi đầu ngẫm nghĩ hồi lâu, đáp: “Đúng vậy, Hoắc Cường và Hàn Tiểu Phong là một ví dụ”.
“Cô có còn nhớ cơn ác mộng mơ thấy sau khi trở lại Thượng Hải không?”
“Không, tôi không nhớ gì cả”.
Nhưng tôi lắc đầu, lạnh lùng nói: “Cô đã ép mình phải quên đi giấc mơ đó, thực ra giấc mơ đó luôn ở trong lòng cô, chỉ là bị cô cất trong một chiếc tủ nhỏ nào đó, và cô thì quên mất chiếc tủ đó ở góc nào trong phòng. Nhưng nhất định có một ngày cô sẽ tìm ra chiếc tủ đó, trong giây phút cô mở cánh tủ ra, thì chính là thời khắc ác mộng trở lại”.
Sắc mặt Xuân Vũ trở nên trắng bệch, cô ấy quay đầu đi: “Đừng có ép tôi nữa, tôi thừa nhận tôi là người thiếu cảm giác an toàn”.
Sao tôi hà tất phải ép cô ấy nhỉ? Trên thế giới này còn có rất nhiều người thiếu cảm giác an toàn, họ cả đời đều không nhớ nổi ác mộng mà mình đã từng mơ thấy, nhưng ác mộng đó thực sự đã từng tồn tại.
Xe tiếp tục lao đi như bay trên đường cao tốc Thượng Hải – Hàng Châu, khuôn mặt trên kính cửa sổ đó hình như càng lúc càng xa lạ.
Tôi cúi đầu nhìn đồng hồ, bây giờ là 12 giờ trưa, cách thời khắc cuối cùng vẫn còn 12 tiếng đồng hồ…
4 giờ chiều, bên ngoài cửa sổ hiện lên những dãy núi âm u trùng điệp, dưới chân núi lác đác những thửa ruộng lúa nước và mái nhà nông thôn, một thị trấn nhỏ sầm uất đang cận kề trước mắt. Xuân Vũ mím mím môi nói: “Chúng ta đến rồi!”
Đây chính la bến cuối cùng của tuyến xe khách này – thị trấn Tây Lạnh thành phố K.
Lúc này, hai chân tôi tê cứng, cảm giác như nửa thân dưới đã không còn thuộc về tôi nữa, chỉ biết khó nhọc đứng lên. Không khí vùng núi sau con mưa thuần khiết lạ thường, sống cả đời ở cái chốn Thượng Hải âm u bức bí, rất hiếm khi được hít thở không khí như thế này, tôi vừa xuống xe cái là hít lấy hít để từng luồng không khí ở đây.
Mọi thứ trước mắt đều vẫn như cũ. Đây là lần thứ ba tôi tới thị trấn Tây Lạnh, mỗi lần tới, tôi đều nhìn thấy những cảnh tượng khác nhau, và tâm trạng mỗi lần cũng không giống nhau. Lần đầu tiên đến với Hoang thôn thần bí trong truyền thuyết là mang theo sự hiếu kỳ và hưng phấn, giống như đi thám hiểu vậy; lần thứ hai lại đem theo sự buồn bã nặng nề, hy vọng là sẽ gặp lại Tiểu Chi; còn tâm trạng lần này thì ngũ vị thập cẩm, khủng hoảng, thấp thỏm, buồn bã, hoài niệm, phẫn nộ đều trộn lẫn vào nhau, không biết rằng có xảy ra phản ứng hóa học ký hiệu nào không.
Tôi giơ tay trái của mình lên, chiếc nhẫn ngọc màu xanh non tỏa ra ánh sáng mờ ảo, hiện lên rực rỡ đi, thường dưới bầu trời thị trấn Tây Lạnh. Tôi giúp Xuân Vũ xách túi đi trước. Duyên hải Chiết Giang là vùng nông thôn giàu có nhất Trung Quốc, ở đây dĩ nhiên cũng không ngoại lệ, khắp nơi đều thấy những công xưởng nhỏ và nhà cao tầng, gần như không mang bóng dáng của Hoang thôn.
May mà tôi đã không viết ra trong sách thành phố K rút cuộc nằm ở đâu, nếu không thì những người sau khi đọc “Quán trọ Hoang thôn” đi tìm kiếm Hoang thôn khắp nơi, nhất định sẽ bất chấp tất cả ào ào đổ tới đây, không biết chừng còn đem lại những cơ hội kinh doanh bất ngờ cho thị trấn Tây Lạnh cũng nên, đến lúc đó họ sẽ hận hay là cảm ơn tôi nhỉ?
Xuân Vũ giục tôi đi nhanh hơn, bởi thời gian A Hoàn để lại cho tôi chỉ còn lại không tới 8 tiếng đồng hồ nữa, đây là thời gian biểu có thể dùng đầu ngón tay đếm được.
Chúng tôi ăn tạm đồ ăn vặt bên đường coi như bữa tối, tiếp đó đi ngang qua mấy thôn xóm, khó khăn lắm mới tìm thấy một chiếc xe tới Hoang thôn. Đây là một chiếc công nông tàn tạ thê thảm, sắp tới Hoang thôn để chở một chuyến giấy vàng mã, tuy mọi người đều rất kiêng kị thứ này nhưng tôi và Xuân Vũ vẫn phải bất chấp để lên xe.
Xe rời khỏi thị trấn Tây Lạnh, lắc lư trên con đường nhỏ giữa thôn xóm, Xuân Vũ chau mày giống như bị say xe. Nửa tiếng đồng hồ sau, xe tiến đến một đoạn đường núi hoang vu, cảnh vật xung quanh hoàn toàn khác với ban nãy, không còn nhìn thấy núi xanh và ruộng vườn nữa, chỉ còn lại vài bụi cây thấp lè tè.
Bác tài nói ở đây chính là nơi đầu gió, gió biển thổi lên đem theo thành phần muối nên đã biến nơi đây thành vùng đất phèn hoang vu.
Khi leo lên một dốc cao, biến đổi đột nhiên đập vào tầm mắt chúng tôi – biển màu đen.
Đúng vậy, biển đang ở dưới dốc núi cách đây vài cây số, mây đen lúc hoàng hôn tôn lên đường bờ biển giống như một bức tranh sơn dầu mờ ảo mà trịu nặng.
Hoang thôn tọa lạc giữa biển và nghĩa trang.
Chiếc nhẫn ngọc trên ngón trỏ tay trái lại thít chặt thêm một vòng, sự đau đớn trên ngón tay khiến tôi không dám nhìn cảnh tượng bên ngoài cửa sổ xe nữa.
Mười mấy phút sau, khi Xuân Vũ không ngừng khẽ cằn nhằn, chiếc xe cà tàng đã chạy xuống con đường dốc một cách mạo hiểm dị thường, rút cuộc đã dừng lại trước cổng Hoang thôn trước khi trời tối.
Khởi nguồn của mọi đau buồn và khủng hoảng Hoang thôn.
Tôi và Xuân Vũ vội vàng nhảy xuống xe, ánh mắt đầu tiên nhìn thấy là tấm bia đá to lơ lững trên cao, bốn chữ to kiểu chữ khải vẫn bắt mắt như thuở nào, tôi khẽ đọc bốn chữ này lên: “Trinh Liệt Âm Dương”.
Dưới ánh mặt trời còn sót lại trước khi màn đêm buông xuống, tấm bia đá đổ bóng lên người chúng tôi, giống như điềm báo những số phận nào đó không thể chạy thoát. Đây là tấm bia đá tiết hạnh được hoàng đế Gia Tĩnh triều Minh ngự giá ban tặng lúc đó Hoang thôn có một vị đỗ tiến sỹ, làm quan lớn trong triều đình, để biểu dương tiết hạnh của mẹ ông, đích thân hoàng đế đã tự ay viết bốn chữ to: “Trinh Liệt Âm Dương” rồi ngự giá ban tặng tấm bia này. Vị tiến sỹ năm đó chính là tổ tiên của Âu Dương Tiểu Chi.
Khi tôi đi đến đứng dưới tấm bia đá này, Xuân Vũ thẫn thờ dừng lại bất động, cô ấy quay đầu nhìn biển phía đông. Ngoài bãi đá và vách núi cheo leo, những con sóng lớn đen sì đang không ngừng xô bờ, phát ra tiếng kêu khiến người ta run sợ.
“Đi thôi”.
Xuân Vũ run rẩy gật đầu, theo tôi tiến vào ngôi làng tên gọi là Hoang thôn.
Đây là một con đường mãi mãi không bao giờ bị lãng quên. Trong thôn là rất nhiều những ngôi nhà cổ, ở giữa là những con ngõ nhỏ ngoằn ngoèo, nhà cửa hai bên đường đều đóng cửa kín mít, gần như không thấy một bóng người, giống như vừa mới xảy ra một việc đặc biệt gì vậy.
Xuân Vũ bỗng dưng khẽ nói: “Anh biết không? Tôi hiện giờ đang nhớ tới bộ phim ‘Cuộc phiêu lưu của Chihiro’ vào thế giới linh hồn”(1) của Hayao Miyazaki”.
Thực ra tôi cũng nghĩ tới “Cuộc phiêu lưu của Chihiro vào thế giới linh hồn”. Chihiro theo cha đi qua một đường hầm tối đen như mực, phát hiện ra một công viên giải trí khổng lồ, bên trong mọi thứ đều toàn vẹn nhưng lại không một bóng người, tới khi trời tối thì xảy ra một loạt chuyện bất thường…
Chúng tôi đi dọc mang theo những suy tưởng, rồi rẽ vào ngã rẽ cuối cùng trong con hẻn, trước mặt chính là ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ, nơi ở của dòng họ Âu Dương ở Hoang thôn, cũng chính là nơi Tiểu Chi đã sinh ra và lớn lên.
Kể từ sau khi Tiểu Chi và cha mẹ của cô ấy rời khỏi thế giới này, ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ đã đóng cửa, không biết giờ đây thế nào rồi.
Trước khi trở lại chốn xưa, lòng tôi thấp thỏm không yên, luôn cảm giác sẽ có việc gì đó ngoài ý muốn xảy ra. Tôi quay đầu lại nhìn Xuân Vũ thì chỉ nhìn thấy đôi mắt long lanh u buồn của cô ấy, đôi mắt đó hiện lên đầy vẻ kỳ dị trong màn đêm đang từ từ buông xuống.
Cuối cùng chúng tôi rẽ vào ngã rẽ đó, nhìn thấy Tiến Sỹ Đệ phía cuối ngõ.
Màn đêm Hoang thôn buông xuống rồi…
1.”Cuộc phiêu lưu của Chihiro vào thế giới linh hồn”: tên tiếng anh là Sprites Away, phim hoạt hình Nhật Bản đoạt giải Oscar năm 2002 – ND.
Đêm
Tiến Sỹ Đệ chết rồi.
Cảnh tượng trong cơn ác mộng thực sự xảy ra, giây phút đó cơ thể tôi giống như bị một luồng điện chạy qua, tôi lùi lại nửa bước, khụy ngã bên cạnh bức tường.
Xuân Vũ cũng khẽ thốt lên một tiếng: “Trời ơi!”
Nói chính xác hơn, tôi nhìn thấy “thi thể” của Tiến Sỹ Đệ, một “thi thể” bị đốt cháy.
Đống đổ nát – trước mắt là một dống đổ nát, giống như vừa bị ném bom rải thảm vậy, ngôi nhà cổ “đỉnh viện thâm thâm thâm kí hứa”(1) trước đây đã không thấy nữa rồi, chỉ còn lại từng đống tường đổ nát.
Cổng tòa nhà cao cao giờ chỉ còn sót lại hai chiếc cột trống trơn, trên đỉnh cột vẫn còn lại vết tích bị lửa thiêu.
Tôi và Xuân Vũ bước qua thềm cửa còn sót lại của Tiến Sỹ Đệ, vẫn còn có thể loáng thoáng nhận ra khu nhà thứ nhất, “Nhân Ái Đường” cổ kính, chỉ còn lại ba vách tường cô độc, bức chân dung và tấm biển của tổ tiên gia tộc Âu Dương đều đã hóa thành tro bụi, trên mặt đất la liệt gạch ngói và những cột gỗ bị thiêu cháy.
Càng đi vào trong, cảnh tượng càng thê lương, tôi đã từng ở trên căn gác gỗ trong căn gác thứ hai sau nhà, giờ thì nó đã biến thành một đống tro vụn rồi. Tôi chỉ biết ngước lên căn gác hư vô trong không trung, tưởng tượng ra mấy đêm khắc cốt ghi tâm đó. Dù vậy, tôi vẫn cố chấp chạy tới bãi đỗ nát, hy vọng có thể phát hiên ra thứ gì đó bên trong, nhưng ngoài gạch ngói tan nát ra chẳng còn lại thứ gì cả, còn tấm bình phong bốn cảnh sơn mài đời Thanh, ngẫm tới thì chắc cả Yên Chi trong đó cũng chìm trong lửa rồi cũng nên.
Cẩn thận bước qua đống đổ nát của căn gác gỗ, chúng tôi tới sân sau Tiến Sỹ Đệ. Ở đây cũng thảm hại như vậy, đỉnh viện cổ xưa đã không còn tồn tại nữa, cây hoa mai rực rỡ cũng biến thành u hồn, chỉ còn lại miệng giếng cổ vẫn quật cường sống sót.
Tôi lập tức lao tới bên miệng giếng thì ngửi thấy mùi hôi thối giống như mùi của xác chết phân hủy từ đáy giếng xộc lên, không biết là súc vật nào chết cháy rồi bị quẳng xuống giếng. Nhìn không thấy đáy giếng sâu, miệng giếng nước chết đó phải chăng còn như một con mắt đang chằm chằm nhìn, xoáy vào tôi?
Đột nhiên, một bàn tay đặt lên vai, tôi bỗng hồn xiêu phách lạc, quay đầu lại thì chỉ nhìn thấy một đôi mắt buồn trong đêm tối.
“Tiểu Chi?”
Tôi bất giác thốt ra cái tên này.
Hồn ma trở về?
Nhưng tôi lại nghe thấy giọng của Xuân Vũ: “Là tôi mà, anh sao thế?”
Âm thầm cười đau khổ, tôi bối rối đứng thẳng người dậy bên miệng giếng: “Không có gì”.
Ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, trong sắc đêm không nhìn thấy mặt trăng nhưng bầu trời lại ngập tràn ánh sao, bầu trời toàn sao băng thần bí này dường như cũng đang thổ lộ điều gì đó.
Rời khỏi sân sau Tiến Sỹ Đệ, quay trở lại sân thứ hai, dãy nhà hai bên đều đã hóa thành tro bụi. Tôi rút đèn pin ra, lao lên một đống đổ nát, ra sức đào bới đống gạch ngói giống như tìm báu vật vậy.
“Anh đang làm gì thế?”
“Địa cung!” khuôn mặt tôi trong màn đêm chắc là cũng có chút đáng sợ. “Cô quên rồi sao, cửa vào địa cung chính là ở dưới căn phòng này”.
“Đúng, tôi nhớ lúc đó chính là ở vị trí này, trong tường chắc là có giấu gian mật thất, tôi chạy vào đó vì không cẩn thận còn ngã nhào xuống dưới”.
Nói xong cô ấy xoa xoa ngực, giống như bị rơi xuống địa cung thật vậy. Đúng, địa cung của hàng ngàn năm trước đang ở dưới chân chúng tôi, nhưng bên trên lại phủ một tầng gạch ngói, hơn nữa toàn bộ đều đã bị thiêu cháy hoàn toàn không có cách nào tìm thấy cửa vào địa cung.
Xem ra dùng sức người không thể đào lên được, trừ khi dùng tới máy ủi của công trường xây dựng. Cứ coi như bây giờ bắt đầu ra sức đào bới, không màng tới việc khác đi chăng nữa thì cũng không kịp. Kim giờ trên dồng hồ đã chỉ tới 8 giờ đúng, tôi chỉ còn lại 4 tiếng đồng hồ, xem ra thời khắc cuối cùng cũng sắp tới rồi.
Lẽ nào cửa địa cung cũng đã bị lửa thiêu rụi? Gạch ngói và đất cát từ trong phòng rơi xuống đã bịt kín mất cửa vào, có lẽ mọi người sẽ không tìm được đường thông xuống địa cung được nữa?
Tôi hoang mang đứng trên địa cung mà không biết vào bằng cửa nào, giống như người đánh cá năm nào xâm nhập vào rừng hoa đào dưới ngòi bút của Đào Uyên Minh, khi anh đi ra khỏi vùng đất thần kỳ này, thì đã không có cách nào tìm thấy đường quay trở về nữa.
Hoang thôn trong bóng đêm giống như loài dã thú đang ngủ say, tôi quay đầu lại nhìn những đoạn tường hoang phế, giống như đang ở trong một di tích cổ đại nào đó.
“Tiến Sỹ Đệ rút cuộc đã gặp phải sự trừng phạt gì mà lại xảy ra biến cố này?”
“Thật là không thể tưởng tượng nổi – khởi điểm của ác mộng đã bị ngọn lửa hủy diệt”. Xuân Vũ dùng đèn pin soi lên đống gạch ngói trên mặt đất nói: “Chắc là bị đốt cháy chưa được bao lâu đâu?”
Tôi chỉ biết thở dài: “Không biết là do người phóng hỏa đốt hay là tự nhiên cháy nữa”.
Đột nhiên, có tiếng gọi vang lên sau lưng: “Là người hay là ma?”
Trong hoàn cảnh này mà nghe thấy âm thanh đó quả là khiến người ta không lạnh cũng phải run lập cập, tôi sợ hãi quay đầu lại thì mắt liền bị chiếc đèn pin đối diện làm lóa lên một cái. Xuân Vũ vội vàng nép sau lưng tôi, dùng tay chặn luồng sáng lại, lớn tiếng hỏi: “Ai?”
Một giọng nói vang vọng cất lên sau ánh đèn chói mắt: “Là người à?”
Tôi hơi hoảng sợ: “Phí lời, không phải người mà lại biết nói à?”
“Ma cũng biết nói đấy!”
Âm thanh đó lạnh lùng nhường vậy, giống như đang thẩm vấn phạm nhân.
Rút cuộc, ánh sáng đó tiến tới trước mặt tôi, lộ ra một khuôn mặt đàn ông ngoài 50 tuổi, người này có một đôi mắt cảnh giác như chim ưng trên núi, bí hiểm hệt như Hoang thôn thần bí này. Ông ấy cẩn thận quan sát tôi và Xuân Vũ, sau đó lại gần bên cạnh tôi ngửi ngửi: “Ô, là mùi người!”.
Nghe thấy câu này sao mà khó chịu, tôi cau có nói: “Không phải mùi người, lẽ nào mùi mà?”
Người đàn ông cười lạnh lùng một tiếng: “Ừm, mùi ma - ở Hoang thôn chẳng có gì lạ, tôi thường gặp cô hồn dã quỷ.”
“Ông nói ông từng nhìn thấy ma?”
“Ở Hoang thôn này, ‘thấy ma’ là chuyện như cơm bữa”.
Lẽ nào người dân Hoang thôn đều có năng lực đặc biệt khác thường, đều có thể nhìn thấy u hồn lượn lờ trong bóng đêm? Bây giờ tôi mới chú ý tới giọng nói tiếng phổ thông mang khẩu âm Chiết Giang của ông ấy, chứ không phải là tiếng địa phương vô cùng khó hiểu của dân bản địa, tôi thăm dò: “Xin hỏi, bác cũng tới Hoang thôn thám hiểm sao?”
“Cái gì mà thám với chả hiểm, tôi là chủ nhiệm ủy ban thôn”.
Chủ nhiệm ủy ban thôn? Cũng chính là trưởng thôn mà trước đây người ta thường nói rồi, thảo nào có thể nói tiếng phổ thông, khuôn mặt và đôi mắt uy nghiêm thực sự có thể khiến người ta kính trọng.
“Trưởng thôn, ở đây rút cuộc xảy ra chuyện gì vậy?”
“Anh hỏi về Tiến Sỹ Đệ? Thật là gây tội hơn một tháng trước vào một đêm, ngôi nhà cổ này đột nhiên lửa ngút trời cháy bùng bùng lên, toàn thôn dân đều chạy ra cứu hỏa nhưng cũng không thể giữ lại được ngôi nhà cổ mấy trăm năm này, và nó đã bị thiêu rụi như thế này đây!”
“Đã tìm ra nguyên nhân cháy chưa ạ?”
Trưởng thôn lắc lắc đầu, chỉ xuống đất nói: “Có lẽ chỉ có ma mới biết được”.
Lúc này Xuân Vũ đã từ phía sau lưng tôi bước ra nói chuyện: “Trưởng thôn, bác có biết trước khi Tiến Sỹ Đệ bị cháy, Hoang thôn đã từng xảy ra chuyện gì đặc biệt không?”
“Chuyện đặc biệt thì chưa từng xảy ra, còn người đặc biệt thì có một người tới”.
Tôi lập tức cảm thấy tò mò: “Người đặc biệt, ai vậy?”
“Một cô gái khoản 20 tuổi, cô ấy tới Hoang thôn vào lúc hoàng hôn, đúng lúc đó tôi đang ở cổng thôn nên liền chặn cô ấy lại hỏi vài câu, cô ấy nói chỉ đến Hoang thôn tham quan. Tôi còn khuyên cô ta nhanh chóng rời khỏi đây, nếu không thì sẽ xảy ra chuyện phiền phức như người ta thường đồn đại”.
“Ý bác nói là lời nguyền của Hoang thôn – bất cứ ai xâm nhập vào Hoang thôn vài ngày sau cũng đều sẽ chết?”
“Kiểu như thế, nhưng cô gái đó vẫn không hề động lòng, thanh niên bây giờ thật là không nghe lời người già”.
Tôi nghĩ thầm, ông mới hơn 50 tuổi, sao lại tự nhận mình là người già? Chắc là thôn dân ở đây 50 tuổi đã được coi là gài rồi cũng nên.
“Đến đây nói chuyện đi”. Trưởng thôn đưa chúng tôi tới chân tường, vừa nói chuyện vừa có thể tránh được gió rét mùa đông. Ông tiếp tục kể: “Không thể ngờ chính trong đêm hôm đó Tiến Sỹ Đệ lại xảy ra hỏa hoạn. Sau đó, chẳng ai nhìn thấy cô gái đó nữa, khả năng là cô ta đã bỏ đi trước khi xảy ra chuyện, cũng có khả năng cô ấy bị thiêu cháy thành tro bụi trong đại hỏa rồi cũng nên”.
“Nếu như bị thiêu chết thì chắc chắn sẽ để lại xác”.
“Nếu như bị vùi trong đống gạch ngói, cộng thêm thịt nát xương tan thì cũng khó mà tìm thấy được”.
Lúc này tôi bỗng vô thức nhìn lên đống hoang phế, không biết chừng dưới chân tôi đang chôn vùi hài cốt của ai đấy. Tôi lập tức lắc lắc đầu phủ định giả tưởng đáng sợ này, bởi vì trong lòng tôi lướt qua một cái tên – lẽ nào là cô ta?
Không, mong là không phải người đó. Nhưng tôi vẫn lấy từ trong cặp ra một xấp bưu thiếp, tôi đã lấy chúng từ trong ngăn kéo của Tô Thiên Bình trước khi lên đường, bên trên có in khuôn mặt của u hồn A Hoàn.
Tôi đưa bưu thiếp cho trưởng thôn, ông ấy dùng đen pin cỡ đại soi lên xem tỉ mẩn rồi nói: “Không sai, chính là cô gái này!”
Quả nhiên là A Hoàn (Lâm U), ảnh cô ta để lại trên bưu thiếp đã phát huy tác dụng to lớn. Giờ thì tôi đã có thể xác thực rồi, hơn một tháng trước cô ta đã tới Hoang thôn, và chính trong cái đêm mà cô ta tới Hoang thôn, ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ đã bị hỏa hoạn, thiêu sạch trơn cả mấy căn gác của ngôi nhà cổ này.
Khi tôi đang cúi đầu ngẫm nghĩ thì Xuân Vũ đột nhiên chêm lời: “Lúc đó, cô ấy có nói cô ấy tên là gì không ạ?”
Trưởng thôn gãi gãi đầu: “Không nói, nhưng hình như tôi đã từng gặp cô gái này”.
“Lúc nào?”
“Để tôi nghĩ lại xem nào – chắc là khoảng ba năm trước? Đúng rồi, chính là ba năm trước, tôi nhớ là có hai cha con tới Hoang thôn”.
Tôi bỗng có chút bồn chồn: “Hai cha con?”
“Ừm, người cha tự xưng là giáo sư đại học, đến từ Thượng Hải, nhìn khoảng ngoài 40 tuổi, con gái hình như khoảng 17, 18 tuổi, để tôi nhớ lại đã…”, trưởng thôn lại cúi đầu, hình như đầu óc không còn nhớ nổi nữa rồi, “Đúng, tôi nhớ là giáo sư đó họ Hứa”.
“Hứa Tử Tâm!”
Cái tên này lập tức thốt ra khỏi miệng, tôi suýt chút nữa gọi cả tên trường đại học S, còn cả cuốn "Hủy diệt mộng cảnh" nữa.
Xuân Vũ vội vàng tiếp lời: “Vậy thì con gái của ông ấy có phải là Lâm U không?”
Tôi lại dùng đèn pin soi lên tấm bưu thiếp, tự mình lẩm bẩm nói: “Quả nhiên chính là cô ta – Lâm U”.
Trưởng thôn vồn không biết tên của Lâm U. Sắc mặt ông trong đêm đông càng trở nên đáng sợ, giống như cô hồn dã quỷ trong đống hoang phế của ngôi nhà cổ này, ông tiếp tục hồi tưởng lại: “Lúc đó tôi nhớ rất rõ, bởi vì giáo sư Hứa Tử Tâm trực tiếp tim đến tôi, hỏi thăm tôi về truyền thuyết cổ xưa của quán trọ Hoang thôn, anh ta nói anh ta tới đây để khảo sát vu… cổ đại gì đó”.
Ông ấy không hiểu nghĩa của từ này, thế nên ngừng lại giữa chừng không nói tiếp, tôi vội vàng giúp ông ấy bổ sung: “Văn hóa vu thuật”.
“Đúng. Tôi đã kể lại cho anh ta nghe mấy truyền thuyết về Yên Chi, thậm chí là cả truyện vợ thế trong Tiến Sỹ Đệ, anh ta rất hứng thú với những chuyện này”.
“Thế còn cô gái thì sao? Ý cháu nói là con gái của giáo sư Hứa”.
Ký ức của trưởng thôn cũng đã rõ nét hơn: “Cô ấy có một khuôn mặt nhỏ nhắn xinh xắn, nhưng đôi mắt lại khiến tôi có chút khiếp sợ, hình như đó không phải là mắt người, mà giống mắt động vật hay mắt ma hơn, tôi không thích đôi mắt đó”.
Hình dung mắt con gái như thế này khiến Xuân Vũ cũng có chút mất tự nhiên, giống như trưởng thôn đang nói cô ấy vậy.
Nếu như “Trở lại Hoang thôn” quay thành phim, ngay lúc này đây tôi sẽ có thể quay người lại phía máy quay phim và đọc ra đoạn lời thoại sau:
“Bây giờ, chúng ta có thể biết được rằng, ba năm trước Lâm U và Hứa Tử Tâm – cha cô đã cùng nhau tới Hoang thôn. Các quý vị khán giả thân mến, bạn đã đoán ra được kết quả chưa?”
Trưởng thôn mím mím môi: “Họ không những từng đến Hoang thôn, mà còn sống trong Tiến Sỹ Đệ”.
“Tiến Sỹ Đệ? Ba năm trước Tiểu Chi và cha của cô ấy chắc chắn là vẫn xòn sống chứ nhỉ?”
“Gì, cậu cũng quen Tiểu Chi sao?”
Hỏng rồi, tôi không muốn bị lộ thân phận của mình đâu, nếu không thì những người dân Hoang thôn nhất định sẽ hận tôi tới tận xương tủy. Tôi chỉ biết bối rối cười cười nói: “Hồi Tiểu Chi còn họ ở Thượng Hải, bọn cháu đã từng có duyên gặp nhau vài lần”.
“Ôi, cô gái này chết thật đáng tiếc quá”. Trưởng thôn là một người vô cùng dễ bộc lộ cảm xúc, bất cứ tâm tình gì cũng đều thể hiện trên mặt, nghe giọng ông gần như sắp khóc tới nơi, “Đúng rồi, mùa đông năm đó đúng dịp Tiểu Chi về nhà nghỉ tết, chính cô ấy và cha cô đã ở trong Tiến Sỹ Đệ tiếp đãi cha con Hứa Tử Tâm từ Thượng Hải tới”.
“Tôi hiểu rồi! Thảo nào cô ta nói ba năm trước cô ta đã quen biết Tiểu Chi rồi, Lâm U quen thuộc với Hoang thôn, ngẫm lại chắc chắn còn vượt xa cả tôi mới đúng”.
“Có lẽ trên thế giới này, còn có cả những người khác cũng đã từng tới Hoang thôn cũng nên?”
Trưởng thôn có vẻ hết kiên nhẫn: “Thôi, cô cậu đã xong chưa? Muộn thế này rồi mà không sợ gặp ma à? Nếu như các cô cậu không chê thì tới nhà tôi nghỉ qua đêm nhé”.
Sau đó, ông chỉ về một ngôi nhà hai tầng bên cạnh, cửa sổ trên gác vẫn đang sáng đèn.
Tôi đang định theo trưởng thôn đi về bên đó thì bỗng nhớ ra thứ trí mạng nhất – thời gian. Bây giờ đã là 9 giờ hơn rồi, cách thời khắc cuối cùng chỉ còn lại 3 tiếng đồng hồ.
Không, tôi lập tức lắc lắc đầu nói: “Trưởng thôn, có thể để bọn cháu ở lại đây một mình một lúc được không?”
Trưởng thôn lẩm bẩm một câu “thần kinh”, sau đó vẫy vẫy tay nói: “Được thôi, đến đêm lúc nào cũng có thể tới sân sau nhà tôi, tôi để hé cửa cho cô cậu”.
Sau đó ông xách đèn rời khỏi đây, vừa đi vừa lẩm bẩm, có lẽ ông coi những người thành phố chúng tôi là mấy kẻ dở hơi cũng nên.
Dưới màn đêm mờ ảo của Hoang thôn, chỉ còn lại tôi và Xuân Vũ, cô ấy vô thức sát lại gần tôi. Tôi quay đầu lại nhìn đống hoang phế của Tiến Sỹ Đệ, thấp thỏm bất an nói: “Xuân Vũ, cô không cần phải ở lại với tôi đâu, về nhà cùng với trưởng thôn đi”.
Cô ấy quả quyết đáp lại: “Không, tôi không muốn đi đâu cả. Tôi muốn tận mắt nhìn thấy thời khắc cuối cùng, để xem giây phút đó rút cuộc sẽ xảy ra chuyện gì”.
“Được thôi, nhưng tôi không muốn ở lại trên đống đổ nát Tiến Sỹ Đệ này”.
Vội vàng ra khỏi con ngõ ngoằn ngoèo trong Hoang thôn, ánh đèn pin soi sáng con đường nhỏ trước mặt, dẫn chúng tôi trở lại cổng Hoang thôn.
Tấm bia đá cổ xưa vẫn oai nghiêm chằm chằm nhìn chúng tôi, tôi kéo Xuân Vũ đi qua phía dưới tấm bia đá, tới một bãi đất trống rộng rãi nơi cổng thôn, xung quanh đều là cánh đồng bát ngát hoang vu, phía xa xa chính là biển đen hung tợn.
“Xem ra giống như sa mạc của bán đảo Sinai(2) trong Kinh Thánh”.
Tôi lại ngẩng đầu lên nhìn tấm bia đá sừng sững oai nghiêm, ánh đèn pin dù thế nào cũng không thể soi được lên chữ khắc trên đó, chỉ có thể nhận thấy đường viền của tấm bia đá.
Xuân Vũ chớp chớp ánh mắt long lanh trong đêm tối, cô ấy khẽ nói: “Được – chính ở chỗ này đi, để chúng ta cùng nhau chờ đợi giây phút cuối cùng nhé”.
Lời của cô ấy càng kiên cường bạo dạn thì lại càng khiến tôi cảm thấy tuyệt vọng và không biết nương tựa vào đâu. Gió biển trong đêm đen gào thét qua bãi hoang, vang lên những âm thanh đuổi bắt, may mà chúng tôi đều mặc áo khoác rất dày, đã “vũ trang” từ đầu tới chân.
Lúc này, điện thoại của tôi đã mất sóng, đèn đóm của Hoang thôn cũng gần như tắt hết, chỉ có nhà của trưởng thôn là vẫn le lói ánh đèn. Cảm giác giống như đang ở trong một thời đại khác, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Không sai, biển này, thôn này, núi non hoang vu này, thậm chí cả sao sáng trên bầu trời, đều không phải là vĩnh hằng cổ xưa không hề biến đổi đó sao?
Và cứ như vậy nhẹ nhàng qua đi, thời khắc 12 giờ đêm càng lúc càng gần rồi, tôi thậm chí còn có thể nghe thấy tiếng đập của kim giây trong đồng hồ. Bỗng nhiên, lòng tôi không còn lo lắng nữa, giây phút này dường như đã được định sẵn trong số phận, Xuân Vũ cũng im lặng ngẩng nhìn lên bầu trời, dường như có ai đó đang trút bầu tâm sự với cô ấy trên đó.
Cô ấy có nhớ đến Cao Huyền không nhỉ?
11 giờ đêm rồi, tôi có thể nghe thấy lòng mình đang đếm ngược, đột nhiên cảm thấy đốt ngón tay lại trở nên đau nhức, vậy là tôi từ từ giơ tay lên, chiếc nhẫn ngọc tỏa ra ánh sáng âm u dưới ánh trăng.
“Bầu trời đẹp quá!”
Xuân Vũ thốt lên, cô ấy dường như đã quên mất mình đang ở chốn nào, say sưa với bầu trời đầy sao trên đỉnh đầu. Tôi vẫn nhìn chiếc nhẫn ngọc, trong tầm mắt tôi thời khắc này, nó đã hòa với bầu trời làm một, giống như dải ngân hà cong cong trong chòm sao rực rỡ.
Đúng vậy, ngân hà không phải cũng là một phần của “Hoàn” sao?
Ngón trỏ trên tay trái gần như tê cứng rồi, dường như ngón tay này không thuộc về tôi, mà trở thành một phần của bầu trời sao, bị chiếc nhẫn ngọc đưa lên ngân hà xa xăm.
Nếu như tôi đứng trên cao nhìn xuống thế giới này, vậy thì bề mặt trái đất cũng là một “Hoàn” nho nhỏ, còn mô hình vận hành của 9 hành tinh xoay quanh hệ mặt trời thực ra cũng là do rất nhiều “Hoàn” con hợp thành một “Hoàn” mẹ khổng lồ. Và cả hệ ngân hà rực rỡ cũng chính là “Hoàn” khổng lồ, vô số hệ hành tinh giữa vũ trụ đều đang nhấp nháy trong thời khắc này, thậm chí cả vũ trụ cũng đều là một “Hoàn siêu khổng lồ”.
Dưới bầu trời sao thần bí của Hoang thôn cổ xưa, trước thời khắc cuối cùng mà phán xét giáng xuống, tôi giơ cao chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay lên, nhớ lại định nghĩa về vũ trụ - vũ trụ là sự tổng hòa của hiện tượng vật chất, là sự tổng hợp giữa thời gian và không gian.
Giả định vũ trụ chính là một “Hoàn”, vậy thì không gian bên cạnh chúng ta cũng là một “Hoàn”, thậm chí thời gian trôi qua hàng tỷ năm nay cũng là một “Hoàn”.
Hình tượng của “Hoàn” là tuần hoàn vô hạn, vậy thì không gian và thời gian của chúng ta cũng có thể tuần hoàn, không quan tâm tới điểm đầu cũng không quan tâm tới điểm cuối, hoặc có thể nói là khởi điểm cũng là trung điểm, trung điểm cũng là khởi điểm, chúng ta có thể tới một điểm bất kỳ từ một điểm bất kỳ trên “Hoàn”. Nếu như cũng vì thời gian như “Hoàn”, thì trên lý thuyết chúng ta có thể từ năm nghìn năm trước tới hiện tại, cũng có thể từ hiện tại trở về năm nghìn năm trước, chỉ là vận động theo các phương hướng khác nhau trên “Hoàn” mà thôi.
Đột nhiên, trước mắt tôi hiện lên từng cảnh tượng trong quán trọ Hoang thôn, chỉ cần đeo chiếc nhẫn ngọc này lên là tôi có thể nhìn thấy – thời gian đang chuyển động lặp lại trên “Hoàn”, có thể đưa tôi đi khám phá bí mật của khoảng thời gian nào đó trong không gian cố định.
Chiếc nhẫn ngọc chính là then chốt để thực hiện chuyển động lặp lại đó.
Trong giây phút tôi suy tư nghĩ ngợi, trên không trung lướt qua vài vệt sao sáng, có lẽ là mua sao băng của chòm sao nào đó. Vậy là một cảm giác lạnh buốt thấu tận xương tủy xuyên thấu qua chiếc nhẫn ngọc lan tảo khắp cơ thể tôi.
12 giờ đêm.
1.”Đỉnh viện thâm thâm thậm kỉ hứa”: một câu thơ nổi tiếng trong bài thơ “Bướm yêu hoa” của nhà thơ đời Tống – Âu Dương Tu, đại ý là “Đỉnh viện sâu hun hút, không biết đâu là điểm cuối”.
2.Bán đảo Sinai: là một bán đảo hình tam giác ở Ai Cập, nơi có ngọn núi Sinai, được coi là vùng đất linh thiêng trong Kinh Thánh – ND.